Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt
Đề bài: Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 1
Được mệnh danh là ngòi bút của nông dân- Kim Lân đã để lại biết bao tác phẩm với nhiều khung bậc cảm xúc đặc biệt. Nhưng điểm chung đều là sự xót xa, thương cảm cho số phận những người nông dân khốn khổ. Và Vợ nhặt cũng vậy.
Kim Lân là một nghệ sĩ đa tài với tài năng thiên phú. Ông là một nhà văn tiêu biểu trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút chuyên về truyện ngắn, đặc biệt thành công khi viết về nông thôn và người nông dân. Ông hiểu được cảnh ngộ và tâm lí của họ đồng thời cũng phát hiện ra những vẻ đẹp, phẩm chất cao đẹp như nhân hậu,hóm hỉnh, thông minh yêu đời của những con người ngày ngày nhìn thấy bầu trời u tối ấy.
Truyện ngắn Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết “xóm ngụ cư” ra đời ngay sau nạn đói lịch sử năm 1945 tại Miền Bắc nhưng bị dang dở và thất lạc bản thảo. Sau năm 1945 khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, dựa vào trí nhớ Kim Lân đã viết lại tác phẩm này. Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng. Tràng là một chàng trai đã gần tứ tuần lại còn xấu xí, nghèo đói, ngờ nghệch, là dân ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng mẹ già. Ngày ngày anh kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái. Sau vài hôm không gặp mà cô gái ấy- Thị rách rưới và gầy gò quá. Tràng mời thị bốn bát bánh đúc và hai câu bông đùa mà thị thực sự theo Tràng về nhà. Vậy là Tràng đã có vợ. Việc Tràng nhặt được vợ khiến cả xóm ngụ cư xôn xao còn mẹ Tràng - Bà cụ Tứ vừa mừng nhưng cũng lại vừa lo. Sau một đêm, thị thức dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, quét tước cùng với mẹ chồng. Cái ngôi nhà không ra nhà nhờ có đôi bàn tay của thị bỗng trở nên gọn gàng sáng sủa. Và cũng lần đầu tiên Tràng nhận thấy mình có một trách nhiệm cao cả đối với gia đình, với vợ, sau này là với con. Bữa cơm đầu tiên đón dâu mới là một ít cháo trắng với ít rau và một nồi chè khoán. Bữa ăn thiếu thốn nhưng lại bỗng ấm cúng đến lạ. Khi nghe tiếng trống thúc thuế dồn dập, thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật thì trong đầu Tràng bỗng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới hôm nào.
Vợ nhặt là bức tranh hiện thực đau lòng và tàn khốc do chiến tranh gây nên. Chiến tranh, lòng tham kẻ đầu sỏ đứng sau mọi đau khổ. Chiến tranh khiến nạn đói xảy ra khắp nơi, người chết như ngả rạ đến mức người sống chẳng còn sức để mà chôn người chết nữa. Những người còn sống cũng chỉ vật vờ như cái bóng liêu xiêu trong khói chiều. Trong cái đói khổ ấy, con người ta trở nên rẻ rúng như những cái cọng cỏ vứt bên đường đến mức người khác dễ dàng nhặt lấy hay vứt bỏ đi.Nhưng trong cái hiện thực ấy, con người vẫn khao khát được sống,được yêu thương, được hạnh phúc.
Với ngôn ngữ bình dị, thân thuộc cùng góc nhìn của người nông dân Kim Lân đã viết nên thiên truyện nông dân tuyệt vời “Vợ nhặt”
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 2
Những tác phẩm viết về thời kì nạn đói năm 1945 là một con số không nhỏ cũng không còn xa lạ gì đối với độc giả cả nước. Trong số những tác phẩm ấy, nổi bật lên là tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962.
Tác giả Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài (1/8/1920 - 20/7/2007) là một nhà văn, diễn viên Việt Nam. Ông được mệnh danh là “ nhà văn của nông thôn Việt Nam”. Những tác phẩm của ông mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê như chọi gà, đánh vật,… Trong đó hai tác phẩm “Làng” và “Vợ nhặt” đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa Việt Nam.
"Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." - đó là những lời tâm sự của nhà văn khi viết “ Vợ nhặt”. Được viết năm 1954 theo đơn đặt hàng của báo Văn nghệ, “ Vợ nhặt” được lấy cảm hứng từ bản thảo còn đang dang dở “ Xóm ngụ cư” của Kim Lân. Sau này tác phẩm được biên soạn lại và in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Câu truyện trong “ Vợ nhặt” là về cuộc sống của con người trong nạn đói. Cái đói đã khiến con người bán rẻ danh dự của mình vì miếng ăn nhưng không vì thế mà khiến câu truyện tăm tối, không tìm thấy lối thoát. Câu truyện đã đưa chúng ta nhìn thấy ánh sáng nơi cuối con đường, thấy được lối thoát không chỉ cho bản thân mà còn là lối thoát cho cả dân tộc.Bố cục có thể chia làm 4 đoạn: Đoạn 1 cảnh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà; đoạn 2 hoàn cảnh Tràng và Thị trở thành vợ chồng; đoạn 3 Tràng ra mắt cô vợ nhặt với mẹ và nỗi lòng của bà cụ Tứ; đoạn 4 bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới.
Nạn đói năm 1945 khiến người chết như ngả rạ, người sống xanh sám như những bóng ma. Cả xóm ngụ cư bị bao trùm bởi cái đói và cái chết. Gia đình Tràng cũng thuộc diện đói khát ở xóm ngụ cư ấy. Ngôi nhà rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại. Bà mẹ già mặt bủng beo u ám. Anh con trai (Tràng) có lớn mà chưa có khôn, làm nghề kéo xe bò mưu sinh. Bất ngờ một ngày nọ, Tràng nhặt được 1 người đàn bà xa lạ về làm vợ chỉ bằng 4 bát bánh đúc và vài câu nói bông đùa. Bà cụ Tứ sau khi hiểu ra cơ sự của anh con trai và con dâu đã " mừng lòng" vun vén cho hạnh phúc hai con. Bà thương con khi nghĩ tới " cơn đói khát này" nên nước mắt chảy xuống ròng ròng. Sáng hôm sai, người mẹ già chuẩn bị bữa cơm đạm bạc đón nàng dâu mới. Ngòi bút Kim Lân rất trữ tình khi miêu tả quang cảnh ngôi nhà và sự thay đổi của Tràng vào sáng hôm sau. Hoá ra giữa khung cảnh tối sầm vì đói khát vẫn có ánh sáng của cuộc sống bình yên hạnh phúc. Chỉ có hạnh phúc thật sự của tình yêu thương mới là điểm tựa vững chắc giúp con người " hồi sinh", trưởng thành. Đang ăn cơm thì tiếng trống thúc thuế lại dội lên ngoài đình. Người vợ nhặt đã kể câu chuyện về Việt Minh, về những người dân nghèo không chịu đóng thuế trong đầu Tràng thấy hình lên hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tác phẩm là bản án viết nên những tội trạng của phát xít Nhật và thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Không chỉ vậy, đó còn là sự cảm thông, sự thấu cảm với những đau khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng trong thời kì đen tối của dân tộc. Là bài ca ca ngợi sự sống, tình thương, sự cưu mang, đùm bọc, khát vọng hạnh phúc.Tác phẩm còn chỉ ra con đường giải phóng cho những con người nghèo khổ: chỉ có thể đi theo cách mạng để tự giải phóng, để thoát khỏi đói nghèo cơ cực. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện lôi cuốn, miêu tả tâm lí nhân vật sâu xa, logic, sắc bén cùng với ngôn ngữ đối thoại độc đáo đã tạo nên một thành công không thể bàn cãi cho “ Vợ nhặt”.
"Chỉ với ba truyện "Vợ Nhặt", "Làng", "Con chó xấu xí"… Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam". Tác phẩm “Vợ nhặt” nói riêng và tác giả Kim Lân nói chung vẫn mãi là ngôi sao sáng trong lòng bạn đọc cả nước. Dù ông đã rời xa cõi tạm để về với cõi vĩnh hằng, nhưng những giá trị mà ông mang lại cho nền văn học nước nhà vẫn còn tồn tại mãi với thời gian.
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 3
Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân Đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhận vật thị vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng. Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.
Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.
Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyễn chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.
Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam. Không những thế thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện của thị như tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một ngày mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong tương lai.
Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 4
Kim Lân, được mệnh danh là ngòi bút của nông dân, đã để lại nhiều tác phẩm thấm đượm cảm xúc và sâu sắc. Những tác phẩm của ông thường thể hiện sự xót xa, thương cảm cho số phận những người nông dân khốn khổ, và "Vợ nhặt" cũng không ngoại lệ.
Kim Lân là một nghệ sĩ đa tài với năng khiếu thiên phú. Ông được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu trong văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt nổi tiếng với các truyện ngắn viết về đề tài nông thôn và người nông dân. Kim Lân hiểu rõ hoàn cảnh và tâm lý của họ, đồng thời khám phá những phẩm chất cao đẹp như lòng nhân hậu, sự hài hước, thông minh và yêu đời của những con người phải đối mặt với cuộc sống u tối hàng ngày.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", được viết ngay sau nạn đói lịch sử năm 1945 tại miền Bắc nhưng bị dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này từ ký ức của mình. "Vợ nhặt" kể về nhân vật Tràng, một chàng trai gần bốn mươi tuổi, xấu xí, nghèo đói, ngờ nghệch và là dân ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng mẹ già. Trong một lần kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng gặp một cô gái rách rưới và gầy gò. Với bốn bát bánh đúc và vài câu bông đùa, Tràng đã "nhặt" được vợ. Sự kiện này khiến cả xóm ngụ cư xôn xao, còn mẹ của Tràng - bà cụ Tứ - vừa mừng vừa lo. Sáng hôm sau, cô dâu mới dọn dẹp nhà cửa, khiến ngôi nhà trở nên gọn gàng và sáng sủa hơn. Lần đầu tiên, Tràng cảm nhận được trách nhiệm cao cả đối với gia đình, với vợ và sau này là với con. Bữa cơm đầu tiên đón dâu chỉ có ít cháo trắng, rau và nồi chè khoán, nhưng bỗng ấm cúng đến lạ thường. Khi nghe tiếng trống thúc thuế dồn dập, thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới hiện lên trong đầu Tràng.
"Vợ nhặt" là một bức tranh hiện thực đầy đau lòng và tàn khốc về hậu quả của chiến tranh. Chiến tranh và lòng tham của những kẻ cầm quyền đã gây ra nạn đói khắp nơi, người chết như ngả rạ đến mức người sống không còn sức để chôn cất. Những người sống sót cũng chỉ vật vờ như những cái bóng liêu xiêu trong khói chiều. Trong cái đói khổ ấy, con người trở nên rẻ rúng như những cái cọng cỏ bên đường, dễ dàng nhặt lấy hay vứt bỏ. Nhưng chính trong hiện thực tàn nhẫn này, con người vẫn khao khát được sống, được yêu thương và được hạnh phúc.
Với ngôn ngữ bình dị, gần gũi và góc nhìn từ chính người nông dân, Kim Lân đã viết nên thiên truyện nông dân tuyệt vời "Vợ nhặt". Tác phẩm không chỉ thể hiện tài năng văn chương mà còn là tiếng nói đồng cảm, xót xa cho những số phận con người trong cơn bão táp của lịch sử.
Thuyết minh về tác phẩm Vợ nhặt - Mẫu 5
Kim Lân, nhà văn được mệnh danh là ngòi bút của nông dân, đã để lại cho đời một loạt tác phẩm đầy cảm xúc và suy tư sâu sắc. Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng nỗi xót xa, niềm thương cảm cho số phận khốn khổ của người nông dân. "Vợ nhặt" không phải là ngoại lệ trong dòng chảy đó.
Kim Lân là một nghệ sĩ đa tài, với khả năng sáng tạo thiên bẩm, đã ghi dấu ấn sâu đậm trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đặc biệt nổi tiếng với truyện ngắn, một thể loại mà ông đã biến thành công cụ để khắc họa chân thực cuộc sống nông thôn và người nông dân. Nhờ hiểu rõ hoàn cảnh và tâm lý của họ, ông phát hiện và tôn vinh những phẩm chất cao đẹp, nhân hậu, hài hước, thông minh và yêu đời của những con người sống trong nghịch cảnh.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" có nguồn gốc từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", viết ngay sau nạn đói lịch sử năm 1945 tại miền Bắc nhưng bản thảo bị thất lạc. Sau khi hòa bình lập lại, Kim Lân đã dựa vào trí nhớ để viết lại tác phẩm này. "Vợ nhặt" xoay quanh nhân vật Tràng, một chàng trai gần tứ tuần, xấu xí, nghèo khổ và ngờ nghệch. Tràng làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng mẹ già. Trong một lần kéo xe thóc lên tỉnh, anh gặp một cô gái rách rưới, gầy gò. Tràng mời cô bốn bát bánh đúc và bằng vài câu bông đùa, cô gái đã theo Tràng về nhà, trở thành vợ của anh. Việc này khiến cả xóm ngụ cư xôn xao, còn mẹ Tràng, bà cụ Tứ, vừa mừng vừa lo. Sau một đêm, thị thức dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, khiến ngôi nhà trở nên gọn gàng sáng sủa. Đây cũng là lần đầu tiên Tràng cảm thấy mình có một trách nhiệm to lớn đối với gia đình. Bữa cơm đầu tiên đón dâu chỉ có ít cháo trắng, rau và chè khoán, nhưng lại ấm cúng lạ thường. Khi nghe tiếng trống thúc thuế dồn dập và câu chuyện về Việt Minh phá kho thóc Nhật, trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới.
"Vợ nhặt" là bức tranh hiện thực đau lòng và tàn khốc của chiến tranh. Chiến tranh, với lòng tham của những kẻ đứng đầu, đã gây ra nạn đói khắp nơi, khiến người chết như ngả rạ, người sống cũng vật vờ như những cái bóng liêu xiêu trong khói chiều. Trong cái đói khổ ấy, con người trở nên rẻ rúng như những cái cọng cỏ bên đường, dễ dàng bị nhặt lên hay vứt bỏ. Nhưng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, họ vẫn khao khát sống, khao khát yêu thương và hạnh phúc.
Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi và góc nhìn tinh tế của một người nông dân, Kim Lân đã viết nên một tác phẩm tuyệt vời về cuộc sống và tâm hồn người nông dân - "Vợ nhặt".
Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện Vợ nhặt - mẫu 1
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường.........
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nội bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm 1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những búi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Trên đây là bài trình bày của tôi về việc phân tích nghệ thuật kể chuyện trong một tác phẩm truyện, cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy/cô và các bạn.
Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện Vợ nhặt - mẫu 2
Xin chào cô và các bạn. Mình là Thanh Tâm. Trong buổi học ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng thảo luận về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân.
Tất cả mọi người ngồi đây đều đã được học về tác phẩm này. Đây là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân viết về số phận người nông dân trong nạn đói. Qua đó, tác giả ngợi ca vẻ đẹp họ. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn khao khát sống có ý nghĩa.
Tác giả Kim Lân rất thành công xây dựng một tình huống truyện éo le, ngang trái. Điều đó được thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Anh Tràng làm nghề kéo xe thóc thuê. Anh có ngoại hình xấu xí "cái mặt thô kệch", "đôi mắt nhỏ tí". Nếu xét cả về ngoại hình và gia cảnh của anh hiện tại thì thực sự khó để có thể lấy được vợ. Ấy vậy mà trong nạn đói Tràng lại có vợ trong lúc không ai ngờ nhất. Hơn nữa, chuyện lấy vợ thông thường là chuyện đại sự. Vậy mà với Tràng nó lại diễn ra chóng vánh. Chỉ bằng lời hò đùa, vài bát bánh đúc mà Thị theo không Tràng về làm vợ. Qua tình huống truyện này, nhà văn Kim Lân muốn bày tỏ nỗi thống khổ, sự rẻ rúng của con người trong hoàn cảnh nạn đói khủng khiếp.
Một điểm đặc sắc về nghệ thuật của "Vợ nhặt" đó là ngôn ngữ kể chuyện. Người kể chuyện thay đổi ngôn ngữ rất linh hoạt. Có lúc tự nhiên, hóm hỉnh khi miêu tả cảnh Tràng gặp Thị ở chợ nhưng lại tha thiết, cảm động khi diễn tả nỗi niềm của bà cụ Tứ khi dặn dò các con.
Điểm nhìn trần thuật trong câu chuyện cũng được thay đổi linh hoạt. Nhà văn khi thì đứng ngoài để quan sát, miêu tả, lúc lại hóa thân vào nhân vật để bộc lộ tâm trạng. Có những đoạn, nhà văn nhập giọng người kể vào tiếng nói nội tâm của nhân vật. Điều đó khiến cho tác giả có thể miêu tả sâu sắc những trại thái tâm lí của nhân vật.
Tóm lại, bằng tài năng của mình, nhà văn Kim Lân đã mang đến cho độc giả một câu chuyện chân thực về số phận của con người trong nạn đói. Dù phải đối diện với cái đói, cái chết nhưng những người nông dân vẫn luôn khao khát sống có ý nghĩa.
Trên đây là phần trình bày của em về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm "Vợ nhặt". Rất mong có thể nhận được góp ý từ mọi người.
Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện Vợ nhặt - mẫu 3
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng. Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thô kệch", cái đầu "trọc nhẵn" lại có tật "vừa đi vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ tầm phào đâu có hai bận", một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã "nhặt" được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".
Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma". Mùi gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ gào lên từng hồi thê thiết". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ mà cảm thấy "chợn" vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà "lại còn đèo bòng". Trên đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phở" khác thường, "tủm tỉm cười nụ", "hai mắt thì sáng lên lấp lánh"... Còn thị thì "thèn thẹn hay đáo để", "đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không". Tối "tân hôn" của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng "tiếng khóc hờ tỉ tê" của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.
Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn dội lên "dồn dập vội vã". Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!
Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu "người chết như ngả rạ". Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người "gầy sọp", áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc". Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thẳm, là chết đói, Thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...
Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải "nhặt" mới có vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.
Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là "chè khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.
Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.
Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
Phân tích Vợ nhặt
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến cho nhân dân ta rơi vào tình cảnh vô cùng thê thảm. Tình cảnh ấy được các nhà văn tái hiện chân thực trong những sáng tác của mình. Nhà văn Kim Lân cũng là một trong số đó. Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân qua tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một lòng thương cảm sâu sắc.
Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được ông viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến năm 1954, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện tố cáo tội ác diệt chủng của bọn thực dân, phát xít đồng thời cũng khẳng định niềm khát khao hạnh phúc cùng niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động vào sự sống và tương lai phía trước.
Tác phẩm có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?
Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngốc nghếch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngốc nghếch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.
Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.
Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ - mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lý chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.
Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi giọt nước mắt tủi hờn. Chính bà là người truyền niềm tin, sức sống mới cho đôi vợ chồng trẻ. Sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã trở thành ánh sáng, trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con.
Bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt. Đây là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Ngay cả một cái tên riêng người phụ nữ ấy cũng không có được. Nhân vật này được tác giả gọi là “thị”, một đại từ nhân xưng chỉ chung những người phụ nữ khác cũng như ngầm chỉ số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa ngoại hình của thị bằng tất cả nỗi xót xa của người trong cuộc. Thị “rách quá”, “cái ngực gầy lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến anh cu Tràng không nhận ra. Thị không có việc làm, ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!” mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là duyên cớ để hai người gắn kết cuộc đời mình với nhau.
Ở con người thị có chút gì “chao chát chỏng lỏn” khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng. Thị quên cả ý tứ cần có của người phụ nữ để “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” rồi “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Tuy “sưng sỉa” là vậy nhưng ẩn sâu trong người vợ nhặt là vẻ đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Thị chỉ theo anh cu Tràng về nhà khi biết anh chưa có vợ. Trên đường đi về, thị rón rén, e thẹn, thị ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Khi về đến nhà Tràng, thị cũng chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và lễ phép cất tiếng chào bà cụ Tứ. Thị có những sự bỡ ngỡ của nàng dâu mới khi về nhà chồng. Đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị có sự thất vọng nhưng cũng chỉ “nén một tiếng thở dài”.
Người vợ nhặt đã có sự thay đổi lớn vào sáng hôm sau. Thị “hiền hậu đúng mực”, thị cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại nhà cửa và sửa soạn bữa cơm đầu tiên đánh dấu cuộc đời làm dâu của mình. Dù món chè khoán có đắng chát thì thị “vẫn điềm nhiên đưa vào miệng” mà không một lời than vãn. Thị chấp nhận cuộc sống nghèo khổ ấy. Niềm tin vào cuộc sống đã khiến thị theo không anh cu Tràng về làm vợ. Nhờ có anh cu Tràng và bà cụ Tứ mà cuộc đời thị được cứu giúp. Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm bộc lộ niềm thương cảm, xót xa đối với cuộc sống con người, đồng thời cũng lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.