TOP 20 Phân tích Dương phụ hành 2025 SIÊU HAY

11

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích Dương phụ hành hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Phân tích Dương phụ hành

Đề bài: Phân tích văn bản Dương phụ hành

Dàn ý Phân tích Dương phụ hành

I. Mở bài

Giới thiệu sơ lược các thông tin về tác giả, tác phẩm.

II. Thân bài

1. Tác giả

- Là một trong các nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XIX.

- Nhân cách: cứng rắn, ngang tàn.

- Phong cách nghệ thuật: phong phú trong nội dung, cảm hứng sáng tác.

2. Tác phẩm

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm Dương Phụ Hành được Cao Bá Quát sáng tác trong lần ông có dịp theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán bên Indonesia.

- Nội dung: nói về người đàn bà Phương Tây đã gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.

3. Tổng kết giá trị nghệ thuật mà tác phẩm mang tới

III. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của bản thân.

TOP 20 Phân tích Dương phụ hành 2025 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 1

Giá trị lớn nhất của bài thơ “Dương phụ hành” nằm ở cảm quan hiện thực mới mẻ và cùng lòng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ. Nhà thơ đã đặc biệt chú ý đến một thiếu phụ phương Tây, miêu tả kĩ lưỡng từ trang phục đến cử chỉ, trạng thái của người phụ nữ. Từ đó, tác giả làm nổi bật vẻ chân thực, sinh động của cuộc sống hiện thực. Khung cảnh ấm êm của đôi vợ chồng phương Tây đã làm nảy sinh trong tâm hồn nhà thơ những nỗi khắc khoải, suy tư khi sống nơi đất khách quê người. Nỗi lòng của “khách biệt li” chính là niềm đau xót của Cao Bát Quát trước cảnh thời thế loạn lạc, tài năng không được trọng dụng, con đường công danh gặp nhiều trắc trở. Ông còn trăn trở khôn nguôi bởi đời sống nhân dân lầm than cơ cực, xã hội phong kiến lạc hậu, triều đình bảo thủ. “Dương phụ hành” đã cho thấy tư tưởng tiến bộ, ủng hộ quyền tự do và hạnh phúc của con người cùng tấm lòng niềm yêu nước, thương dân của nhà thơ Cao Bá Quát.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 2

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,

Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!

Uốn éo đòi chồng năng đỡ dậy.

   Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc. Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

TOP 20 Phân tích Dương phụ hành 2025 SIÊU HAY (ảnh 2)

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 3

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,

Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năn lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng - “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám "tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm tráng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’" như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người. Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 4

Giẫm đạp lên hành trình mới là sự thất bại đáng trách của cuộc đời, tô bức tranh mới mẻ là sự thành công của nhận thức bản thân. Đó chính là cách Cao Bá Quát hô biến “Dương phụ hành” và “cái nhìn vô cùng hiện đại” đến đỉnh cao của sự tâm đắc trong lòng độc giả. Sinh ra trong thời kì phong kiến của Việt Nam nhưng nhà thơ không hề dị nghị trước cái phóng khoáng của phụ nữ phương Tây. Hiện trước mắt ông là người phụ nữ với “chiếc áo trắng phau” và “tay cầm cốc sữa” hoàn toàn tinh khôi và trang sáng. Ông chỉ thấy sự nũng nịu đòi chồng chiều chuộng ấy như một hành động đòi hỏi sự yêu thương dành cho đối phương. Nhà thơ như đồng cảm với thân phận của người phụ nữ này vậy, không đánh giá, không suy xét ông chỉ thể hiện sự ngạc nhiên một cách tinh tế và kín đáo. Chính vì ngòi bút mới mẻ của Cao Bá Quát đã làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ Tây Dương trong mắt độc giả một cách vô cùng lôi cuốn. Đồng thời những cái nhìn nhân văn này của ông đã đánh thức quan điểm cổ hủ và chặt chẽ về hình ảnh người phụ nữ của toàn nhân loại.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 5

Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than: “Biết đâu nỗi khách biệt li này!” Tưởng đâu là nỗi sầu xa xử. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 6

Trong cuộc đời chìm nổi của mình, Cao Bá Quát có dịp đi lại nhiều nơi. Nhà thơ ở vào số ít các quan lại triều Nguyễn được ra nước ngoài. Đó là khoảng cuối năm 1841, hoặc đầu năm 1842, sau khi ông bị triều đình bắt giam vì tội sửa hộ bài thi của thí sinh. Chuyến đi ấy thật ra cũng chẳng có gì là vẻ vang, bởi phái đoàn của ông sang Indonesia và Campuchia nhằm mục đích đem đường đi bán để đổi lấy những thứ hàng xa xỉ về cho triều đình. Với Cao Bá Quát, có thể đây lại là dịp may, vì nhà thơ được có dịp ra khỏi một đất nước đang bế quan toả cảng, nhìn ngắm thiên hạ.

Trong chuyến đi ấy, Cao Bá Quát đã sáng tác khá nhiều thơ. Bài Dương phụ hành là một trong những bài được viết trong cuộc hành trình vất vả đó. Bài thơ thế hiện cái nhìn tinh tế, phóng khoáng của một vị quan phương Đông, vốn là nơi rất cổ hủ, khắt khe, đối với cảnh tình tự, âu yếm của một đôi vợ chồng trẻ Tây dương. Chính vì lẽ đó, có người đã xem đây như một “bài kí”.

Phiên âm:

Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lăng kiên toạ thanh nguyệt,
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh,
Bá duệ nâm nâm hướng lặng thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cảnh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.

 

Dịch nghĩa:

Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rẩm với chàng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Nghiêng mình đòi chồng nâng dậy,
Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt ly.

Đúng! Dương phụ hành là một bài kí bằng thơ kể chuyện vào một đêm thanh vắng, giữa biển cả, có một người phụ nữ (Tây dương) đang nũng nịu với chồng. Nàng có thấy ánh đèn sáng ở một chiếc thuyền gần đó (Nam thuyền). Song, mặc, bây giờ nàng chỉ biết có chồng. Gió bể thổi lạnh đến không chịu nổi (Dạ hàn vô ná hải phong xuy), nàng cùng mặc. Tình yêu khiến người ta có thể quên đi tất cả!

Câu chuyện kể ra cũng là thường tình. Cặp vợ chồng ấm êm nào, nhất là trong hoàn cảnh đang đi xa, lại không có được? Nhưng ở vào thời Cao Bá Quát và mãi về sau, cảnh ấy với người phương Đông lạ lắm. Ngay cả khi là vợ chồng, trước mặt người khác, mà tỏ ra ân cần, gần gũi đã khó chấp nhận, huống chi là âu yếm với nhau. Những kẻ có quyền cao, chức trọng là đấng “quân tử”, càng không thể, cho dù trong lòng anh ta có muốn đi chăng nữa. Vì thế, trong ca dao đã có lời giễu cợt: Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan lớn tần mần như ma, Hay như ông Tổng đốc Hồ Tôn Hiến trong Truyện Kiều đã như ngây dại trước vẻ đẹp và tiếng đàn rỉ máu của Thuý Kiều, nhưng cảnh ấy cũng diễn ra kín đáo, trong phút chốc nên Nguyễn Du mới lấy làm lạ: Còn bình thường, quan Tổng đốc là “mặt sắt đen sì”, nghiêm trang, oai nghi lắm!

Vậy thì, có gì đáng nói ở cảnh trên Tây thuyền đêm ấy? Cái lạ là con người đang lặng lẽ ngắm nhìn, thậm chí tỉ mỉ nữa. Người ấy nhìn thấy tất cả mọi chi tiết của cảnh tượng kia: thiếu phụ là người Tây dương; nàng mặc chiếc áo trắng như tuyết; nàng tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh; nàng nhìn sang Nam thuyền thấy đèn sáng trưng rồi kéo áo chồng ríu rít chuyện trò… Đến chi tiết nhỏ: người thiếu phụ cầm cốc sữa trên tay với dáng vẻ hờ hững, uể oải (sữa đối với nàng có quan trọng gì đâu!). Đã thế, nàng còn nũng nịu đòi chồng nâng mình dậy. Bài thơ như một cuốn phim quay chậm, từng chi tiết một hiện ra, không sót bất kì hình ảnh nào. Dù hai thuyền khác nhau, nhưng qua cách miêu tả, ta thấy gần lắm. Cặp uyên ương kia dường như chẳng để ý tới ai. Và, cái người đang lặng lẽ nhìn ngắm kia mới lặng lẽ, kín đáo làm sao! Người ấy quan sát tỉ mỉ chứ không phải tò mò. Đôi mắt ông không hề xoi mói. Trái lại, cảnh ấy như là chuyện đương nhiên, bình thường ở trên đời. Đây mới chính là cái lạ của bài thơ. Cao Bá Quát là nhà nho lẽ ra phải “khó chịu” với cảnh đó, nhưng nhà thơ lại nhìn chúng bình thường chẳng phải là điều rất lạ sao?

Song, vấn đề đâu chi là nhìn ngắm một cặp uyên ương đang tình tự. Đấy còn là một quan niệm sống, một cách nhìn đời. Cách nhìn đời đó hoàn toàn trái ngược với “chính thống”. Cho rằng Dương phụ hành thể hiện cái nhìn phóng khoáng, bao dung của Cao Bá Quát thì chưa đủ. Ánh mắt ấy thể hiện một tư tưởng, tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, đề cao hạnh phúc trần thế của con người, đối lập quyết liệt với tư tưởng, đạo đức phong kiến mà đến thời Cao Bá Quát đã trở thành gông xiềng ghì siết lấy con người. Nói vui, triều đình Huế gồm rất nhiều ông quan hay chữ, kể cả Tự Đức cũng là một ông vua khá hay chữ. Lẽ ra, sau chuyến Cao Bá Quát xuất dương hiệu lực, họ nên đọc thơ ông thì hẳn sẽ không có một Quốc sư của Lê Duy Cự trong cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (1853)! Mà chẳng phải đến bài thơ Dương phụ hành tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa mới bộc lộ mạnh mẽ ở Cao Bá Quát.

 

Bài thơ có 8 câu thì 7 câu đầu là miêu tả cảnh trên tàu Tây dương, thể hiện khách thể. Qua sự miêu tả ấy, ta hiểu tư tưởng của Cao Bá Quát. Nhà thơ chỉ dành có một câu để nói về mình:

Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
(Biết đâu nỗi khách đang sầu biệt li)

Chỉ có một câu thơ thôi nhưng người đọc giật mình, thảng thốt. Hoá ra, con người suốt từ đầu đến giờ cứ lặng lẽ ngắm nhìn đôi uyên ương kia đang đau đớn nhường nào! Câu thơ ấy cung xoá đi ý nghĩ cho rằng con người đó nhìn đôi uyên ương khá tò mò. Không! Mắt ông đang nhìn chăm chú, không bỏ sót chi tiết nào nhưng lòng lại nghĩ về hướng khác, hướng của quê nhà, nơi mịt mù xa cách. Như đã nói, cả bảy câu thơ trên bộc lộ một tư tưởng, còn chỉ một câu thơ cuối lại bày ra cả một nỗi lòng. Thế là, tất cả trên kia đều đối lập với nó. Nào là bầu trời cùng ánh trăng thanh, nào là cảnh thiết tha thân mật, nào là những cơn gió bể buốt lạnh… Khi nào cũng vậy Cao Chu Thần luồn đối lập, luôn một mình trơ trọi trên thế gian. Không một ai có thể chia sẻ cùng ông!

Câu thơ cuối trở thành câu thơ hay nhất của bài Dương phụ hành. Chúng ta khâm phục, chia sẻ với những khát vọng nhân đạo chủ nghĩa ở nhà thơ. Chúng ta càng đau đớn với tấm lòng giàu tình yêu thương của ông. Cao Bá Quát sừng sững một khí phách và cũng biết bao ân tình của một trái tim dào dạt, mềm yếu!

Một điều cũng nên lưu ý. Đó là cấu trúc của bài thơ. Nhiều tập thơ Cao Bá Quát in liền như là một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. Sách giáo khoa Văn học II (NXB Giáo dục, 2004, tr.20) in thành hai khổ, mỗi khổ bốn câu. Lẽ thường khi tách ra như thế phải đánh số (1 và 2), bài thơ có hai thủ. Tuy nhiên, Dương phụ hành không giống với những bài thơ hai thủ khác. Bốn câu đầu có vần “uyết” bốn câu sau là vần “i”. Song, Dương phụ hành không thể tách ra thành hai bài thơ tứ tuyệt độc lập, dù chỉ tạm thời vì hình tượng thơ thống nhất. Nếu tách ra, không ai hiểu gì cả! Như vậy sự chia cắt, phân bố có vẻ rõ ràng kia chỉ là bề ngoài, mang tính hình thức. Chắc chắn “thánh thơ” Cao Bá Quát khá rành rè về cấu trúc, âm luật của thể thơ Đường. Ông làm như thế hẳn là cố tình. Cả bài thơ có nhiều sự đối lập (và ngay cả hình thức!). Vì thế, nỗi lòng của người đang ôm nỗi sầu “biệt ly”, dù được miêu tả rất ít (có một câu thơ) nhưng nó như chiếc neo đã thả xuống biển, và biết bao năm rồi nỗi sầu ấy không tan!

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 7

Cao Bá Quát là một trong các nhà thơ lớn của nền văn học. Mạch cảm xúc trữ tình của tác giả vẫn tuôn trào và không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm, ngọt ngào về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về hành động, cử chỉ của đôi vợ chồng người Phương Tây dù được Cao Bá Quát miêu ta rất thực, rất sinh động nhưng dường như có vẻ những chi tiết ấy đóng vai trò nhằm dồn nén cảm xúc để tới dòng thơ cuối cùng thì con người thi sĩ ôm nỗi thống khố rối bời và kín đáo ấy đã chẳng thể kìm hãm được nữa, mà đã thốt lên một lời tự than:"Biết đâu nỗi khách biệt li này!" Tưởng đâu đây là nỗi sầu xa xứ, nhưng không phải, từ cảnh tình cảm hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi lại gợi lên trong tâm trí người thi sĩ về một nỗi buồn của sự biệt lí. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm trong tâm trạng của nhà thơ: nỗi khát khao về một gia đình hạnh phúc, nỗi nhớ nhung tình vợ tình chồng. Sự giãi bày, chia sẽ này cũng là một trong những phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc ẩn sâu trong tâm hồn của người trí thức phóng khoáng, ngang tàng. Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng là người có nhân cách cứng rắn, ngang tàng và là ngòi bút tài hoa, các tác phẩm của ông đều rất mới mẻ, sắc sảo.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 8

Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng. Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời. Đặc biệt, khác với nhiều cây bút cùng thời, qua sáng tác của mình, Cao Bá Quát bộc lộ một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm tiếp nhận những hương vị, màu sắc xa lạ với quan niệm truyền thống và một tâm hồn phóng khoáng biết hướng tới cái đẹp đích thực không bị bó buộc, đóng khung bởi những khuôn khổ của tình cảm theo lễ giáo Khổng - Mạnh.

Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được “dương trình hiệu lực” nhưng thực chất là điều đi phục dịch để “lấy công chuộc tội”. Tuy thế “có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm”, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn. Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,

Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năng lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng - “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám "tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm trăng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’" như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người. Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rầm rì nói với nhau

Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy.

Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc. Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:

Biết đâu nỗi khách biệt li này!

Tưởng đâu là nỗi sầu xa xứ. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 9

Dương Phụ Hành được Cao Bá Quát sáng tác trong lần ông có dịp theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán bên Indonesia. Đặc biệt, chuyến đi ấy đã giúp Cao Bá Quát phát hiện ra nhiều điều mới mẻ, thú vị thông qua hình ảnh người phụ nữ phương Tây làm nũng với chồng. Tất cả những chi tiết ấy đều được quan sát bằng đôi mắt tinh tế của Cao Bá Quát, ông đã ghi lại và miêu tả cảnh tượng ấy thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng được tác giả được bộc lộ một cách nhẹ nhàng, kín đáo. Chính vì lẽ đó mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong tác phẩm mới mang những nét riêng rất độc đáo và đặc sắc. Trong xã hội hiện đại ngày nay, có thể những lời nói và cử chỉ hồn nhiên kia đối với mọi người là quá đỗi bình thường, thậm chí người ta còn thấy rằng rất ngọt ngào và chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Nhưng đối với thời bấy giờ, khi ấy xã hội phong kiến Việt Nam còn bị bó buộc bởi những quan điểm bảo thủ, cực đoan, thiển cận trong những lối tự tôn mù quáng, lố lăng thì việc tán thưởng hay đồng tình với một cảnh tượng đẹp đẽ và xa lạ như thế đã thể hiện quan niệm nghệ thuật thật mới mẻ và hiện đại.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 10

Cao Bá Quát là một nhà thơ sinh sống dưới triều Nguyễn nước ta, ông là người có tài năng, học vấn, thơ văn của ông mang nhiều màu sắc phong phú và chủ đề đa dạng, bộc lộ được lòng yêu nước thương dân, tấm lòng đồng cảm sâu sắc với những số phận khổ đau, bất hạnh, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến mục rỗng. Và đặc biệt so với nhiều nhà thơ cùng thời, thơ của Cao Bá Quát lại mang một phong thái khác lạ, bởi ông biết du nhập và làm mới thơ văn của mình bằng những nét văn hóa, cái đẹp vượt xa ngoài lễ giáo phong kiến phương Đông. Và một minh chứng cụ thể cho quan điểm trên chính là bài Dương phụ hành.

Dương phụ hành có nghĩa là Bài hành về người thiếu phụ phương Tây, được viết khi ông bị cử theo phái bộ của Đào Phú Trí sang Indonesia làm công cán, thực chất chuyến đi này là hành trình đi phục dịch "lấy công chuộc tội". Nhưng cũng chính chuyến đi này đã làm cho Cao Bá Quát được mở rộng tầm mắt, tiếp thu những vẻ đẹp mới từ trời Âu xa xôi, mà có thể theo nhiều nhà nho nhà văn cho ấy là vô phép tắc. Trong đôi mắt nhà thơ người thiếu phụ Tây phương duyên dáng, xinh đẹp hiện lên thật khác lạ trong màu áo trắng tinh khôi như sau:

"Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau,

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,"

Có lẽ với đa phần người phương Đông, màu "trắng phau" không phải là một màu gì đẹp đẽ, mà mang nhiều không khí tang tóc, buồn bã, cũng không ai dám mặc tự tin diện chúng ra bên ngoài cả, có chăng là lớp áo lót bên trong, được che đậy bằng thứ quần áo có màu khác bên ngoài. Thế mà người phụ nữ Tây phương ấy lại vượt ra khỏi tầm suy nghĩ khi diện một bộ váy trắng phau, và càng bất ngờ hơn bộ váy áo ấy dường như càng tôn lên cái vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người thiếu phụ. Hơn thế nữa, người phụ nữ ấy công khai tựa vào vai chồng thật hạnh phúc để ngắm "bóng trăng thâu", một hình ảnh mà đối với chúng ta bây giờ thực lãng mạn biết mấy, nhưng trong đôi mắt ngập tràn lễ giáo xưa thì có cái lý nào lại như vậy. Tuy nhiên bằng tầm mắt và suy nghĩ rộng mở của mình Cao Bá Quát lại thấy hình ảnh ấy thật đẹp thật duy mỹ, thật ngọt ngào tình cảm quá, khéo mơ ước cả đời cũng chẳng có dịp vậy. Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và cảm giác như bắt được một cái thứ gì đó mới lạ thú vị lắm, ông tiếp tục đưa đôi mắt tinh tế của mình để quan sát thì càng ngạc nhiên hơn trước những cử chỉ thân mật, âu yếm mà người thiếu phụ dành cho chồng mình thật tự nhiên, ấm áp:

"Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,

Kéo áo rì rầm nói với nhau."

Người thiếu phụ ấy thấy điều thú vị nơi chiếc thuyền, thì tay khẽ giật áo chồng ríu rít tâm sự, kể chuyện nhau nghe, trông thật dễ thương, gần gũi biết bao. Hành động này tuy đã đủ ngạc nhiên nhưng vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

"Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,

Gió bể đêm sương thổi lạnh thay!

Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,"

Vợ chồng tựa vai nhau, tâm sự cũng đã đủ gió đêm đã lạnh, cả hai cùng có ý về nhà, và cô vợ đã có một cử chỉ thật yêu kiều, thể hiện sự yếu đuối cần che chở bao bọc của người phụ nữ ấy là "Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy". Ôi nghe cái cử chỉ nũng nịu ấy sao thấy xao xuyến và dễ thương đến lạ lùng, bỗng thấy phụ nữ phương Đông thật khổ hạnh, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc được chồng đỡ đàn cho tí chút, chỉ chăm chăm cơm nước hầu hạ, chẳng khác con ở là mấy. Tất cả cũng chỉ tại cái lễ giáo cứng nhắc, bảo thủ một cách hài hước đã vùi dập làm cho cái đẹp đẽ trong tình cảm vợ chồng, cái yếu đuối, mong ước được chiều chuộng của người phụ nữ không có cơ hội ngóc đầu. Lời thơ của Cao Bá Quát cũng như tiếng thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một thứ văn hóa xa lạ, nhưng tất cả những điều ông hằng quan sát từ vợ chồng người thiếu phụ nọ chỉ là cái cớ, cái bệ phóng cho hàng vạn những cảm xúc dồn nén từ đáy lòng bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối ta mới vỡ lẽ ra nhưng tâm tư kín đáo ấy của nhà thơ:

"Biết đâu nỗi khách biệt ly này!"

Hóa ra, nhà thơ đang nhìn cảnh vợ chồng họ tình cảm mà tự thấy xót xa cho thân phận xa quê, xa gia đình của mình đấy ư, quả thật đắng cay trăm ngàn. Chính tình cảm lứa đôi ấm nồng, khiến người ta phải thổn thức ghen tị đến đỏ mắt đã khiến ông mường tượng về người vợ nơi quê nhà, nỗi khát khao về một gia đình hạnh phúc, chồng vợ thuận hòa, hai bên đỡ đần mà lại tình cảm như thế kia thì tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời cũng thể hiện cái bản tính phóng khoáng , vẻ đẹp thật nhân văn, mới mẻ nơi tâm hồn người thi sĩ.

Dương phụ hành là một tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm bên trong con người, không phân biệt màu da, tôn giáo ấy là nỗi niềm khát khao về một gia đình hạnh phúc, ấm áp, mong ước có được tình cảm gần gũi giữa vợ chồng. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện một góc nhìn mới, một cái nhìn thật nhân văn, ấy là người phụ nữ có quyền được chở che, được nũng nịu và được thương yêu sau tất cả những gì họ hi sinh cho gia đình.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 11

Cao Bá Quát, một danh nhân văn học vĩ đại, là một tên tuổi lấp lánh trong văn học Việt Nam thế kỷ 19. Ông nổi tiếng với tính cách mạnh mẽ, kiên cường và tài năng văn chương sắc sảo, mới lạ. Thơ của ông thể hiện sự giàu có về nội dung và cảm hứng. Đó là tình yêu sâu đậm dành cho quê hương, sự đồng cảm sâu sắc với những người bất hạnh, là niềm tự hào về lịch sử dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ với chế độ phong kiến. Khác biệt với nhiều người đồng thời, thông qua tác phẩm của mình, Cao Bá Quát thể hiện sự thông thái, nhạy bén trong việc chấp nhận những giá trị mới, màu sắc mới mẻ, không bị gò bó bởi những giới hạn truyền thống và tinh thần tự do khám phá những vẻ đẹp đích thực.

Trong chuyến công tác ở Inđônêxia, Cao Bá Quát đã viết bài Dương phụ hành. Dù lúc đó được coi là điều kiện cần để 'chuộc tội', nhưng thực sự, chuyến đi đã mở ra một thế giới mới cho ông, mở mang tầm nhìn và tâm hồn. Đặc biệt, ông đã phát hiện ra những nét đẹp mới của phụ nữ phương Tây và trải nghiệm cuộc sống văn minh xa lạ này qua đó thúc đẩy sự sáng tạo và hiểu biết của ông về thế giới.

Một thiếu phụ Tây mặc áo trắng tinh khôi,
Dựa đầu vào vai chồng dưới ánh trăng sáng ngời.

Cuộc sống đa biến và phong ba đã giúp Cao Bá Quát trở nên nhạy bén, tinh tế trong quan sát. Chỉ với vài chi tiết cụ thể và sắc nét, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh sâu sắc và ấn tượng. Trong đó, màu trắng của chiếc áo - 'một mảnh tuyết' của thiếu phụ Tây, được nhấn mạnh. Người phương Đông thường liên kết màu trắng với tang lễ, nhưng ở đây, tác giả nhận thức màu trắng như một biểu tượng của sự tinh khôi và đẹp đẽ. Điềm tĩnh và nhạy bén, chúng ta có thể cảm nhận điều này thông qua so sánh. Tuy nhiên, hành động 'dựa đầu vào vai chồng dưới ánh trăng sáng ngời' thì khá lạ lùng. Một phụ nữ phương Đông truyền thống thường không thể làm điều này, nhưng ở đây, nàng đã ngồi bên cạnh chồng, cùng ngắm trăng dưới ánh sáng trăng toả khắp. Mặc dù điều này có vẻ 'thiếu chín chắn' và 'không phải lối thường', nhưng không thể phủ nhận sự lãng mạn và tự nhiên của cảnh này. Màu trắng của áo, ánh sáng từ ánh trăng và hành động dựa đầu vào vai chồng tạo ra một bức tranh tình cảm và lãng mạn. Điều này chắc chắn sẽ gây ấn tượng và thú vị cho độc giả.

Nhìn thấy đèn lóe bên bờ Nam sông,
Kéo áo rầm rì trò chuyện với nhau.

Tuy nhiên, tất cả những điều này vẫn chưa gây ấn tượng sâu sắc bằng những hình ảnh sau đây:

Đang nắm tay cốc sữa mà lười biếng,
Gió biển, đêm sương lạnh thổi qua.
Vẫn quấn quýt, đòi chồng nâng lên.

Người phụ nữ đó thể hiện sự duyên dáng, kiều diễm. Dáng người nũng nịu, mong chờ sự quan tâm của chồng thật đáng yêu. Tất cả được nhìn nhận qua một con mắt tinh tế và miêu tả khách quan. Sự đồng cảm và sự ngưỡng mộ chỉ được biểu hiện một cách dịu dàng. Do đó, hình tượng người phụ nữ Tây dương trong bài thơ mang lại một sự độc đáo và rõ nét. Ngày nay, những lời nói và hành động ngây thơ như vậy đối với con người Việt Nam hiện đại là điều bình thường, thậm chí không có ý nghĩa đặc biệt. Nhưng vào thời điểm đó, khi xã hội phong kiến Việt Nam còn bị ràng buộc bởi những quan điểm cũ kỹ, khiến việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ đẹp ngoại lai như thế là một biểu hiện nghệ thuật phản ánh một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

Những cảm xúc trữ tình của tác giả không chỉ dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh về hình ảnh người phụ nữ Tây dương, cặp vợ chồng người Phương Tây mặc dù được mô tả rất thực tế, rất sống động vẫn như là một cách để dẫn dắt cảm xúc đến dòng thơ cuối cùng, khi con người ôm nỗi buồn bực và đặc biệt làm lo lắng ấy không thể giữ trong lòng nữa, phải thốt lên:

Có lẽ nỗi buồn này không phải từ xa xứ!

Ban đầu tưởng rằng nỗi buồn đó đến từ sự xa cách. Nhưng không, nó xuất phát từ sự hạnh phúc, sự yêu thương của cặp vợ chồng. Và chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của tác giả: khao khát hạnh phúc gia đình, nhớ nhung tình yêu của vợ chồng. Sự giải thoát này cũng là một cách để thể hiện vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn của những người trí thức tự do, phóng túng.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 12

Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu đầu trên quê hương hay những nơi khác lạ. Sau khi được định tội, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho đi xuất dương hiệu lực trong phái đoàn do Đào Phú Trí là trưởng đoàn, Trần Tú Dĩnh là phó đoàn. Ở triều Nguyễn, đối với một người có thể sử dụng mà không may mắc tội thì nhà vua thường tạm tha và phân phối đi đến một đồn quân nào đó phục dịch để chuộc tội. Đó là hình thức “quân tiền hiệu lực”. Hoặc khi có một phái bộ nào xuất dương đi giao thiệp với nước ngoài thì những phạm nhân ấy cũng được đi theo phục dịch để lấy công chuộc tội gọi là "dương trình hiệu lực”, Cao Bá Quát cũng được xử trí theo những “đặc ân” đó.

Ngồi trên thuyền, giữa trùng dương rộng lớn, ông lại cảm thấy trong lòng đầy hào hứng, hùng khí lại ngùn ngụt như xưa:

“Gió Bắc đưa thuyền qua muôn trùng biển cả,

Ta ngâm câu thơ dưới cánh buồm mát dịu,

Có ai thử đem câu thơ kinh người của chàng Tiểu Tạ.

Mà đề lên khắp cái núi ở chân trời kia!”

Khi cánh buồm lộng gió đi vào trời nước bao la, ông tự hỏi: “Có ai học được nét vẽ của Tôn Vị ngày xưa để thử vẽ cái cảnh hùng vĩ này của một chàng ngâm thơ trên đầu ngọn sóng!”.

Ông ví mình như con hạc bị ốm, con chim hồng bị đau, đã bao lâu không con hi vọng, nên lại chắp cánh bay trên đường bay rộng lớn của chim bằng. Giận cho mình bao lâu chỉ làm một tài tử khốn cùng trong bút mực, anh trượng phu tầm thường giữa núi mây!

Ra nước ngoài, tầm con mắt ngài thêm mở rộng. “Cuộc ngoạn du, mới biết cá lớn nghìn dặm. Kiến thức hẹp hòi, khác nào nhìn con báo qua một chiếc ống chỉ thấy nó có một vằn".

Ông nghĩ tới lối học từ chương, thái độ đóng cửa không chịu tìm hiểu nước ngoài thật là nguy hiểm. Ý nghĩ này cọn được nêu lên trong bài ông đề cập Yên Đài Anh Ngữ của Bùi Ngọc Quỹ. Ông này đã đi sứ nước ngoài học được nhiều điều mới lạ. Cao tự trách mình: “Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai từng câu từng chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả trời đất”.

Phái đoàn của ông đi Indonesia và Campuchia mục đích chủ yếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình. Ra nước ngoài, ông đã thấy đời sống của người Tây phương, lại thấy cảnh người da đen kéo xe cho người da trắng, ông cũng phần nào nhận thức được sự phát triển của các Tây phương và nguy cơ bị xâm lược của các nước Á Đông. Lòng yêu nước được kích thích, ông càng nhìn rõ hơn sự nhu nhược và bất lực của triều đình, tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm”.

Trở lại bài thơ Dương phụ hành, Cao Bá Quát như cầm bút viết ngay một cảnh tượng về cuộc sống của người phụ nữ Tây phương lướt qua con mắt quan sát của nhà thơ. Đây là một cuộc sống đối lập với người phụ nữ Việt Nam: Giữa cái thùy mị, kín đáo với cái nũng nịu phô trương từ cách ăn mặc đến cử chỉ:

“Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”

Và, nhiều khi họ có cái nhìn tò mò đối với người lạ rồi bình phẩm, bàn tán - một thói xấu, một cử chỉ đến khó chịu:

“Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói

Kéo áo rầm rì nói với nhau...”

Ta hiểu người đàn bà Tây dương “níu áo chồng” rồi nói những gì đó với nhau, ẩn sau câu thơ là sự căm ghét của nhà thơ đối với lối sống đó.

Tiếp đó, Cao Bá Quát miêu tả bằng những lời thơ mộc mạc nhưng nói lên đầy đủ lối sống khác lạ, phè phỡn, no đầy của họ:

“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay

Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay...”

Tay cầm cốc sữa mà “hững hờ” không muốn uống, cảnh tượng này đối lập với con người trong bài thơ “Giữa đường gặp người đói” - lời thơ như tiếng kêu xé lòng:

“Một con người thất thểu

Áo rách nón tả tơi...

Ngày hai cố chiếc tráp

Ngày ba nhịn đói dài...

Cảnh tiếp theo đối lập ngay với chính tâm trạng của nhà thơ:

Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy

Biết đâu nỗi khách biệt li này...”

Nghĩa là ở đây thì “bà đầm" uốn éo với chồng, nằm xuống được nhưng khi ngồi dậy phải có chồng nâng! Trong khi đó thì chính nhà thơ đang ở trong cảnh biệt li!

Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu dầu trên quê hương hay những nơi khác lạ!

Như vậy ở bài thơ này, nhà thơ vừa nhìn thấy cái khác lạ trong đời thường, lại vừa thấm thía với bản thân mình.

Phân tích Dương phụ hành - mẫu 13

Cao Bá Quát, một nhà thơ nổi tiếng thời kỳ triều Nguyễn, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam. Thơ của ông không chỉ phản ánh lòng yêu nước và lòng nhân ái mà còn thể hiện sự sáng tạo và độc đáo trong cách viết. Bài thơ 'Dương Phụ Hành' là một minh chứng rõ ràng cho điều này.

Dương phụ hành là một tác phẩm được Cao Bá Quát viết khi ông đang phục vụ ở Indonesia. Mặc dù là một hành trình đi phục vụ nhưng nó cũng là cơ hội để ông tiếp xúc với vẻ đẹp mới và tiếp thu những trải nghiệm mới. Trong bài thơ, ông miêu tả hình ảnh một người phụ nữ Tây phương duyên dáng và xinh đẹp trong áo trắng tinh khôi.

“Thiếu phụ Tây Dương, mặc áo trắng tinh khôi,
Tựa vai chồng dưới ánh trăng vắng.”

Dường như với phần lớn người dân phương Đông, màu trắng pha không được xem là một màu sắc đẹp, mà thường mang theo một cảm giác tang thương, buồn bã. Ít ai dám mặc tự tin diện trang phục trắng ra ngoài, thường chỉ sử dụng như là lớp áo lót được che giấu bên trong, được che phủ bởi những mảnh trang phục khác màu. Tuy nhiên, người phụ nữ phương Tây lại vượt ra khỏi những quan niệm đó khi mặc một bộ váy trắng pha. Đáng ngạc nhiên hơn, trang phục ấy càng làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế của người phụ nữ. Hơn nữa, cô ấy công khai tỏ ra hạnh phúc khi tựa vào vai chồng để ngắm nhìn 'bóng trăng thâu', một hình ảnh mà đối với ngày nay có thể coi là lãng mạn, nhưng trong mắt của những người đã trải qua thời kỳ lễ giáo xưa thì lại có một sức hút đặc biệt. Tuy nhiên, với tầm nhìn và suy tư rộng lớn của mình, Cao Bá Quát lại cảm thấy hình ảnh ấy thật đẹp, thật duyên dáng và thật ngọt ngào, làm ông mơ ước rằng mình cũng có thể trải qua điều đó trong cuộc đời. Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và hứng thú như khi phát hiện ra điều gì đó mới lạ và thú vị, ông tiếp tục nhìn những cử chỉ thân mật, âu yếm mà người phụ nữ dành cho chồng mình, một cách tự nhiên và ấm áp.

“Nhìn thuyền Nam, đèn le lói,
Kéo áo rì rầm nói cùng nhau.”

Người phụ nữ kia thấy điều thú vị trên con thuyền, vì vậy cô nhẹ nhàng giật áo chồng để trò chuyện, chia sẻ, nhìn cô thật dễ thương và gần gũi. Hành động này đã đủ khiến người ta ngạc nhiên, nhưng nó vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

“Cốc sữa đưa tay lười biếng,
Trời đêm gió sương lạnh thay!
Uốn éo muốn chồng dỗ dành dậy,”

Vợ chồng dựa vào nhau, cùng trải qua gió đêm lạnh lẽo, họ có ý định quay về nhà. Cô vợ thể hiện sự yếu đuối của mình bằng cử chỉ 'Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy'. Cái cử chỉ đó khiến người ta cảm thấy xao xuyến và đáng yêu đến lạ thường, đồng thời thấy lòng thương cho phụ nữ phương Đông, mà đôi khi không nghĩ tới việc được chồng quan tâm. Lời thơ của Cao Bá Quát như hơi thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một nền văn hóa xa lạ. Tất cả những điều ông nhìn thấy từ vợ chồng người thiếu phụ chỉ là lý do, là động lực cho hàng ngàn cảm xúc dồn nén từ bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối mới tiết lộ tâm tư sâu kín của nhà thơ:

“Ai biết đâu nỗi xa lìa này!”

Nhà thơ nhìn thấy tình cảm ấm áp của vợ chồng và cảm thấy xót xa cho sự xa quê, xa nhà của mình. Tình cảm ấy khiến ông mường tượng về người vợ ở quê nhà, về một gia đình hạnh phúc, một mối quan hệ hòa thuận giữa chồng vợ, một tình cảm mà tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than vãn của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời thể hiện cái tính cách phóng khoáng, cái vẻ đẹp nhân văn, mới lạ trong tâm hồn của nhà thơ.
Dương phụ hành là một tác phẩm nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm trong con người, không kể đến màu da hay tôn giáo, mà là khao khát về một gia đình hạnh phúc, ấm áp. Bài thơ cũng thể hiện quan điểm về quyền của phụ nữ trong gia đình, họ có quyền được chăm sóc, được âu yếm và được yêu thương sau tất cả những gì họ đóng góp cho gia đình.

Đánh giá

0

0 đánh giá