Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên
Đề bài: Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) ghi lại cảm xúc về một bài thơ
Dàn ý viết bài Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên
1. Mở bài:
- Giới thiệu nhân vật kể chuyện và câu chuyện được kể.
Mẫu: Ta là Thánh Gióng, nhờ có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược nên ta đã được vua phong Phù Đổng Thiên Vương và dân làng lập đền thờ ở quê nhà.
2. Thân bài
- Sự ra đời của Thánh Gióng: Khi bà lão đi ra đồng nhìn thấy bàn chân rất to liền đặt bàn chân mình ướm vào, rồi khi về nhà bà liền có thai, 12 tháng sau thì hạ sinh ra ta
- Thánh Gióng khi chưa gặp sứ giả: vì sứ mệnh nên dù đã lên ba tuổi ta cũng không nói, không cười và không đi đứng gì, cứ đặt ở đâu thì ta nằm ở đấy
- Thánh Gióng sau khi gặp sứ giả: Bắt đầu lớn nhanh hơn, ăn mãi không no, cứ đem bao nhiêu đồ ăn ra cũng hết, vừa ăn vừa lớn đến nỗi áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ
- Thánh Gióng đánh giặc Ân: Đón đầu và đánh giết hết lớp giặc này đến lớp giặc khác, đi qua lớp nào là giặc nằm chết như ngả rạ
- Thánh Gióng về trời: Sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, ta một mình một ngựa đứng trên đỉnh núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt rồi cùng ngựa từ từ bay về trời
3. Kết bài:
- Cảm nghĩ của nhân vật kể chuyện
Mẫu: Là người thực hiện sứ mệnh của Ngọc Hoàng, ta cảm thấy rất vui khi được nhìn con dân sống trong yên bình, hạnh phúc và ấm no.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 1
Tôi là Thánh Gióng,sinh ra và lớn lên trong vùng đất Việt, trong thời kỳ đương đại của Hùng Vương thứ sáu, cuộc sống ban đầu của tôi khá đặc biệt. Mẹ tôi đã từng một lần vô tình ướm chân lên một vết chân to trên cánh đồng và kì diệu là từ đó mà bà mang thai. Mười tháng ấp ủ trong bụng mẹ, tôi cuối cùng cũng ra đời vào một ngày trời trong xanh, khiến cha mẹ thật sự háo hức và hạnh phúc. Khi mới sinh, tôi đã là một đứa trẻ khỏe mạnh, tròn trĩnh, bụ bẫm nhưng đặc biệt là tôi chẳng biết nói, chẳng biết đi, chẳng biết ngồi. Điều này khiến ba mẹ lo lắng và e ngại về tương lai của con. Nhưng không ai có thể ngờ rằng, số phận sắp đặt cho tôi những điều kỳ diệu sau này.
Vào thời điểm đó, đất nước ta đang phải đối diện với mối nguy hiểm từ giặc Ân phương Bắc xâm lược. Sự tàn ác và hung ác của giặc khiến vua lo lắng và không biết làm sao để đối phó. Ngài đã ra chiếu tìm kiếm những người tài có thể giúp đất nước đánh bại giặc Ân. Lúc đó, sứ giả đã đến thăm ngôi nhà của tôi. Và khi lần đầu tiên tiếng nói của tôi vang lên, mẹ tôi lập tức đưa tôi ra trước để mời sứ giả vào nhà. Tôi nêu ra yêu cầu của mình, bày tỏ mong muốn được tham gia cuộc chiến chống lại giặc Ân. Với lòng biết ơn, sứ giả đồng ý và hứa sẽ đưa thông tin này đến với vua.
Sau khi sứ giả rời đi, nhờ lòng hỗ trợ của cả làng, tôi đã lớn lên nhanh chóng, trở thành một chàng trai tráng sĩ, oai phong, uy nghiêm. Cuối cùng, khi mọi thứ đã sẵn sàng, tôi đứng dậy, đeo trang bị giáp sắt, cầm gậy sắt, và cưỡi ngựa sắt có thể phun lửa. Tôi dũng mãnh và quyết tâm lao vào trận chiến, giúp đất nước tiêu diệt giặc Ân. Trước sức mạnh bất khả chiến bại của tôi, giặc không thể chống lại và phải chạy trốn.
Tiếp tục đuổi bắt, tôi diệt sạch lũ giặc gian ác, bảo vệ đất nước và nhân dân của mình. Khi gậy sắt của tôi bị gãy, tôi không chùn bước, mà liền nhổ một cành tre ngà mọc ven đường và tiếp tục đấu tranh. Cuối cùng, giặc Ân đã bị xua tan, đất nước được giải phóng hoàn toàn.
Với công lao vĩ đại đó, tôi đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình. Tôi trở về thiên đình, trở thành một vị thần, là nguồn cảm hứng và niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam. Câu chuyện của tôi đã trở thành truyền thuyết, sống mãi trong lòng của mỗi người con Việt.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 2
Tôi là Thánh Gióng, vốn là một vị thần trên trời, được Ngọc Hoàng cử xuống để giúp đỡ những người dân đất Việt dẹp giặc Ân xâm lược bờ cõi. Dù thời gian ở trần gian ngắn ngủi nhưng tôi sẽ không bao giờ quên tình cảm ấm áp mà mọi người đã dành cho tôi.
Ngay từ khi mới chào đời tôi đã là một đứa trẻ đặc biệt. Tôi được sinh ra khi mẹ của tôi đi ra đồng thấy một vết chân to, bà liền ướm thử vào vết chân ấy, nào ngờ về nhà bà mang thai, và đứa bé trong bụng ấy chính là tôi. Mẹ mang thai tôi trong mười hai tháng, khi sinh ra tôi là một đứa bé hết sức khôi ngô, tuấn tú nhưng bố mẹ nhọc công nuôi tôi mà tôi lại chẳng lớn thêm được chút nào, đến ba tuổi vẫn chẳng biết nói, biết cười, biết đi, biết đứng, cứ đặt tôi ở đâu là tôi nằm im ở đó. Bố mẹ lấy làm buồn vì điều ấy lắm, nhưng chưa bao giờ tôi thấy bố mẹ nói những điều nặng nề, chê bai tôi mà vẫn hết mực yêu thương, chăm lo cho tôi.
Năm đó giặc Ân sang xâm lược nước ta, chiến tranh xảy ra liên miên, nhân dân vô cùng cực khổ. Ai cũng mong muốn có được người hiền tài để đánh đuổi lũ xâm lược. Trước thế giặc ngày một mạnh, nhà vua vô cùng ưu phiền, lo lắng, ngài cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi để cứu nước.
Hôm ấy, vẫn như mọi ngày, bố mẹ đi làm đồng trở về, còn tôi được đặt nằm trong nhà, bỗng tôi nghe thấy tiếng sứ giả rao, tôi mừng rỡ vô cùng, bèn gọi mẹ bảo mẹ mời sứ giả nhà. Nghe tiếng tôi gọi, mẹ hết sức ngạc nhiên, bà chết lặng đi, không thể tin rằng đứa con yêu quý của mình biết nói. Chân tay mẹ luống cuống, mẹ lật đật chạy ra đầu cổng mời sứ giả vào nhà.
Sứ giả vào, ông ta muốn gặp ngay người đã gọi mình. Mẹ tôi chỉ về phía góc giường nơi tôi đang nằm ở đó, khuôn mặt ông ta vô cùng sửng sốt, ngỡ ngàng và ông buông một tiếng thở dài, rồi nói: “Ta tìm người hiền tài để cứu nước, chứ đâu tìm một đứa nhóc mới lên ba”. Có lẽ vị sứ giả đang rất bực bội vì nghĩ tôi đang trêu đùa ông, để xóa tan sự nghi ngờ, bực tức của ông, tôi đã đề nghị sứ giả về tâu với vua sắm cho tôi một con ngựa sắt, áo giáp sắt và một cái roi bằng sắt ba ngày sau tôi sẽ lên đường đánh giặc. Trước những gì tôi yêu cầu vị sứ giả vẫn vô cùng hồ nghi, lo lắng, nhưng vì việc nước gấp rút nên ông ta vẫn quay trở về tâu với vua, để nhà vua chuẩn bị.
Sau khi sứ giả ra đi, tôi lớn nhanh như thổi, mỗi ngày cao lên vài thước, ăn cơm không biết no, quần áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Thấy vậy cả dân làng xúm lại đem gạo sang nuôi tôi cùng bố mẹ. Trước tấm lòng yêu thương, đùm bọc của nhân dân trong làng, lòng tôi càng quyết tâm hơn nữa đánh đuổi giặc Ân xâm lược đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọi người.
Sau ba ngày, sứ giả quay trở lại nhà tôi và mang theo đủ những khí giới mà tôi đã yêu cầu. Tôi vươn vai trở thành tráng sĩ mình cao hơn trượng, nhanh chóng mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt và nhảy lên yên ngựa để chặn ngay thế giặc hung hãn đang ùa vào các bản làng thôn xóm. Ngựa hí vang một tiếng rồi phi như bay đến những nơi đang có giặc đốt phá làng mạc nhà cửa. Không chần chừ, tôi lao vào đánh hết lớp này đến lớp khác, dưới sức mạnh của tôi giặc chết như ngả rạ. Nhưng một điều không may, roi sắt của tôi bị gãy, trong lúc chưa biết lấy gì làm vũ khí tôi bỗng thấy những hàng tre bên đường, tôi bèn thúc ngựa chạy nhanh lại, nhổ từng cụm tre tiếp tục tiêu diệt quân thù. Chẳng mấy chốc giặc Ân đã bị đánh bại, kẻ còn sống dẫm đạp lên nhau chạy trốn mong tìm được đường thoát thân. Sau khi tiêu diệt kẻ thù, tôi bỏ lại áo giáp sắt, thúc ngựa chạy về chân núi Sóc và bay trở về trời.
Tôi trở về trời sống cuộc đời an nhàn, nhưng vẫn không quên những tháng ngày được sống trong vòng tay ấm áp của cha mẹ, trong sự đoàn kết, đùm bọc của những người hàng xóm. Một thời gian sau tôi có nghe tin, với những công lao của mình, tôi đã được mọi người phong là Phù Đổng Thiên Vương và cứ đến tháng tư hàng năm mọi người mở hội để tưởng nhớ công ơn của tôi.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 3
Các cháu thân mến ạ! Ta là Thánh Gióng, người năm xưa đã từng một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác và bảo vệ nước non yêu dấu. Hôm nay, ta xin kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ.
Ta sinh ra trong một gia đình nghèo khó, mẹ ta là một bà lão hiền lành và bàu vẫn, tình cờ đã nhặt một vết chân to trên cánh đồng và ướm thử. Kì diệu là từ đó mà mẹ mang thai và mười hai tháng sau đó, ta chào đời. Từ bé, ta đã có dáng vóc khỏe mạnh, nụ cười trong trẻo khiến cha mẹ yêu thương vô cùng. Tuy nhiên, cho đến năm ba tuổi, ta vẫn chẳng biết nói, chẳng biết đi và làm cha mẹ lo lắng.
Thời điểm ấy, giặc Ân hung tàn đang xâm lược nước ta, khiến dân làng lo âu. Thấy tình hình nước nhà nguy cấp, Ngọc Hoàng đã sai ta xuống cõi trần để giúp đỡ dân làng. Ta đầu thai vào một gia đình nông dân hiền lành và được cha mẹ nuôi dưỡng như con của riêng họ. Một ngày, khi nghe thấy sứ giả đi qua tìm người giỏi giúp nước, ta đã bày tỏ ý muốn tham gia cuộc chiến. Sứ giả ban đầu không tin, nhưng khi ta cất tiếng nói, họ đã hiểu ta không phải đứa trẻ bình thường. Sứ giả vội vàng đưa tin về vua và nhận được sự đồng ý.
Từ đó, dân làng đã tận tâm giúp ta chuẩn bị đồ nghề chiến đấu. Ta đã trở thành một chàng trai tráng sĩ cao lớn, sẵn sàng đối mặt với giặc Ân. Cuối cùng, khi cả làng quân báo sẵn sàng, ta cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, và cầm gậy sắt. Đúng lúc đó, dân làng đồng loạt tiễn ta ra trận với lòng tin tưởng và hy vọng lớn lao. Ta không quên nhìn về phía cha mẹ già, những người yêu thương ta hết lòng, và lời hứa sẽ không phụ công đức của họ.
Cuộc đánh giặc diễn ra gay go, nhưng ta đã chiến thắng quả cảm và dũng mãnh. Lũ giặc Ân tan tác, đất nước được giải phóng, cả làng đều hân hoan vui mừng. Ta rất tự hào vì đã đóng góp cho chiến thắng của dân tộc, nhưng trong lòng ta vẫn bàng hoàng khi phải rời xa người thân yêu.
Sau khi hoàn thành sứ mệnh, ta được phong là Phù Đổng Thiên Vương. Tuy nhận danh hiệu và những quà tặng từ vua, nhưng điều quý giá nhất trong trái tim ta là hạnh phúc, bình yên và tình thương từ dân làng. Ta đã cống hiến cuộc đời mình cho sứ mệnh bảo vệ đất nước, và từ đó trở thành truyền thuyết, vĩnh viễn sống trong lòng những người dân Việt Nam. Hãy luôn tự hào về lịch sử dân tộc và giữ mãi ngọn lửa yêu nước trong lòng các cháu nhé!
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 4
Ta là Thánh Gióng - vị anh hùng nổi tiếng trong lịch sử nước ta, nhờ có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược nên ta đã được vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương và được dân làng lập đền thờ tại quê nhà. Hôm nay, ta muốn kể lại chiến tích đánh đuổi giặc Ân năm đó, để giữ mãi trong lòng tình yêu và tự hào về đất nước hùng tráng.
Năm ấy, vào thời kỳ của Hùng Vương thứ sáu, Ngọc Hoàng đã gửi ta xuống giúp dân chống giặc. Ta đến làng Gióng, vào một gia đình nghèo khó nhưng phúc đức của hai ông bà lão vừa chăm chỉ làm ăn lại vừa ước ao có đứa con. Ngọc Hoàng ban phép màu, tạo ra đôi chân to lạ thường cho bà lão khiến bà liền có thai và sau 12 tháng, ta ra đời. Mặc dù đã lớn ba tuổi nhưng ta chưa nói, không cười và không đi đứng, chỉ biết nằm ở đâu thì nằm ở đó. Nhưng khi giặc Ân xâm lược, ta không thể im lặng nữa. Ta nói với mẹ: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây." Khi gặp sứ giả, ta nói: "Hãy đưa tôi một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này." Sứ giả kinh hãi nhưng sau đó vui mừng và truyền lệnh cho thợ làm nhanh những vũ khí ta yêu cầu.
Để sẵn sàng cho sứ mệnh, ta ăn mãi không no, vượt qua đủ khó khăn để trở thành một tráng sĩ đầy oai phong và lẫm liệt. Ngày đánh giặc, ta cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt và phi như bay đến chiến trận. Ta không chờ giặc tấn công mà tự mình đối mặt và đánh đuổi hết lũ giặc này đến lũ giặc khác. Bằng sức mạnh và sự dũng cảm, ta gieo rắc nỗi kinh hoàng vào đám giặc, khiến chúng tan rã và bỏ chạy trốn. Những ngày sau đó, ta tiếp tục đánh giặc, gieo ánh sáng tự do cho đất nước. Sau chiến công vĩ đại, ta vinh dự được vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và được dân làng lập đền thờ, nơi mà mỗi năm cả làng tổ chức hội lớn để tôn vinh công lao của ta.
Thành công của ta không chỉ nhờ vào sức mạnh và võ nghệ, mà còn nhờ lòng tin và đoàn kết của nhân dân. Đất nước ta luôn tự hào về một thời kỳ hào hùng, với những anh hùng vĩ đại như ta - Thánh Gióng. Ta tự hào đã làm phần công lao nhỏ bé của mình để giữ gìn hòa bình và hạnh phúc cho đất nước.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 5
Ta là Thánh Gióng, sinh ra và lớn lên ở nước Việt vào đời Hùng Vương thứ sáu. Mẹ của ta vì ướm thử chân lên một vết chân rất to ở trên đồng mà mang thai. Phải mười tháng sau đó, ta mới được ra đời. Lúc mới sinh, ta trông rất khôi ngô, bụ bẫm nên bố mẹ thích lắm. Nhưng mãi đến khi ba tuổi, ta vẫn chẳng biết nói biết cười, chẳng biết đi biết chạy, đặt đâu là ngồi đấy khiến cho cha mẹ hết sức phiền lòng.
Lúc bấy giờ, giặc Ân ở phương Bắc lại đem quân xâm lược nước ta. Thế giặc hùng mạnh khiến nhà vua hết sức lo lắng. Vậy nên ngài đã ra chiếu chỉ cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài. Khi sứ giả đi ngang qua nhà ta, thì ta đã cất tiếng nói đầu tiên của cuộc đời mình để nhờ mẹ mời sứ giả vào nhà. Sau đó, ta đã nêu ra những yêu cầu của mình cho sứ giả. Và yêu cầu ông ấy chuẩn bị sớm để ta ra trận đánh giặc. Nghe ta nói, sử giả rất vui mừng và đồng ý ngay.
Từ sau khi sứ giả rời đi, ta bắt đầu lớn lên nhanh chóng. Cơm vừa ăn đã no, áo vừa mặc đã sứt chỉ. Người dân trong làng đã góp gạo thổi cơm chung để nuôi ta khôn lớn. Sau khi đã tích lũy đủ năng lượng, ta đứng dậy, vươn vai một cái rồi hóa thành tráng sĩ cao lớn, oai phong lẫm liệt. Đúng lúc ấy, sứ giả cũng mang những món đồ mà ta dặn đến. Mặc áo giáp sắt, cầm gậy sắt, ta cưỡi lên chú ngựa sắt biết phun lửa và lao thẳng về phía địch. Trước sức mạnh như vũ bão của ta, giặc chết như ngả rạ, kéo nhau bỏ chạy tan tác. Thừa thắng xông lên, ta cưỡi ngựa đuổi theo, càn quét hết lũ giặc gian ác. Khi gậy sắt bị gãy, ta liền nhổ một bụi tre ngà mọc ở ven đường, rồi tiếp tục diệt giặc. Sau khi đảm bảo cả đất nước đã sạch bóng quân thù, ta mới dừng lại và tiến về đỉnh núi. Cởi giáp sắt để lại trên mặt đất làm tin cho nhân dân, ta một mình cưỡi ngựa bay về trời.
Sứ mệnh to lớn của mình đã hoàn thành, nên ta vô cùng thanh thản để trở về thiên đình phụng mệnh với Ngọc Hoàng.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 6
Ta là Phù Đổng Thiên Vương, hay còn được người dân yêu thương gọi là Thánh Gióng.
Năm đó, ta được giáng sinh vào một gia đình sống hiền lành, tốt bụng. Mẹ của ta đi ra vườn, ướm thử chân mình vào một cái vết chân to mà mang thai. Sau mười hai tháng thì sinh ra ta. Suốt ba năm đầu đời, ta chỉ nằm một chỗ, không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi biết chạy. Một hôm nọ, nghe tin sứ giả đại diện triều đình đi tìm người tài giúp nước chống giặc Ân, thì một nguồn sức mạnh bộc phát trong toàn thân ta. Ta đã cất câu nói đầu tiên của đời mình là nhờ mẹ mời sứ giả vào để xin đi đánh giặc.
Sau hôm đó, ta bắt đầu lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc đã sứt chỉ. May mắn, ta được dân làng tin tưởng, yêu thương nên góp gạo thổi cơm nuôi lớn. Ít lâu sau, sứ giả mang gậy sắt, giáp sắt, ngựa sắt đến cho ta theo yêu cầu. Ta liền vươn vai một cái biến thành tráng sĩ cao lớn. Mặc giáp sắt, cầm gậy sắt ta cưỡi lên chú ngựa sắt rồi lao ra chiến trường. Một mình ta dũng mãnh xông thẳng vào quân địch, đánh cho chúng hoảng sợ, bỏ chạy tan tác. Giữa chừng gậy gãy, ta nhổ khóm tre ngà để làm vũ khí đánh giặc. Mãi đến khi đất nước sạch bóng quân thù, ta mới dừng lại, cởi giáp sắt để trên đỉnh núi rồi bay về trời.
Vua và dân biết ơn ta, nên phong ta làm Phù Đổng Thiên Vương và cho dựng đền thờ. Đến nay, nhân dân vẫn nhớ ơn ta và tổ chức hội tưng bừng hàng năm.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 7
Ta là Thánh Gióng nhờ có công đánh đuổi giặc Ân xâm lược nên ta đã được vua phong ân Phù Đổng Thiên Vương và được dân làng lập đền thờ ở quê nhà. Hôm nay ta sẽ kể lại chiến tích đánh đuổi giặc Ân năm đó.
Năm đó vào đời Hùng Vương thứ sáu, Ngọc Hoàng cử ta xuống giúp dân đánh đuổi quân xâm lược nên đã cho ta đầu thai vào một gia đình ở làng Gióng, gia đình chỉ có hai vợ chồng ông lão vừa chăm chỉ làm ăn lại vừa phúc đức. Hai ông bà ao ước có đứa con nhưng mãi không có, Ngọc Hoàng mới ban phép màu tạo ra bàn chân to lạ thường, khi bà lão đi ra đồng nhìn thấy bàn chân rất to liền đặt bàn chân mình ướm vào, rồi khi về nhà bà liền có thai, 12 tháng sau thì hạ sinh ra ta. Hai ông bà rất mừng rỡ trước sự khôi ngô tuấn tú của ta, nhưng buồn thay vì sứ mệnh nên dù đã lên ba tuổi ta cũng không nói, không cười và không đi đứng gì, cứ đặt ở đâu thì ta nằm ở đấy. Đến một ngày trước sự xâm lược của giặc Ân, nhà vua lo lắng sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước, đây cũng là lúc ta phải thực hiện sứ mệnh của mình, khi nghe được tiếng rao ta liền cất tiếng nói, nói với mẹ rằng: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Khi gặp sứ giả ta liền nói với ông ta: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Ông sứ giả này nghe ta nói vậy kinh hãi hồi lâu nhưng rồi liền mừng rỡ và về tâu lại lời của ta cho vua nghe, vua nghe được tin liền truyền lệnh cho thợ ngày đêm làm thật nhanh những đồ mà ta đã yêu cầu.
Để chuẩn bị cho sứ mệnh đánh đuổi giặc sắp tới, ta bắt đầu lớn nhanh hơn, ăn mãi không no, cứ đem bao nhiêu đồ ăn ra cũng hết, vừa ăn vừa lớn đến nỗi áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Ta ăn nhiều tới nỗi hai ông bà lão có làm ra không đủ nuôi ta, phải nhờ cả bà con làng xóm, khi ấy vì sự nghiệp cứu nước, bà con đã rất vui lòng góp gạo để nuôi ta, ai cũng đặt hy vọng vào ta sẽ giết được giặc, cứu đất nước. Đến một ngày, nhận được tin giặc đã đến chân núi Trâu, tình thế vô cùng nguy cấp, người dân ai cũng hoảng hốt, khiếp sợ. Hay thay vừa lúc đó sứ giả đã mang đến cho ta ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt, đã đầy đủ tư trang, ta liền vùng dậy vươn vai một cái trở thành một tráng sĩ, lúc đó mình ta cao hơn trượng rất oai phong và lẫm liệt. Ngắm con ngựa sắt rồi ta bước lên vỗ vào mông ngựa, con ngựa hí dài những tiếng vang dội khắp đất trời.
Mặc trên mình áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, ta nhảy lên ngựa, ngựa phun ra lửa rồi phi như bay đến nơi có giặc. Ta không chờ giặc tấn công mà đến đón đầu và đánh giết hết lớp giặc này đến lớp giặc khác, đi qua lớp nào là giặc nằm chết như ngả rạ. Đang chiến trận bỗng roi sắt của ta gãy, không còn vũ khí, ta nhìn xung quanh thấy có khóm tre bên đường liền nhổ cả cụm tre lên quật vào đám giặc. Lũ giặc trước sức mạnh của ta bị đánh cho tan tành, đám quân tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, ta đuổi theo đến tận chân núi Sóc nhưng vẫn có vài tên giặc trốn vào hẻm núi tìm đường trốn về nước. Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân vui sướng hân hoan, sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, ta một mình một ngựa đứng trên đỉnh núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt rồi cùng ngựa từ từ bay về trời. Vì nhớ đến công ơn của ta nên vua phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương và còn lập đền thờ của ta ngay tại quê nhà làng Gióng, mỗi năm cứ đến tháng tư cả làng lại ăn hội rất to.
Là người thực hiện sứ mệnh của Ngọc Hoàng, ta cảm thấy rất vui khi được nhìn con dân sống trong yên bình, hạnh phúc và ấm no. Chiến công này phần chính vẫn là nhờ vào lòng tin và sức mạnh đoàn kết của nhân dân.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 8
Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!
Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hóa thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.
Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:
- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!
Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mời sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.
Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn bao nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.
Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gãy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.
Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gãy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.
Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 9
Ta là Thánh Gióng, người con của làng Gióng và cũng là người anh hùng có công dẹp giặc Ân đem lại thái bình cho đất nước dưới thời Hùng Vương thứ sáu.
Thủa ấy, giặc Ân thường xuyên sang xâm chiếm bờ cõi nước Việt. Nhân dân phải chịu nhiều đau thương. Nỗi thống khổ của nhân dân Lạc Việt vang lên tận trời xanh. Ngọc Hoàng thương xót muôn dân trăm họ nên đã cử ta xuống trần giúp dân đánh giặc, giữ nước. Tuân lệnh Người, ta lập tức lên đường. Nhìn khắp nhân gian, từ nơi này sang nơi khác mà ta vẫn chưa tìm thấy gia đình ưng ý để đầu thai. Một hôm, đến làng Phù Đổng, ta may mắn gặp được một cặp vợ chồng ông lão phúc hậu và rất chăm chỉ trong làng trong xóm ai ai cũng yêu mến và kính trọng. Ấy vậy mà hai vợ chồng vẫn chưa có được một mụn con. Biết mỗi sáng bà lão thường ra đồng làm việc nên ta đã hoá phép thành một dấu chân to in trên mặt đất. Đúng như ta tiên đoán. Hôm sau, bà lão ra đồng, trông thấy vết chân dị thường, không khỏi tò mò, bà liền đặt chân mình lên ướm thử. Sau buổi đó bà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà lão sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô và bụ bẫm. Đứa trẻ đó chính là ta. Tất cả mọi người trong làng ai cũng vui lây cho gia đình bà lão. Do mệnh trời ban xuống nên từ khi lọt lòng đến lúc ba tuổi ta không nói không cười và cũng không biết đi. Mẹ ta lo buồn lắm.
Bấy giờ giặc Ân sang xâm phạm bờ cõi nước Việt. Thế giặc mạnh và hung ác. Đi đến đâu chúng gieo tai ương đến đó. Nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi khắp nơi rao tim người tài giỏi cứu nước, cứu dân. Nghe được tiếng sứ giả, ta biết là thời điểm mình ra giúp dân đã tới. Ta bèn cất tiếng nói: “Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con thưa chuyện.” Mẹ ta ngạc nhiên và mừng rỡ, bà bèn chạy ngay đi gọi sứ giả. Gặp được sứ giả, ta mừng lắm, bèn nói: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan nát lũ giặc này.”
Nghe ta nói xong, sứ giả lấy làm kinh ngạc và mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua cho là trời giúp mình nên ngay lập tức sai người làm gấp những thứ ta dặn.
Để có đủ sức đánh tan giặc Ân, kể từ đó ta ăn rất khoẻ. Ta ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ nghèo không đủ sức nuôi ta, bà con hàng xóm biết chuyện bèn cùng nhau góp sức mong ta sớm đánh đuổi giặc Ân, cứu nhân dân khỏi biển khổ. Người cho gạo, người cho vải, người cho cà. Nhờ công sức của tất cả mọi người, ta lớn nhanh như thổi. Chẳng mấy chốc ta đã vươn vai biến thành một tráng sĩ khôi ngô tuấn tú, thân hình vạm vỡ, chân tay rắn chắc. Đúng khi ấy thì sứ giả đem các thứ ta cần đến. Ta liền mặc ngay áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, phi ngựa sắt ra sa trường sau khi từ biệt quê hương.
Cưỡi trên mình ngựa sắt oai dũng, ta xông thẳng vào trận địa. Đem hết sức mạnh trời ban, ta đánh thẳng vào hàng ngũ của địch. Chúng kinh hồn bạt vía, dẫm đạp lên nhau mà chết. Giặc chết như rạ, tướng giặc kinh sợ bèn tìm đường tháo chạy. Ta vội thúc ngựa đuổi theo, bỗng nhiên roi sắt gãy. Nhìn thấy bụi tre gần đó, ta bèn nhổ gốc quật vào đám giặc. Chỉ một lát sau, giặc tan vỡ. Ta đuổi đến tận chân núi Sóc cho đến khi không còn bóng một tên giặc nào. Nhiệm vụ đã hoàn thành, ta bèn phóng ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cưỡi ngựa sắt về trời bẩm báo với Ngọc Hoàng.
Nhà vua nhớ công ơn của ta bèn phong ta làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại ngôi làng mà ta sinh ra - làng Gióng. Hiện nay, tháng tư hàng năm, người dân nơi đây lại tưng bừng mở hội đón ta về thăm lại quê xưa và cũng để khắc ghi mãi chiến công này. Những bụi tre trước kia ta dùng làm vũ khí đánh giặc, bị ngựa phun lửa cháy nên trở nên vàng óng, những vết chân ngựa để lại giờ đã trở thành những hồ ao liên tiếp.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 10
Ta là Thánh Gióng, con thứ hai của Ngọc Hoàng thượng đế, hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe câu chuyện ngày xưa ta đã đánh đuổi giặc Ân như thế nào.
Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, vua cha cử ta xuống giúp dân đánh đuổi. Muốn biết dân chúng dưới trần đánh giặc ra sao, người khuyên ta nên đầu thai xuống trước vài năm. Ta nghe lời, bèn chọn một gia đình nghèo khó, lại hiếm muộn đường con cái, đó là một lão nông nghèo khó ở làng Phù Đổng. Hai vợ chồng già cả mà lại không có con cái làm vui, biết hôm ấy bà già ra thăm đồng, ta bèn hóa phép làm một vết chân kỳ dị. Quả nhiên bà lão thấy lạ bèn ướm thử chân vào, thế là ta nhân đó hóa luôn thành bào thai trong bụng bà cụ.
Hai ông bà mừng lắm, đủ ngày đủ tháng thì ta ra đời. Để nghe ngóng lòng người, ta quyết không nói không rằng suốt ba năm, mặc cho bố mẹ tha hồ dỗ dành. Nước mắt bà cụ chảy tràn như suối, ta biết bà buồn lắm nhưng đã định từ trước như vậy nên suốt ngày nằm im, quay mặt vào vách.
Giặc kéo đến, chúng đi hàng đàn hàng lũ, thế rất mạnh, quan quân triều đình đánh không nổi. Khắp nơi náo loạn, vua bèn cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài để giúp nước. Tiếng xứ giả vang khắp nơi, thời khắc quyết định đã đến. Ta vươn vai đứng dậy rồi nói với mẹ.
Mẹ ra bảo sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Mẹ ta lúc đang chuẩn bị quang gánh thép dân làng đi chạy giặc, nghe ta nói thế thì vô cùng sửng sốt và mừng rỡ, vội ra gọi sứ giả vào.
Sứ giả vào, thấy ta chỉ là một cậu bé con, có ý coi thường và thất vọng.
Thằng bé này thì đánh sao nổi giặc?
Thấy ông ta nói vậy, ta quyết định dọa ông ta để chơi. Với một tay lấy chiếc cối đá, ta chỉ hất khẽ một cái «huỵch», chiếc cối đã rơi sát bên chân ông ta. Sứ giả biết ta không phải là người thường, vội quỳ xuống nói.
Xin thần tiên thứ tội. Người cần binh khí gì và thêm bao nhiêu quân đánh giặc ạ?
Ta cho sứ giả đứng dậy rồi bảo.
Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, hẹn ngày mai phải xong.
Sứ giả vội lĩnh ý ra về. Ta quay sang nói với mẹ.
Mẹ chuẩn bị thật nhiều cơm cho con ăn, để con còn lấy sức đi đánh giặc.
Mẹ ta nấu một nồi cơm đầy, ta chỉ ăn đánh vèo một cái đã hết mà vẫn chưa thấm tháp gì. Mẹ bối rối vì trong nhà hết sạch gạo, may sao bà con hàng xóm biết chuyện, các nhà đều về nấu cơm mang sang. Bảy nong cơm, ba nong cà, ta cũng chỉ ăn loáng cái đã hết. Ăn xong, ta vươn mình đứng dậy, bước ra sân thì người đã quá mái nhà. Mọi người ai lấy làm mừng rỡ, vội về chuẩn bị dao, gậy để đi đánh giặc.
Hôm sau sứ giả mang đến một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt và một chiếc roi sắt nhỏ. Nón thì ta đội không vừa, roi sắt thì vừa đập xuống đã gãy, ngựa sắt tung bờm hí vang nhưng với ta lúc này, trông nó không khác một con mèo nhỏ. Ta bảo sứ giả.
Ngươi về rèn ngay một con ngựa to gấp mười lần con này, một chiếc nón thật to và một chiếc roi thật lớn.
Sứ giả vâng lệnh, nhà vua biết tin bèn tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, tất cả thợ giỏi đều được vời về cung để kịp rèn cho ta một con ngựa sắt to đúng bằng một con voi, một chiếc nón to đúng bằng một tán cây đa và một cây gậy to đúng bằng cột đình.
Mọi thứ đã có đủ. Ta đội nón sắt, cầm gậy sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt vươn cổ hí lên một tiếng, lửa phun rừng rực đốt cháy trụi cả một đám tre đầu ngõ.
Lạy mẹ con đi!
Ta nói rồi ra roi, lên ngựa. Ngựa tung bờm phi nước kiệu đưa ta thẳng đến chỗ quân giặc, khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy (sau này được gọi là tre đằng ngà). Vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ (bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng).
Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát? Ngựa ta phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng roi sắt ta vung ra một lần thì có cả chục thằng bị hất tung lên trời. Những thằng sống sót đều bị dân chúng đi theo tiêu diệt cả.
Bỗng «rắc» một cái, chiếc roi sắt gãy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ định hè nhau xông lại. Sẵn các bụi tre bên đường, ta vươn mình nhổ bật lên quật túi bụi xuống đầu giặc. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tan tác không còn một mống.
Giặc tan, vua cho sứ giả ra tận nơi, phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương, mời về kinh thành để ban thưởng. Nhưng từ trên mây cao Ngọc Hoàng đã cất tiếng gọi ta rồi.
Gửi dân lời chào bố mẹ, ta một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, ta cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao, ngựa sắt cất cánh từ từ bay vào không gian.
Thế đấy các cháu ạ. Nhiều người hỏi ta sao không ở lại mà lãnh thưởng, ta đã bảo họ rằng: Ta tuy có tiêu diệt được nhiều quân giặc thật, nhưng chiến công này trước hết thuộc về cha mẹ nuôi ta, về dân làng Phù Đổng đã góp gạo, góp cà nuôi ta khôn lớn, về nhân dân khắp nơi đã không quản hiểm nguy, theo ta đi đánh đuổi quân thù.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 11
Tôi được sinh ra trong một dân tộc giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Từ bao đời, bao thế hệ đều có những người anh hùng xả thân bảo vệ non sông, độc lập của dân tộc. Là một người con của quê hương Việt Nam nên tôi cũng mang trong mình tình yêu, sự hiên ngang, bất khuất không chịu nhường bước trước kẻ thù. Khi giặc Ân kéo vào nước ta, trước sự ủng hộ, động viên của bố mẹ, hàng xóm và con người Việt Nam thì tôi đã lên đường đánh giặc, đánh đuổi quân Ân, mang lại độc lập cho dân tộc. Và mọi người thường gọi tôi với cái tên Thánh Gióng.
So với những đứa trẻ cùng trang lứa khác thì tôi có sự khác biệt, bởi nếu những đứa trẻ khác đến ba tuổi thì có thể cười đùa và nói những câu đơn giản. Nhưng khi đến ba tuổi thì tôi lại hoàn toàn trái ngược, tôi không cười, không nói, điều này trở thành câu chuyện kì lạ truyền tai trong hàng xóm, láng giềng. Còn bố mẹ tôi cũng rất buồn phiền, lo lắng, nhưng không vì vậy mà chán ghét hay ruồng bỏ tôi, bố mẹ tôi dành trọn tình yêu, sự quan tâm để nuôi dưỡng tôi mỗi ngày. Thời đại tôi sống có nhiều biến loạn, đặc biệt lên trong số đó, chính là nạn giặc ngoại xâm.
Năm ấy, quân Ân ở Trung Hoa kéo sang xâm lược với mưu đồ thôn tính đất nước ta, cũng vì vậy mà cuộc sống của người dân trở nên vô cùng khốn khổ, chúng hoành hành ngang ngược, bóc lộc, cướp bóc tài sản của nhân dân một cách vô lí. Chúng coi thường pháp luật, hiên ngang bành trướng thế lực của mình. Trước sự hống hách của quân giặc, sự lầm than khổ sở của người dân, triều đình phong kiến đã gấp rút cử sứ giả đi khắp nơi trong nước để tìm kiếm những người tài giỏi, những con người tài trí có thể giúp nước vượt qua nạn ngoại xâm.
Khi sứ giả đi ngang qua làng, tiếng nói vang vọng khắp các ngõ ngách, nó khẩn khiết đến mức tôi vốn là một đứa trẻ không nói không cười dù đã lên ba lần đầu cất tiếng nói. Tôi còn nhớ rất rõ, câu nói đầu tiên của cuộc đời mình, đó là “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”, lúc ấy mẹ tôi rất bất ngờ, vui sướng vì đứa con của mình cuối cùng cũng có thể cất tiếng nói như bao đứa trẻ bình thường khác, nhưng cùng với đó là sự hoảng sợ, lo lắng, vì tội khi quân là tội mất đầu. Ban đầu mẹ tôi còn do dự nhưng trước sự thuyết phục da diết của tôi thì cuối cùng mẹ cũng ra ngoài mời sứ giả vào.
Khi sứ giả vào nhìn thấy tôi cũng bất ngờ không kém, bởi có lẽ người trong tưởng tượng của vị sứ giả này hoàn toàn trái ngược, không phải một người anh hùng cao lớn mà lại là một đứa trẻ. Nhưng không để trạng thái hoài nghi, đánh giá ấy diễn ra lâu, tôi đã chủ động yêu cầu sứ giả về tâu với nhà vua làm cho tôi mộ bộ áo giáp sắt, một chiếc mũ sắt, một cây gậy sắt, một con ngựa sắt, ba ngày sau tôi sẽ lên đường đánh giặc. Sau đó dù vẫn còn có những nghi ngờ nhưng việc nước gấp rút, vi sứ giả nọ cũng nhanh chóng trở về kinh thành tâu vua.
Từ ngày quyết định lên đường đánh giặc cứu nước, tôi ăn bao nhiêu cũng không đủ no, uống bao nhiêu cũng không hết khát, người lớn nhanh như thổi, nhưng cơm trong nhà tôi cũng vì vậy mà nhanh chóng cạn kiệt. Nghe tin tôi xung phong ra trận, những người hàng xóm đã chung tay góp cơm, góp gạo nuôi lớn tôi. Điều này làm cho tôi rất cảm kích và cảm nhận được sự ấm áp của tình người, cũng vì vậy mà quyết tâm chiến thắng giặc Ân, mang lại tự do, hòa bình cho mọi người càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Đúng ngày hẹn, sứ giả mang áo giáp sắt, ngựa sắt đến cho tôi, không hề chần chừ, tôi mặc trang phục, cưỡi ngựa sắt một đường phi ra trận mặc, quyết chiến cùng giặc Ân, cuộc chiến này tôi dù đơn phương độc mã nhưng từ đầu đến cuối, người làm chủ trận địa vẫn là tôi, tôi dùng gậy sắt đánh bại những kẻ cướp nước. Trước sức mạnh phi thường, ý chí sắt đá của tôi, quân giặc hoảng sợ mà bỏ chạy toán loạn. Trong cuộc chiến bỗng nhiên cây gậy sắt bị gãy, không hề lao lung, tôi đã tiện tay nhỏ khóm tre bên đường làm vũ khí đánh giặc, cũng vì vậy mà lũ giặc bị đánh đuổi khỏi bờ cõi không còn chút dấu vết.
Sau khi chiến thắng, mặc dù muốn về chung vui cùng bố mẹ, hàng xóm nhưng tôi vốn không phải người thường, tôi là người nhà trời, được cử xuống trần gian để cứu dân cứu nước khỏi nạn ngoại xâm, khỏi ách đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Vì vậy mà ngay khi hoàn thành trong nhiệm vụ của mình tôi đã cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn cùng ngựa bay lên trời.
Được trải nghiệm cuộc sống tuy nghèo đói nhưng ấm áp tình cảm, dù gian khó nhưng vẫn ngoan cường, đoàn kết của người dân là một trong những dấu ấn khó quên trong cuộc đời của tôi. Hoàn thành nhiệm vụ cứu dân cứu nước lại là một trong những chiến công tôi cảm thấy vui sướng và tự hào nhất.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 12
Có lẽ bất kì người dân Việt Nam nào cũng nhớ tới tôi: Thánh Gióng – một trong những tứ bất tử của dân tộc. Cả cuộc đời của tôi là một câu chuyện huyền thoại hay chính bước đi cuả lịch sử đã huyền thoại hoá tất cả!
Bố mẹ tôi cũng là những người dân Việt bình thường như biết bao nhiêu người khác. Thậm chí, họ còn không được hưởng niềm hạnh phúc bình thường bởi họ đã về già mà vẫn không có nổi một mụn con. Ngày nào bố mẹ tôi cũng cầu trời khấn Phật cho họ một đứa trẻ để vui cửa vui nhà, động viên họ lúc tuổi đã xế chiều. Hình như trời Phật đã thấu hiểu mơ ước của hai vợ chồng. Một hôm, mẹ tôi đi làm đồng về muộn, bà phát hiện ra một dấu chân lạ. Nó có độ lớn khác thường. Tò mò, bà đặt chân ướm thử. Không ngờ, về nhà, bà lại thụ thai. Nhưng thật kì lạ, cái thai đã qua chín tháng mười ngày mà vẫn không chịu ra. Ở trong bụng mẹ, tôi thấu hiểu hơn ai hết nỗi lo lắng của cha mẹ tôi.
Đúng mười hai tháng sau tôi mơi ra đời. Ngày tôi chào đời, những giọt nước mắt hạnh phúc đã lăn dài trẽn gương mặt nhăn nheo của cha mẹ. Theo thời gian tôi cứ lớn lên. Nhưng ki lạ thay đã ba năm trôi qua mà tôi vẫn không biết nói biết cười, không biết bò chứ chẳng nói đến biết đi như những đứa trẻ bình thường khác. Suốt ngày tôi chỉ trơ trơ nằm ở giường. Niềm vui lại tắt ngấm trong căn nhà nghèo khổ của cha mẹ tôi. Hai ông bà nhìn nhau thở dài không nói. Nhưng họ không nỡ vứt bỏ đứa con mà họ ao ước cả cuộc đời. Hai ông bà vẫn nhịn ăn, nhịn mặc lấy tiền nuôi tôi. Hàng xóm láng giềng nhìn tôi không khỏi ái ngại cho ông bà già tuổi đã gần đất xa trời. Nhưng họ vẫn hết lòng động viên, an ủi.
Năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Thế giặc rất mạnh, đất nước đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc. Khắp mọi ngõ ngách trong làng, ai ai cũng lo sợ. Nhà vua không còn cách nào khác là cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài giúp nước. Qua biết bao vùng đất làng quê mà người hiền tài vẫn vắng bóng. Sứ giả đù rất buồn nhưng vẫn khộng nản bước. Rồi ngài cũng dừng lại ở làng quê hẻo lánh mà nhỏ bé của làng chúng tôi. Vừa nghe tiếng loa thông báo ngoài đình, cậu bé mà bao năm nay không biết nói biết cười bỗng chốc cất tiếng nói làm cha mẹ tôi hoảng hốt bất ngờ và lo sợ. Tôi gọi mẹ đi tìm sứ giả vào cho tôi. Mẹ tôi bước đi mà trong lòng không hết bối rối.
Bỗng nhiên lúc đó, tôi cảm nhận được sự thay đổi lớn lao trong mình. Tôi bỗng chốc trở thành một con người khác hẳn. Tôi thấy được sự trưởng thành ghê gớm trong mình. Tiếng nói đầu tiên không phải là tiếng nói bình thường như bao đứa trẻ khác mà tiếng nói của lòng yêu nước. Khi sứ giả vào, ông không tin nổi mắt mình khi một đứa trẻ lên ba vẫn còn ngồi trên giường xin đi đánh giặc. Tôi nói với sứ giả: “Ông về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một roi sắt ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Khi nghe câu nói này của tôi, sứ giả như tìm được một niềm tin nơi tôi. Ông trở về kinh thành ngay. Những ngày sau đó, cả làng tôi ai cũng bận rộn.
Từ hôm sứ giả trở về tôi ăn khoẻ khác thường. Ba nong cơm, chín nong cà. Cha mẹ không đủ thóc gạo nuôi tôi. Mọi nhà không ai bảo ai đều mang thóc gạo, ngô khoai đến cho cha mẹ tôi. Ai cũng mong tôi ăn thật nhiều để lấy sức giết giặc. Những ngày đó ở kinh đô, trong các xưởng rèn, những người thợ ngày đêm rèn binh khí theo lời dặn của tôi. Giặc tiến tới đâu, cả dân tộc tôi ngày đêm hừng hực tinh thần giết giặc đến đó. Rồi cũng đến ngày sứ giả mang binh khí đến. Tôi đứng dậy, vươn vai và trong phút chốc trở thành một tráng sĩ khôi ngô, tuấn tú, dũng mãnh vô song. Mọi người không khỏi ngạc nhiên và vui mừng. Tôi mặc áo sắt, đội mũ sắt, tay cầm roi sắt nhảy lên mình con ngựa bằng sắt. Chú ngựa vô hồn trong nháy mắt đã tung vó, hí vang. Tôi tạm biệt cha mẹ, tạm biệt dân làng dẫn quân đi giết giặc.
Đoàn quân hùng hậu tiến ra trận trong hào khí ngút trời. Chúng tôi đi tới đậu, giặc chết tới đó. Tôi phi ngựa, vung roi quật lũ giặc. Ngựa hí vang phun ra lửa thiêu đốt quân thù. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tôi nhổ những cụm tre đằng ngà bên đường tiếp tục đánh giặc. Quân giặc hoảng sợ, tháo chạy. Thừa thắng, quân ta xông lên, đuổi lũ giặc ra khỏi bờ cõi. Đất nước trở lại thanh bình. Tôi không kịp trở về nhà tạm biệt mẹ. Đó là nỗi buồn mà có lẽ không bao giờ nguôi ngoai trong lòng tôi. Tôi phi ngựa lên đỉnh núi cao của làng rồi cởi bỏ lại áo giáp sắt, mũ sắt, cúi lạy quê hương rồi một người một ngựa từ từ bay về trời.
Đã biết bao nhiêu năm trôi đi cũng là hàng thế kỉ dưới trần gian, tôi vẫn không quên những ngày xuống trần làm người của mình. Nhiều lúc, tôi vẫn nhìn về phía quê hương với nỗi niềm khôn tả, thầm mong cuộc sống hoà bình, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam yêu dấu của tôi.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 13
Vào đời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh đuổi xong giặc Ân sang xâm lược bờ cõi Văn Lang, ta đã bay về trời.
Vừa về tới cổng ta thấy mọi cảnh vật đều rất lạ so với hạ giới. Ngay lúc ấy, ta được vào yết kiến Ngọc Hoàng. Người có hỏi ta:
- Ở dưới trần gian con khoẻ chứ? Sinh hoạt ở dưới đó ra sao? Cơm ở trần gian có ngon hơn ở trên này không? Cảnh trí dưới đó ra sao, có đẹp bằng thượng giới - không con?
- Dạ thưa ngài! ở dưới trần gian cảnh sinh hoạt rất vui, cơm con ăn rất ngon vì các món ăn đều rất lạ miệng. Còn cảnh trí ở trần gian thì thật tuyệt thưa ngài. Đúng là “Sơn thuỷ hữu tình” đấy ạ!
- Ô! Thật là tuyệt! Vậy bây giờ con hãy kể chuyện con đánh giặc giúp dân cho ta nghe đi!
- Vâng ạ!
Thế rồi ta bắt đầu kể:
- Thưa ngài! Từ khi ngài sai con xuống trần gian đế làm những việc tốt, con đã đầu thai vào người vợ ông lão có tiếng là phúc đức mà vẫn chưa có con. Song con đã nghĩ ra cách: Một hôm con đã đặt một dấu chân rất to ở ngoài đồng để chờ đợi.
Đúng như mong ước, hôm ấy bà lão đã đi ra đồng, rồi trông thấy vết chân quá to như vậy, thấy lạ, bà bèn đặt chân lên ướm thử xem chân mình thua kém bao nhiêu. Thế là về nhà ít lâu sau bà thụ thai, rồi mười hai tháng sau con đã ra đời. Nhưng đến năm ba tuổi, con vẫn không đi, không đứng, mà cũng chẳng ngồi, cứ đặt đâu nằm đấy. Năm ấy, lũ giặc Ân tràn sang xâm lược bờ cõi Văn Lang. Thế giặc vô cùng mạnh, đi đến đâu chúng đốt phá nhà cửa, cướp bóc của cải, giết hại dân lành đến đó. Trước tình hình nguy kịch và đau lòng như vậy, nhà vua dưới trần rất lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Khi nghe thấy tiếng loa của sứ giả vang lên ở đầu làng, con bèn ngồi dậy gọi: “Mẹ ơi! Mẹ đi mời sứ giả vào đây cho con.”
Thấy con ngồi được, lại nói được, vợ chồng bà lão vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng khôn xiết và nhanh chóng gọi ngay sứ giả vào. Sứ giả vừa bước vào tới cửa con nói ngay: Ngươi hãy mau mau về bảo với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cái roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này. Sứ giả trần gian vô cùng ngạc nhiên, xong đã nhanh chóng về tâu vua. Nhà vua lập tức mời các thợ đúc khéo tay nhất ngày đêm gắng sức làm những thứ mà con dặn. Đồng thời, cũng ngay từ khi gặp sứ giả, con ăn rất khoẻ, lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ con ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã đứt chỉ. Thấy vậy, cả làng liền góp gạo nuôi con. Mong con mau lớn khỏe để giết giặc cứu nước. Hôm ấy, giặc đến chân núi Trâu, người của nhà vua cũng vừa kịp tới mang đủ những thứ con cần. Con liền ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà, rồi mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Con nhảy lên lưng ngựa. Xông ra trận, giặc bị con lấy roi sắt quật ngã túi bụi, hồn bay phách lạc, chúng quay đầu bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau mà chết. Vừa lúc ấy, roi sắt của con bị gãy, lập tức con nhổ những cụm tre bên đường quật tan lũ giặc. Giặc chết như ngả rạ, đám tàn quân bị con đuổi đến chân núi Sóc. Đến đấy, con bèn cởi áo giáp sắt gửi lại trần gian rồi một mình cùng ngựa từ từ bay lên trời. Con chỉ thương hai vợ chồng ông bà lão.
Kể đến đây, tôi rất buồn, vẻ mặt buồn hướng xuống trần gian. Thấy thế Ngọc Hoàng hỏi ngay:
- Tại sao con ghi được chiến công lớn như vậy lại không ở lại trần gian để được nhân dân tôn sùng, được nhà vua ban thưởng?
- Thưa ngài! Giúp dân là bổn phận của con. Song việc con sẽ lại về trời để sớm mong được nhận việc mới mà Ngài giao cho ạ!
- Ồ! Ta rất vui mừng vì con đã có lòng với dân. Bây giờ con hãy đi nghỉ đi, ngày mai ta sẽ ban thưởng cho con.
- Đa tạ Ngọc Hoàng! nhưng con muốn xin ngài một điều ạ?
- Điều gì vậy?
Xin Ngọc Hoàng cho con được một lần nữa xuống thăm lại cha mẹ của con - vợ chồng ông bà lão và xem dân làng còn nhớ và nhận ra con không ạ!
- Việc đó con cứ yên tâm, đã có ta lo. Con cứ nghỉ ngơi. Ta sẽ cho người xuống trần gian thăm cha mẹ con và dân làng thay con.
- Cảm ơn Ngọc Hoàng!
Và thế là Ngọc Hoàng đã sai lính xuống trần gian, và tôi đã được biết rằng nhân dân và nhà vua đã phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Biết được điều này tôi vô cùng sung sướng.
Hiện nay đền thờ tôi vẫn còn được bảo tồn ở làng Phù Đổng hay còn gọi là làng Gióng. Vào tháng tư hàng năm, để nhớ công ơn của tôi dân làng đã mở hội to lắm. Còn những bụi tre đằng ngà ở Gia Bình chính vì bị ngựa của tôi phun lửa thiêu cháy nên mới ngả màu vàng như vậy, những hồ ao liên tiếp kia cũng chính là do dấu chân ngựa năm xưa của tôi để lại. Năm ấy khi xông trận giết giặc ngựa của tôi hí vang trời, phun lửa và đã thiêu cháy một làng, cho nên sau này hạ giới đã gọi làng đó là - làng Cháy.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 13
Từ những sự thật lịch sử cùng khối óc sáng tạo của tác giả dân gian, những câu chuyện truyền thuyết li kì, hấp dẫn đã ra đời. Quê hương của ta chính là xứ sở của thế giới truyền thuyết mang đầy màu sắc thần kì đó. Xin tự giới thiệu, ta là Thánh Gióng- người đã đánh đuổi giặc Ân xâm lược. Hôm nay ta sẽ kể lại câu chuyện mình sau khi đánh đuổi giặc Ân, để hoàn thiện bức tranh về hành trang của chính mình.
Sau khi đánh tan bè lũ giặc Ân xâm lược, ta đã bay lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại và từ từ bay lên trời, bởi vì ta đã hoàn thành xong sứ mệnh mà Ngọc Hoàng giao phó, giúp đỡ nhân dân nước Văn Lang bảo vệ bờ cõi trước bước chân xâm lược. Vừa bước chân lên trời, ta đã thấy Ngọc Hoàng cùng các vị thần khác đang mở yến tiệc để tiếp đãi ta. Ta vốn không phải là một người phàm thông thường, mà là một vị thần được Ngọc Hoàng phái xuống nhân gian.
Sau khi gặp Ngọc Hoàng, ta vội bẩm tấu những gì đã diễn ra:
– Ngọc Hoàng vạn tuế! Đúng như người dự đoán, sau khi con xuống đầu thai ở trần gian ba năm thì giặc Ân đã sang xâm lược nước Văn Lang. Thần đã đầu thai vào gia đình của một vợ chồng ông lão, và chờ đợi thời cơ để cất lên tiếng nói đánh đuổi ngoại xâm.
Ngọc Hoàng vội đỡ ta đứng dậy và ân cần hỏi:
– Nhân gian có vô vàn gia đình, vậy thì tại sao ngươi lại chọn vợ chồng ông lão làm bố mẹ của mình?
Ta đã thành thực trả lời:
– Trong suốt quá trình vi thần tìm hiểu trước cuộc sống nhân gian, thần được biết vợ chồng ông lão mặc dù vô cùng lương thiện, tốt bụng nhưng vẫn không có con. Vì thế thần chọn đầu thai vào người mẹ để ban cho họ niềm vui lúc tuổi già. Sau đó vì đã đầu thai nên thần đã quên đi những chuyện trước đây, cho đến khi nghe thấy tiếng loa của sứ giả tìm người giết giặc, thần mới sực tỉnh nhớ lại lời căn dặn của Ngọc Hoàng. Từ hôm đó, thần đã ăn uống thật nhiều để khôi phục lại hình dáng. Và sau khi đuổi hết giặc Ân xâm lược, đến chân núi Sóc Sơn, thần vội vã quay trở về thiên đình.
Lúc đó Ngọc Hoàng đã tấm tắc khen ngợi ta. Trở về chốn thiên cung- nơi mà ta gắn bó mấy trăm năm qua nhưng lòng ta vẫn không nguôi nhớ về làng Gióng- quê hương thứ hai của ta ở hạ giới. Ta nhớ làng quê dù chỉ sinh sống tại đó ba năm vì sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ, và sự bao bọc giúp đỡ của dân làng. Khi ta nghe lời truyền của sứ giả và nhớ ra sứ mệnh của mình, ta đã ăn rất nhiều để trở về hình hài cao lớn, vạm vỡ ban đầu, nhưng vì gia đình quá nghèo nên không đủ cơm cho ta ăn, và lúc đó dân làng đã chung tay góp sức, sẵn sàng cung cấp lương thực cho ta ăn. Ta thầm biết ơn miền quê nghèo nhưng chan chứa tình người và giàu lòng yêu nước đã tiếp thêm cho ta sức mạnh để đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Sau đó, vì quá nhớ quê hương, ta đã đứng trước cổng thiên cung trông về hạ giới và được biết rằng vua Hùng đã phong ta tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương, nhân dân biết ơn đã lập đền thờ cúng ta. Và họ vẫn luôn nhớ về những bụi tre ngà mà ngựa sắt của ta đã phun lửa và những ao hồ do vết chân ngựa để lại. Điều làm ta cảm thấy vui mừng nhất là khi biết rằng hằng năm, vào ngày mồng tám tháng tư, tại làng quê mà ta đầu thai, luôn tổ chức hội kỉ niệm rất linh đình và trang trọng, gọi là hội thi “Phù Đổng Thiên Vương”. Vì nội quy thiên đình quá nghiêm ngặt nên ta không thể quay về nhân gian khi chưa được sự cho phép của Ngọc Hoàng, nhưng ta vẫn luôn dõi theo những cuộc thi đó từ lúc tễ lễ đến những trò chơi dân gian như đánh trận giả, màn múa hát của nhân dân.
Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng ta vẫn không thể quên được quê hương nơi trần gian. Giờ đây, khi chứng kiến cảnh nhân dân được sống cuộc sống ấm no, yên ổn, ta cảm thấy rất vui vì đã bảo vệ hai chữ “hòa bình”.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 14
Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.
Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ: - Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện. Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ: - Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!
Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này. Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.
Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấn khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.
Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.
Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.
Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.
Đóng vai nhân vật Thánh Gióng kể câu chuyện cùng tên - mẫu 15
Ta vốn là Thánh Gióng - nhân vật chính trong câu chuyện truyền thuyết nổi tiếng dân gian mà ai ai cũng từng được nghe kể. Vốn là con trai của Ngọc hoàng, vì tính được vận nước lâm nguy, thương dân chúng lầm than, cơ khổ, ta đã xin Ngọc hoàng cho đầu thai xuống nhân gia để cứu nước, cứu dân.
Gia đình ta đầu thai là một gia đình nông dân ở đời Hùng Vương thứ 6, họ ăn ở hiền lành mà mãi không có một mụn con.
Hôm ấy người vợ đã đi ra đồng, rồi trông thấy vết chân quá to như vậy, thấy lạ, bà bèn đặt chân lên ướm thử xem chân mình thua kém bao nhiêu. Thế là về nhà ít lâu sau bà thụ thai, rồi mười hai tháng sau ta đã ra đời. Nhưng đến năm ba tuổi, ta vẫn không đi, không đứng, mà cũng chẳng ngồi, cứ đặt đâu nằm đấy. Năm ấy, lũ giặc Ân tràn sang xâm lược bờ cõi Văn Lang. Thế giặc vô cùng mạnh, đi đến đâu chúng đốt phá nhà cửa, cướp bóc của cải, giết hại dân lành đến đó. Trước tình hình nguy kịch và đau lòng như vậy, nhà vua dưới trần rất lo sợ bèn sai sứ giả đi tìm người hiền tài cứu nước. Khi nghe thấy tiếng loa của sứ giả vang lên ở đầu làng, ta bèn ngồi dậy gọi: “Mẹ ơi! Mẹ đi mời sứ giả vào đây cho con.”
Thấy con mình ngồi được, lại nói được, cha mẹ ta vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng khôn xiết và nhanh chóng gọi ngay sứ giả vào. Sứ giả vừa bước vào tới cửa ta đã nói ngay: "Ngươi hãy mau mau về bảo với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cái roi sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này."
Sứ giả trần gian vô cùng ngạc nhiên, xong đã nhanh chóng về tâu vua. Nhà vua lập tức mời các thợ đúc khéo tay nhất ngày đêm gắng sức làm những thứ mà ta dặn. Đồng thời, cũng ngay từ khi gặp sứ giả, ta ăn rất khoẻ, lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ ta ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã đứt chỉ. Thấy vậy, cả làng liền góp gạo nuôi ta. Mong ta mau lớn khỏe để giết giặc cứu nước. Hôm ấy, giặc đến chân núi Trâu, người của nhà vua cũng vừa kịp tới mang đủ những thứ ta cần. Ta liền ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà, rồi mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Ta nhảy lên lưng ngựa. Xông ra trận, giặc bị ta lấy roi sắt quật ngã túi bụi, hồn bay phách lạc, chúng quay đầu bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau mà chết. Vừa lúc ấy, roi sắt của ta bị gãy, lập tức ta nhổ những cụm tre bên đường quật tan lũ giặc. Giặc chết như ngả rạ, đám tàn quân bị ta đuổi đến chân núi Sóc. Đến đấy, ta bèn cởi áo giáp sắt gửi lại trần gian rồi một mình cùng ngựa từ từ bay lên trời. Ta chỉ thương hai vợ chồng ông bà lão còn ở lại trần gian. Những người thường và thần linh có khác biệt. Hơn nữa, ta cũng đã hoàn thành xong việc phải làm ở trần gian, cuộc sống của người dân đã trở về bình yên, không thể không quay về thiên đình tiếp tục sứ mệnh của bản thân ở đây.
Nhà vua và dân chúng nhớ ơn đã tôn ta là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay đền thờ ta vẫn còn được bảo tồn ở làng Phù Đổng hay còn gọi là làng Gióng. Vào tháng tư hàng năm, để nhớ công ơn của ta dân làng đã mở hội to lắm. Còn những bụi tre đằng ngà ở Gia Bình chính vì bị ngựa của ta phun lửa thiêu cháy nên mới ngả màu vàng như vậy, những hồ ao liên tiếp kia cũng chính là do dấu chân ngựa năm xưa của ta để lại. Năm ấy khi xông trận giết giặc ngựa của ta hí vang trời, phun lửa và đã thiêu cháy một làng, cho nên sau này hạ giới đã gọi làng đó là - làng Cháy.