Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng
Đề bài: Cảm nhận về tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng của Kim Lân
Dàn ý viết Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng
I. Mở bài:
Kim Lân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Làng là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tình yêu làng, yêu nước đậm sâu của ông Hai, một lão nông hiền lành, chất phác.
II. Thân bài:
Cảm nhận tình yêu làng tha thiết của ông Hai:
* Trước khi ông Hai nghe tin làng chợ dầu theo giặc:
* Khi ông Hai nghe tin làng chợ dầu theo giặc:
* Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính: Ông vui sướng, hạnh phúc tột cùng, sự tự hào trở về. Ông có cảm giác như được tái sinh.
* Tình yêu nước của ông Hai:
* Nghệ thuật:
* Nhận xét đánh giá: Qua tình yêu làng và tình yêu nước của nhân vật ông Hai, tác giả muốn nhắn nhủ với ta là hãy yêu quê hương, đất nước.
III. Kết bài:
Sơ đồ tư duy
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 1
Người ta đã viết rất nhiều về cái làng Việt Nam xưa kia, từ kho tàng đồ sộ ca dao tục ngữ, những khảo cứu phong tục, tập quán, những phóng sự việc làm... cho đến những tiểu thuyết mà cái làng gói trọn số phận của nhiều nhân vật. Làng, đó không phải chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí, mà đó là tất cả cuộc sống xã hội đối với người nông dân xưa, ở đó có tất cả những gì gắn bó với họ, làm nên cuộc đời họ... Làng, đó là khái niệm đầu tiên và có lẽ cuối cùng của họ về hai tiếng “quê hương”.
Nhưng trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, có thể thấy rõ làng chỉ là một cái cớ, một cái nền làm nổi rõ một nhân vật, một “người làng” đó là nhân vật ông Hai. Bởi vì câu chuyện không xảy ra trên đất của làng đã đành, mà trong suốt cả truyện không có một câu văn nào, một dòng chữ nào miêu tả cái làng Chợ Dầu ấy cả. Người ta chỉ biết về cái làng Chợ Dầu qua lời kể của ông Hai, qua lời người đàn bà tản cư, qua những lời đồn của dân làng đi tản cư, qua lời của người đàn bà chủ nhà... Nhưng nhiều nhất là qua những câu chuyện và những nỗi niềm ôm tưởng nhớ của ông Hai, qua tình yêu lạ lùng của ông đối với tất cả những gì thuộc về làng ông.
Ông không thuộc hàng cung đình mà số phận có thể tiêu biểu như một người nông dân một thời như anh Pha, chị Dậu; cũng không thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân hay làm, chịu khó và có lẽ khéo tay nữa. Nhưng ông không phải là người nông dân hiền lành, ăn no vác nặng, kiểu người mà tầm mắt và suy nghĩ suốt đời không vượt khỏi lũy tre làng. Ông Hai vui tính và hay chuyện nữa, và tinh khôn láu lỉnh, cái tinh khôn láu lỉnh của người nông dân đã đi đây đi đó, đã tiếp xúc nhiều. Cái buồn cười đáng mến của ông già cái gì - cũng - biết: “rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu”, cảnh mà ông đi “nghe đọc báo - ông khổ tâm hết sức nhưng không muốn ai biết mình đọc còn quá kém - “Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Chỉ một cảnh ông già nông dân nghe anh dân quân hình như mới đọc, đánh vần được chữ nào đọc luôn chữ ấy, ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng nên rõ rệt cái không khí kháng chiến của một thời. Ông bàn những chuyện “quốc gia đại sự’, như để Đác-giăng li-ơ đi đi về về là sự sai khiến của ông. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế khác, ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia...” thật say sưa, sảng khoái và hưng phấn, mặc dù chính ông vẫn biết là “học lỏm cả đấy thôi”, nhưng vẫn thích thú tự hào.
Chỉ bằng vài ba nét miêu tả, tác giả Kim Lân đã tái hiện được chân dung một mẫu người lí thú, rất thật, rất sống động, rất thường gặp ở xung quanh ta. Tính cách của ông Hai bộc lộ ngay qua lời nói, cử chỉ, mà ta có cảm tưởng như dễ dàng biết hết cả: những con người như vậy làm sao chịu được cảnh tù túng trong gian nhà tản cư ở nhờ ở đậu, trong ánh sáng chập chờn của ánh đèn dầu, trong tiếng lầm nhầm tính toán của món tiền nhặt nhạnh hàng ngày của vợ... Ông phải đi tìm người nói chuyện, và câu chuyện thường là một điều tự nhiên trong tính cách của con người hay chuyện, ưa giao tiếp, thích hiểu biết, cái hiểu biết do học lỏm của người nghèo. Như đã nói đối với người nông dân, cái làng là tất cả và ông Hai thích khoe làng, khoe tất cả những cái gì “hơn người” ở làng ông, bởi cái làng chính là ông, là những gì tốt đẹp nhất của ông. Những nhận thức chính trị của người nông dân này tuy đơn giản mà dứt khoát và rạch ròi: Trước đây ông mê man ca ngợi cái làng của viên Tổng đốc người làng, đến lúc thấy thù, thấy khổ vì nó, ông lại khoe những gì ngược lại: thế giới của ông. Ông đi nghe những ngày tổng khởi nghĩa, những ngày kháng chiến... vẫn là cái làng ấy, nhưng bây giờ là cái làng “của ta”, của ông và những người như ông.
Bây giờ trong lúc xa làng, trong cái cuộc sống chật hẹp tù túng này, cái làng càng trở nên đẹp đẽ. Những điều mà ông vẫn nói về làng trong lúc khỏe hẳn có tô vẽ lên thêm bây giờ trở thành niềm tin, sự say mê, thành ước vọng của ông. Tối này sang tối khác, ông nói về làng, “làm như bác Thứ (ông hàng xóm) cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy bằng những lời đối thoại trách móc ông hàng xóm lãng ý không nghe chuyện, nhưng thực ra, ông Hai đâu có cần điều ấy lắm, ông nói cho chính mình, cho thỏa nỗi nhớ, nỗi ao ước của mình. Tình hơn khi miêu tả cuộc sống của “ba bốn nếp tản cư” trong những gia đình chủ nhà tinh quái như mụ chủ nhà ông Hai. Nhân vật mụ chủ này phảng phất sự tham lam tai ác của những nhân vật đàn bà nông thôn trước Cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của Nam Cao. Những người đàn bà xấu xí quá quắt mà không biết là mình ác. Tác giả vẽ hơi kĩ về mụ, là để viền một nét tương phản vào hình ảnh ông Hai. Ông dễ tính, xởi lởi nhưng không thể chấp nhận, con người đẹp trong ông tương phản gay gắt với những gì bình thường, tối tăm đến ti tiện với mụ chủ. Ông ghét lây cả người chồng hiền lành của mụ vì lẽ anh ta không biết “dạy” vợ. Khổ nhất cho ông Hai là phải bó mình trong gian nhà chật hẹp, lo đối phó với người đàn bà quá quắt như người đàn bà này. Vì thế, có dịp là ông bỏ nhà đi ngay, phó mặc mọi sự cho con, dù vẫn biết để dặn con: “Nó thì rút ruột ra...”.
Phút giây sảng khoái, sung sướng nhất của ông Hai có lẽ là buổi trưa hôm ấy, lúc ông phóng bước trên con đường làng “Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói lừ đừ... Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng...” ông thoát ra ngoài sự tù túng, lao vào thế giới của ông. ông đi nghe tin tức, ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến, ông vui cả với cái nắng chang chang để cho “Tây nó ngồi trong vị trí giờ này bằng ngồi tù” - “Ruột gan ông cứ múa cả lên...”. Đúng lúc ấy, cái tin sét đánh về làng ông đưa đến. Tin dữ không phải là cái làng đẹp đẽ ấy bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng đất, mồ mả ông cha của ông bị mất, mà cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...”. Tội nghiệp ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng chờ từng tin tức của làng, lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác” rồi “cúi gằm mặt đi thẳng”, “cổ ông lão nghẹn đắng cả lại, da mặt tê rân rân... Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Cơ sự ấy về làng ông có lẽ ông chưa bao giờ tưởng tượng, cũng như nỗi đau nỗi nhục đang đến trong ông có lẽ chưa từng biết. Phải chăng đến lúc này, lần đầu tiên ông mới phải dùng lí trí để suy nghĩ về cái làng của ông, mới phải trăn trở về tình yêu làng trong ông. Cái làng bây giờ không phải chỉ là thôn ngõ xóm, những hào những ụ giao thông, những ao làng những giếng làng xây đá ong, đường gạch đi không lấm chân... những cái hơn người mà ông từng khoe nữa. Làng bây giờ là một cái gì lớn hơn, là danh dự, là chỗ đứng, là cái lẽ để làm người. Suốt cả cái nước Việt Nam này, người ta ghê tởm thù hằn cái giống Việt gian bán nước...” Làng, bây giờ trong ý thức ông Hai, gắn liền với nước, với kháng chiến.
Mà không phải riêng ông Hai. Đó là nhận thức của người dân lúc bấy giờ ở vùng tự do cũng như vùng tạm chiến, từ người đàn bà tản cư vô tình đem tin đến, từ mụ chủ nhà với cái lệnh mơ hồ: “đuổi hết những người làng Chợ Dầu không cho ở nữa” - có lẽ cái lệnh ấy là hiển thị thái độ hơi cực đoan lúc bấy giờ. Câu chuyện thắt thêm một cái nút vào nỗi khổ tâm đau đớn của ông Hai. “Biết đem nhau đi đâu bây giờ?”. Trong lúc đen tối đó, ông Hai vẫn không mất sáng suốt, ông vẫn tin rằng sẽ có chỗ để ở. Đó “vì chính sách cụ Hồ người ta chẳng đuổi”, nhưng dẫu như thế thì vẫn chẳng còn mặt mũi nào mà đi tới đâu...”
Người đọc bị cuốn vào mạch tâm tư của ông Hai, vào nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật quá tự nhiên, quá tài tình, vào duyên kể chuyện của tác giả mà quên đi cái cách “gỡ nút” câu chuyện quá giản đơn tưởng như vô lí. Có lẽ trên đời chưa có ai khoe cái việc “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn” một cách hả hê, sung sướng như ông. Trong sự cháy rụi của nhà ông, là sự hồi sinh của một làng khác: làng Chợ Dầu kháng chiến... Ai cũng mừng cho ông lão kể cả mụ chủ nhà tinh quái. Không những ông Hai mà có lẽ cả người ít ngờ về thái độ vui mừng dễ dãi của mụ. Nhưng nghĩ kĩ lại không bất ngờ, vì người đàn bà ấy cũng là người dân Việt Nam độc lập sống trong không khí của Cách mạng. Kim Lân thật đa tài khi chỉ bằng vài nét chấm phá đã cho ta thấy thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân.
Có thể nói, linh hồn của truyện ngắn Làng là nhân vật ông Hai. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân đã đưa vào văn học một bức chân dung sống động, đẹp, một vẻ đẹp riêng về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, những con người bình thường mà những gì tốt đẹp của họ - lòng yêu làng, yêu nước được khơi dậy và hoàn thiện để ngày càng đẹp đẽ. Bằng sự hiểu biết sâu sắc về người nông dân là cuộc sống nông thôn, với tấm lòng trân trọng yêu mến họ, Kim Lân đã có những tác phẩm độc đáo và đặc sắc về nông thôn và người nông dân (trong đó không thể không kể đến Làng). Điều này đã giúp ông trở thành một trong những nhà văn viết không nhiều nhưng được yêu mến rất nhiều ở nước ta.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 2
Trong mỗi cuộc kháng chiến của dân tộc, lòng yêu nước của nhân dân sẽ là sức mạnh vô cùng to lớn, tạo nên những chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã ca ngợi về tinh thần cách mạng và lòng yêu nước đó của người dân Việt Nam, cụ thể là nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với quê hương và đất nước sâu sắc.
Truyện kể về ông Hai, một người yêu làng và gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về làng của mình, ông cứ kể say sưa trong niềm nhớ thương về làng mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào,… Khi giặc kéo về làng, ông muốn ở lại cùng dân làng chiến đấu nhưng do yêu cầu của cấp trên mà ông phải xa làng đến một vùng đất khác.
Dù xa làng nhưng ông luôn hướng về làng, khổ tâm day dứt khôn nguôi. Nhất là khi ông nghe tin làng mình theo Tây, “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được, hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã khi làng mình theo giặc. Từ lúc ấy ông không muốn đi đâu, chỉ ru rú trong nhà, khi bị đuổi đi, ông định quay về làng nhưng rồi chính ông đã phản đối vì: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tâm trạng ông Hai khi ấy là nỗi đau, nỗi xót xa và những giằng xé, nửa tin nửa ngờ. Nhà văn đã cho thấy sự đồng cảm của mình khi miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật vô cùng chân thật.
Ông Hai chẳng còn biết tâm sự với ai, chỉ biết trò chuyện cùng đứa con út, đó cũng là cách để ông thanh minh cho làng mình. Khi nhận được tin đính chính rằng làng ông không hề theo giặc, những lời đồn đại kia là bịa đặt, ông đã sung sướng và vui mừng khôn xiết, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ hành động của ông. Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê, bởi đó là minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước. Ông nói trong niềm vui hồ hởi: “Cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”. Điều đó đã cho thấy tình cảm của ông đối với làng thật xúc động và đáng khâm phục biết bao.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 3
Kim Lân là nhà văn có sở trường về mảng đề tài cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam. Theo Nguyên Hồng thì đó là một nhà văn “một lòng đi về với đất, với con người, với thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống, con người ở thôn quê. Làng là một truyện ngắn thành công của Kim Lân ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
“Làng” là tác phẩm ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện có kết cấu đơn giản xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu của ông đối với làng Chợ Dầu của mình. Với những biến chuyển trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành hình tượng điển hình cho người nông dân Việt Nam ở giai đoạn chống Pháp.
Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi khi kể về làng, ông chỉ khoe và tự hào về cái sinh phần sừng sững ở cuối làng của viên tổng đốc làng ông, cho dù bản thân và nhiều người khác trong lòng đã phải khốn khổ vì cái sinh phần ấy.
Sau Cách mạng tháng Tám, làng ông trở thành làng kháng chiến. Ông Hai không còn khoe cái phần ấy nữa. Ông khoe làng ông có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Tình yêu làng gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống kháng chiến dân tộc.
Đối với ông hai, làng là máu thịt, là nguồn cội của con người, không thể nào rời xa được. Ông đã sinh ra ở đây, muốn sống gắn bó với làng, với xóm. khi chết đi, ông cũng muốn được nằm lại trên mảnh đất này. Trong khi đó, làng ông lại là làng kháng chiến, làng anh hùng. Ông tự hào về cái truyền thống, cái tinh thần của làng và cũng muốn ở lại cùng anh em kháng chiến. Xa làng, xa anh em, xa nhiệm vụ ông sẽ buồn biết bao. Bởi thế, lúc đầu ông lưỡng lựu, chưa muốn rời đi.
Phải xa làng đi tản cư, ông Hai rất buồn, luôn day dứt vì nhớ làng và anh em đồng chí. Ở nơi tản cư lúc nào ông cũng theo dõi và mong ngóng tin tức về làng. Những tin vui chiến thắng, ông Hai vui sướng vô cùng “ruột gan ông cứ múa cả lên”
Ông vô cùng buồn khổ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng lẽ đi, tưởng như đến không thở được”. “Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường”. Mấy ngày liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ.
Tâm trạng ông đầy sự giằng xé. Có lúc ông đã nghĩ đến việc “Hay là quay về làng”. Nhưng ông dứt khoát ngay “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Ông chỉ biết tâm sự với đứa con út bé bỏng để cho vơi bớt buồn khổ.
Khi nghe tin làng chợ Dầu được cải chính, ông Hai, sung sướng và hạnh phúc tột cùng. Gặp ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình để chứng minh cho làng Chợ Dầu không hề theo giặc “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”
Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai, ta dễ dàng nhận thấy kháng chiến, cách mạng đã đem lại cho những người nông dân những nhận thức, những tình cảm mới mẻ, sự nhiệt tình hăng hái tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh tụ.
Ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng, vốn là một tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân, đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự thống nhất và gắn bó giữa tình yêu quê hương và tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai cũng chính là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong văn hóa ở giai đoạn chống Pháp.
Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Nhà văn đã khôn khóe tạo ra những tình huống thử thách để từ đó bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật. Vốn sống gần gũi ở nông thôn đã giúp cho Kim Lân thành công trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật ông Hai. Tác giả đặc biệt tài tình khi miêu tả nội tâm nhân vật với những suy nghĩ phức tạp. giằng xé bên trong.
Cách sử dụng từ ngữ mộc mạc, gần gũi với người nông dân, sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ đã khiến Kim Lân có những trang văn thật dung dị mà sâu sắc. Chính vì vậy, người đọc có cảm giác ông Hai như một người nông dân với tất cả sự chân chất, mộc mạc, ngoài đời bước vào trang sách của Kim Lân.
Nhân vật ông Hai đã để lại nhiều tình cảm đẹp trong lòng người đọc, sự yêu mến trân trọng và cảm phục. Qua nhân vật ông Hai, ta thấy được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân vật ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.
Với tác phẩm Làng, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người nông dân Việt Nam ở giai đoạn chống Pháp. Nhân vật ông Hai trong truyện tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác luôn cháy bỏng tình yêu đất nước, quê hương. Thế hệ tuổi trẻ hôm nay, đứng trước sự vận động phức tạp của thế giới và tình hình trong nước cần học tập tình yêu làng yêu nước của ông Hai ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước trước âm mưu phá hoại của thế lực thù địch đang hoạt động dữ dội. Với tài năng và sức trẻ, tuổi trẻ chính là lực lượng mạnh mẽ nhất của đất nước. Bởi thế tuổi trẻ hãy sống xứng xứng đáng với những gì nhân dân đã kì vọng, tổ quốc đã tin tưởng và giao phó.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 4
Tố Hữu cho rằng: “Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học” còn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm về những con người khác nhau. Trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai – một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững vàng nơi lòng người và thách thức quy luật băng hoại của thời gian. Nguyên Hồng từng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn. Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông Hai. Ông không thuộc hạng cùng đình nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung.
Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của ông. Dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy để khi nói về nơi nuôi dưỡng mình, chốn quê thân thuộc “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.
Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ làng.Ông hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng.” Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ông phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ: “Chao ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt dào và tha thiết. Vì nhớ, vì yêu nên ông Hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười, ông vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến.Ruột gan ông lão như múa cả lên vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.
Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ Dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái cớ ông bám lấy để rời khỏi đây: “Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ra mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhục và tủi thân.
Mang trong mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn độn, ông Hai lê từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô đẩy, giằng xé trong đầu ông: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành công nỗi lòng của ông lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho số phận của chính mình và đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”. Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ đanh thép: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của ông, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì ?”.
Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào trái tim ông, phũ phàng dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng mà ông còn đau cho những người đồng hương cùng cảnh ngộ:”Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên sinh gắt gỏng khi nói chuyện với bà Hải. Ông Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó, không muốn ai xát muối vào vết thương trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất sinh nhai.
Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… Ông né tránh tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là “chuyện ấy”. Bởi chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế đầy phũ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lắm tay bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.
Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu hay Tổ quốc? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng?” để gia đình ông có chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ“, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của những kẻ nô lệ.
Dòng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi qua mọi ngõ ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông Hai đã khẳng định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.
Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi bày hết thảy những gợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi con về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ông muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình không được quên Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác. Phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị trong trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết. Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai bố con chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời từ vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ta chợt nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh hùng”:
“Người ta trong lúc hiểm nghèo
Hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn”.
Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước. Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng đông phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được hồi sinh một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông trở lại với “thói quen” cũ của mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo ! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả”.
Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn” một cách hả hê sung sướng thật sự như ông. Đối với người nông dân, ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi nhà? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có thể thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian”, được sống như một người yêu nước,lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật. Ông Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Không khó để nhận ra với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tôn của mình, của làng và của Tổ quốc bị vấy bẩn.
Với thứ hương thơm tỏa ra từ thiên truyện, với ánh chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm “Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loại câu cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ, nhục nhã. Ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ. Tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… Và “Làng” thành công trên mọi phương diện ấy. Kim Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông Hai.
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “… Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh sách của Kim Lân, cõi lòng ta say đắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “Làng”, nhịp đập của người thưởng văn hòa cùng nhịp đập của lão Hai, từ ấy ta tìm ra “thanh nam châm” của văn chương dưới một danh xưng khác là “Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc”. Sức hấp dẫn của tác phẩm là mạch tình cảm hoà quyện, thống nhất trong trái tim người nông dân, tựa như “toà thành” hiên ngang, sừng sững và bất diệt đến nổi chẳng có súng đạn nào có thể công phá, chẳng có ngọn lửa tàn ác nào có thể thiêu rụi. Tình cảm dành cho quê hương, đất nước đã nghiễm nhiên trở thành nguồn “thần hứng” của biết bao thi phẩm. Ví như “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 5
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng để lại cho thế hệ sau trong đó phải kể tới truyện ngắn Làng. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là ông Hai - một người nông dân nghèo nhưng lại có một tình yêu làng vô cùng sâu sắc.
Truyện ngắn Làng được viết vào đầu những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện kể về ông Hai cùng tình yêu làng, sự gắn bó tha thiết của ông với ngôi làng nhỏ của mình. Thế nhưng, khi kháng chiến bùng nổ, tình yêu làng của ông bị đặt trong một tình huống ngặt nghèo: làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Tin tức đó đã khiến cho ông Hai - một con người yêu làng, luôn tự hào về cái làng của mình phải đau đớn, tủi nhục muôn phần. Đến khi tin cải chính đến, ông Hai mới được trở về con người thực của mình, vui sướng, hớn hở khoe với mọi người việc ngôi nhà của mình bị giặc đốt. "Làng" của Kim Lân đã tái hiện chân thực hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp: yêu làng, yêu nước, giàu tinh thần cách mạng. Ông Hai - nhân vật chính trong tác phẩm cũng là đại diện cho những người nông dân nghèo nhưng luôn một lòng yêu quê hương, một lòng hướng tới kháng chiến, hướng tới Cụ Hồ.
Xuyên suốt trong truyện ngắn Làng, ta cảm nhận được một cách vô cùng rõ ràng tình yêu làng của ông Hai, từ những ngày còn ở làng, cho tới khi đến nơi tản cư rồi nghe tin làng theo giặc. Bất cứ thời điểm nào, khoảnh khắc nào, ta cũng đều thấy ngời sáng trong những trang truyện là tình yêu tha thiết của ông Hai đối với ngôi làng Chợ Dầu của mình. Khi còn ở làng, ông Hai cùng anh em hăng hái tham gia công việc kháng chiến. Nghe theo lời của Uỷ ban kháng chiến, ông Hai rời làng lên khu tản cư. Thế nhưng sâu thẳm trong ông là nỗi nhớ, là ước mong, khao khát được trở về ngôi làng của minh. Đến nơi tản cư, tình yêu làng của ông Hai được bộc lộ rõ nét hơn, lúc nào ông cũng nhớ và nghe ngóng tin tức về ngôi làng yêu quý của mình. Chẳng vậy mà khi cuốc đất trồng trọt, làm ruộng, ông vẫn luôn nhớ về những ngày được "cùng làm việc với anh em", "cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày". Ông nhớ về những ngày tháng còn được ở làng, còn được cùng làm việc với anh em làng xóm mà ông Hai "thấy mình như trẻ ra". Ông muốn được "về làng", "muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá, ...", nỗi khát khao trở về bùng cháy trong tâm hồn ông lão. Đó là bởi ông yêu làng, tình yêu làng của ông thấm đượm trong từng công việc mà ông làm ở nơi tản cư này. Tất cả đều gợi lên trong ông nỗi nhớ mãnh liệt về ngôi làng nhỏ bé của mình, về làng Chợ Dầu mà ông yêu quý "Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!".
Yêu làng, muốn được biết thông tin về làng, vậy nên lúc nào ông cũng chăm chỉ đến phòng thông tin để nghe ngóng tin tức kháng chiến dù rằng ông không biết chữ và chỉ đến để "nghe lỏm" người ta đọc báo. Ông Hai, một lão nông nghèo, phải rời xa quê hương của mình vì nhiệm vụ kháng chiến, nhưng lúc nào trong lòng ông vẫn luôn đau đáu nỗi nhớ về ngôi làng của mình, lúc nào cũng mong muốn được trở về quê hương cùng anh em, xóm làng chiến đấu chống lại kẻ thủ.
Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ khi mà ông được đặt trong một thử thách ngặt nghèo. Đó là tin tức làng ông theo giặc được những người đàn bà từ dưới Gia Lâm thông báo. Những người đàn bà mới lên khu tản cư ngồi nghỉ chân, nói chuyện với nhau dưới bóng cây và loáng thoáng nói về làng Chợ Dầu , ông chỉ nghe thấy loáng thoáng hai tiếng Chợ Dầu, nhưng cũng đã khiến cho ông Hai giật mình "lắp bắp hỏi lại: Nó ...Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?". Thế nhưng đáp lại lời ông Hai chỉ là lời chỏng lỏn, đỏng đảnh của người đàn bà tản cư: "Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây". Câu nói của người đàn bà như một tiếng sét ập thẳng vào tai ông Hai. Cái tin đó đã khiến cho ông choáng váng đến độ "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở nổi". Ông Hai hỏi lại trong niềm hy vọng mong manh rằng cái tin ông nghe chỉ là một tin đồn: "Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại...". Vậy nhưng đáp lại lời ông Hai chỉ là lời khẳng định chắc chắn của người đàn bà rằng: "Việt gian từ thằng chủ tịch đi cơ ông ạ". Có thể nói, tin tức mà người đàn bà mang tới cho ông Hai là một sự chấn động, đánh thẳng vào tình yêu làng trong tâm hồn ông. Cũng kể từ lúc đó, ông Hai như biến thành một con người khác, mang trong mình một sự tủi nhục, đau đớn của một kẻ tội đồ với dân tộc.
Sau khi nghe được cái tin dữ, ông Hai trở về nhà trong nỗi nhục nhã, ông "cúi gằm mặt xuống mà đi". Kim Lân đã vô cùng xuất sắc khi miêu tả những giằng xé trong tâm hồn của lão nông già ấy. Đó là nỗi đau, là niềm tủi hờn khi tình yêu làng thiêng liêng của ông bị vấy bẩn. Ông Hai "nằm vật ra giường", nhìn lũ con nhỏ đang chơi, ông "tủi thân" bật khóc. Nước mắt "giàn ra" trong khuôn mặt già nua khắc khổ của ông. Đối với những người nông dân nghèo, giọt nước mắt chỉ xuất hiện khi nỗi đau đó đã lên tới tột đỉnh và với ông Hai, giọt nước mắt kia không chỉ là nỗi đau mà còn là sự tủi hổ khi nghĩ về ngôi làng mình hằng yêu quý, là niềm thương xót cho những đứa con thơ dại của mình. Những đứa con thơ của ông, còn chưa hiểu gì, chưa biết gì đã trở thành " trẻ con làng Việt gian" "bị người ta rẻ rúng, hắt hủi". Đó còn là giọt nước mắt khi tình yêu làng, niềm tự hào về làng bao lâu nay của ông bất chợt bị "vấy bẩn" với cái tin tức rằng làng ông theo Việt gian. Đau xót, tủi hờn, ông Hai "rít lên" trong đau đớn: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Đó là tiếng thét của một con người yêu làng tha thiết nhưng lại bị phản bội một cách đau đớn, khốn khổ. Trong thâm tâm ông, niềm tin và nỗi đau hòa vào nhau, giằng xé lẫn nhau. Ông không tin rằng ngôi làng mà ông yêu quý lại có thể trở thành một ngôi làng "Việt gian bán nước" như người đàn bà nói. Thế nhưng "ai người ta hơi đâu bịa tác ra những chuyện ấy làm gì". Để tới cuối cùng, niềm hy vọng nhỏ nhoi đó của ông Hai sụp đổ, vỡ vụn. trong đau đớn "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian". Đó là tiếng nói buồn bã mà đau xót của một trái tim luôn hướng về quê hương, từ một tâm hồn không lúc nào ngơi tự hào về làng quê của mình.
Suốt những ngày tháng sau đó, ông Hai trở nên gắt gỏng với vợ mình và không dám ra khỏi nhà. Ông lão sợ hãi, không dám để ai nhắc tới những tin tức tồi tệ kia, nỗi đau đớn, dằn vặt bủa vây lấy tâm hồn ông. Ông Hai "trằn trọc", "rũ ra trên giường" và "thở dài", ông lo lắng bị mụ chủ nhà đuổi khỏi nơi ở, rồi sẽ không ai dám chứa chấp gia đình ông, những người dân của ngôi làng Việt gian bán nước. Cũng từ ngày nghe cái tin dữ ấy, ông Hai biến thành một con người khác. Nếu như trước đây, ông thường hay ra khỏi nhà, đi đến phong thông tin thì giờ đây, ông chỉ dám "quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng". Ông không dám bước ra khỏi nhà, không dám cả sang nhà bác Thứ đế mà tâm sự. Và như một lẽ đương nhiên, ông sợ hãi trước những lời người ta nói chuyện, những tiếng "Việt gian, cam - nhông, tiếng Tây". Và đến cả cái tin dữ, ông cũng né tránh gọi là "chuyện ấy". Nỗi đau, sự nhục nhã ê chề đã khiến cho ông Hai trở nên ủ rũ, mệt mỏi và chán chường, chẳng dám đối mặt với câu chuyện đau xót về cái làng của mình. Với ông Hai - một lão nông cần cù, yêu làng hơn tất cả thì cái tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc quả là một cú sốc, một nỗi uất ức, tủi nhục đến khôn cùng. Ngôi làng mà ông luôn yêu quý, tự hào nay trở thành Việt gian bị mọi người căm ghét. Khi mụ chủ nhà biết việc và đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai buộc phải đưa ra một lựa chọn khó khăn, chọn làng hay nước? Với ông Hai - một con người với tình yêu làng tha thiết, tưởng chừng đã có lúc ông nghĩ rằng "Hay là quay về làng?", thế nhưng suy nghĩ đó lập tức bị ông bác bỏ. Bởi tình yêu làng có lớn lao bao nhiêu nhưng khi làng đã theo giặc "thì phải thù", "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ".
Quanh quẩn trong ngôi nhà bé tí trọ đã khiến ông Hai bị dồn nén. Nỗi nhớ làng, mong nhớ về quê hương, ông gửi vào đứa con trai bé bỏng của mình. Ông hỏi nó về quê hương, để khắc sâu vào tâm trí nó rằng quê hương nó là làng Chợ Dầu, cùng là để truyền cho nó tình yêu làng sâu đậm của mình. Trong nỗi đau khổ đang giằng xé lấy tâm can ông, trò chuyện với con cũng là cách để ông Hai có thể vơi bớt những nỗi niềm trong tâm tư của mình, cũng là "để ngỏ lòng mình", "để mình lại minh oan cho mình". Ông Hai là điển hình cho những người dân quê Việt Nam hồn hậu, chất phác, dù trong hoàn cảnh đau đớn vẫn không nguôi một tình yêu quê hương sâu nặng!
Thế nhưng, may thay, cái tin cải chỉnh về làng ông lại đến bất ngờ, làm hồi sinh ông lão già. Cái tin ấy đã rũ sạch những đau khổ, tủi cực của ông Hai và ông lại trở lại "tươi vui, rạng rỡ". Ông Hai mua quà cho con, rồi lật đật chạy sang nhà bác Thứ mà khoe trong niềm hạnh phúc vô bờ: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn". Có lẽ chẳng người nông dân nào lại vui sướng đến vậy khi căn nhà mình gắng công gây dựng lại bị thiêu rụi sạch sẽ. Thế nhưng, với ông Hai, điều đó lại mang đến một niềm sung sướng, một sự hả hê mà không một lời nào tả xiết. Bởi nó là minh chứng cho sự trong sạch của làng Chợ Dầu của ông, và cũng là minh chứng cho tấm lòng trong sạch của ông đối với Cách mạng, với cụ Hồ. Câu chuyện kết lại trong âm thanh náo nức, hân hoan, vỡ oà của ông Hai - một lão nông với tình yêu làng đậm đà, sâu nặng.
Kim Lân đã dựng lên hình ảnh của một ông Hai với tình yêu làng sâu đậm vô cùng thành công. Ông là đại diện cho những người dân quê nghèo nhưng mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc, dù cho có trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu ấy vẫn luôn dạt dào, mạnh mẽ, lớn mạnh trong tâm hồn của họ.
Về nghệ thuật, tác giả đã xây dựng nhân vật ông Hai vô cùng độc đáo. Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống thử thách để thấy được tình cảm sâu nặng của ông đối với làng quê của mình. Bằng việc đặc tả cử chỉ, nét mặt, giọng nói của nhân vật, nhà văn đã khiến nhân vật ông Hai hiện lên thật sống động cùng tình yêu làng vô cùng sâu sắc. Và thêm vào đó, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một phần tạo nên thành công cho truyện ngắn Làng!
Tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn Kim Lân thể hiện rất xuất sắc. Đó là tình yêu của những người dân dành cho quê hương của mình. Tình yêu ấy thống nhất cùng tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến đã làm nên chiến thắng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 6
Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành công lớn. Văn ông nhỏ nhẻ, chậm rãi, hóm hỉnh mà đằm thắm. Trong cả hai giai đoạn sáng tác – trước và sau cách mạng – giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Truyện ngắn “Làng” có lẽ là tác phẩm nổi bậc nhất của Kim Lân và của cả nền văn học Việt Nam trước cách mạng 1945. Với ngòi bút chân thành, cái nhìn hiền lành mà sâu sắc, Kim Lân đã diễn tả những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai – một lão nông hết mực yêu cái làng của mình.
Có thể nói thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, cách mạng gặp rất nhiều khó khăn. Phần bởi thiếu thốn nhân lực, vật lực, bị quân Pháp khủng bố mạnh, phần bởi người dân chưa thực sự ngã về phía cách mạng. Bác Hồ hiểu rõ, muốn thắng kẻ thù phải vận động được sức mạnh toàn dân tộc, tạo nên một cuộc bão táp cách mạng, quét sạch kẻ thù ra khỏi đất nước.
Năm 1948, truyện ngắn Làng ra đời thật đúng thời điểm. Lúc này, người nông dân đã dần tin tưởng và ủng hộ cách mạng. Sự diễn biến này diễn ra từ từ nhưng rất chắc chắn. Kim Lân đã nhìn thấy điều đó. Nó rất cần thiết cho một cuộc vận động toàn diện trên mặt trận yêu nước, mặt trận kháng chiến. Nhưng ông muốn diễn tả sự giác ngộ ấy một cách tự nhiên nhất, không gượng ép, không mang biểu dương hay ca ngợi theo kiểu khẩu hiệu. Bởi thế, nhân vật ông Hai ra đời là kết quả của sự cân nhắc rất kĩ lưỡng của nhà văn.
Ông Hai là một nông dân suốt cuộc đời sống ở làng Chợ Dầu, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, tổ tiên và họ hàng gần xa. Quê hương trở thành một phần máu thịt của ông. Và khi chết đi, ông cũng muốn được nằm trên mảnh đất yêu thương này.
Người Việt Nam ta là thế, họ luôn nghĩ “cây có cội, nước có nguồn”, quê hương chính là cội nguồn không bao giờ được đánh mất. Thế nên, khi được lệnh phải đi tản cư, ông Hai lưỡng lự, lúc đầu ông quyết không đi. Cũng thật dễ hiểu cho ông Hai, bằng tuổi này rồi, sống được bao lâu nữa, giờ ra đi biết có trở về được không? Còn cái làng này ông yêu nó thế, giờ ra đi rồi, ông như mất đi nửa cuộc đời. Ẩn sau cái tình yêu làng là thói quen nghìn đời của người nông dân sống bám đất bám làng, thủy chung với quê hương nguồn cội.
Ẩn sau cái tình yêu làng còn là cái tình yêu nước thiết tha. Nhưng cách mạng đang cần và họ phải thay đổi. Những chuyển biến âm thầm mà dữ dội ấy trong tình cảm của người nông dân Việt Nam đã được nhà văn biểu đạt hết sức xúc động bằng sự cảm thông sâu sắc.
Lưu luyến, nấn ná vậy chớ gia đình ông Hai cũng đi. Chưa biết rồi sẽ ra sao nhưng vì cách mạng, vì kháng chiến nên phải cùng mọi người lên vùng đất mới. Đó là cái tài tình của nhà văn. Bởi ông muốn nói rằng, sự giác ngộ của người nông dân là hoàn toàn tự nguyện; từ tình yêu quê hương mà lớn thành tình yêu đất nước; từ thái độ căm ghét kẻ thù, căm ghét kẻ phản bội mà bùng nổ khát vọng chiến đấu, một lòng trung thành với cách mạng, trung thành với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Để làm sáng bừng tư tưởng của truyện, Kim Lân đã khéo léo để cho ông Hai tự đấu tranh. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng Chợ Dầu tha thiết. Ban ngày, lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, buổi tối ông Hai thường sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái “sinh phần” của viên tổng đốc to lớn và oai nghiêm lắm.
Đặc biệt là ông Hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu cách mạng. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… Nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông.
Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.
Tưởng đâu, đó sẽ là niềm tự hào mãi mãi cho đến khi ông rời thế gian này. Đùng một cái, ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết, là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình và nỗi tủi nhục tột cùng trào lên trong ông.
Cuộc xung đột xảy ra dữ dội trong ông, đau đớn hơn bất cứ điều gì ông đã từng trải qua. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ làng ông lại theo Tây. Ông hoàn toàn sụp đổ.
Tình huống truyện đặt ra cho nhân vật những lựa chọn hết sức khó khăn. Liệu ông Hai có còn dám yêu cái làng của mình nữa không? Không yêu làng thì ông sẽ yêu cái gì? Con người luôn cần phải có một niềm tin yêu để sống, ông không thể bỏ rơi tinh thần của mình. Ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ kháng chiến.
Giữa sự giằng co trong tâm hồn, ông Hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy, nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát để gắn kết giữa tình quê hương và tình yêu tổ quốc.
Thế đấy, họ đã ngã về với kháng chiến khi đứng trong lựa chọn sống còn bằng tình cảm thiêng nhất, trong sáng nhất. Kim Lân đã miêu tả sự chuyển biến ấy rất chân thực và hết sức tự nhiên. Thủy chung với quê hương là tình cảm tốt đẹp nhưng tình yêu đất nước còn lớn hơn.
Có thể nói đó là một thử thách lớn đối với nhân vật ông Hai và cả nhà văn Kim Lân. Đoạn tuyệt với cái mình từng yêu thương nhất, quý trọng nhất, ngày đêm gìn giữ như một báu vật thật là khó khăn. Thế mới thấy, tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, yêu nước của người nông dân mới to lớn, mới mạnh mẽ trở thành tình cảm thiêng liêng và duy nhất ngay lúc này. Họ thức nhận được rằng, không có nỗi nhục nào lớn hơn nỗi nhục mất nước và khi đất nước còn bị xâm lăng thì cái làng của họ cũng đâu còn.
Từ đó, họ đứng hẳn về phía cách mạng, tin tưởng và ủng hộ cách mạng, góp sức chung cho sự nghiệp kháng chiến giải phóng đất nước. Kim Lân đã tỉ mỉ tạc khắc niềm tin ấy bằng sự trân trọng sâu sắc.
Và khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông Hai như vừa thoát khỏi một gánh nặng tinh thần ghê gớm. Tình yêu làng của ông lại trở về hòa quyện trong tình yêu nước thắm thiết, sâu nặng hơn trong lòng người nông dân chân chất này.
Phải chăng, Kim Lân đã quá hiểu cái tâm lí của người nhà quê, họ sẽ không chịu thay đổi, họ bảo thủ với lối sống cũ nếu không cho họ có dịp trải nghiệm nỗi đau thương, mất mát, sự ô nhục và tự hào. Ở ông Hai, đã có một sự thay đổi tích cực và được khẳng định mạnh mẽ. Dẫu nhà của ông bị cháy rụi mà ông vẫn vui cười và tự hào vì nhà mình bị giặc đốt. Nghĩa là ông đã đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến một phần tài sản và công sức trong sự hi sinh lớn của dân tộc. Ông Hai chỉ biết rằng lúc này ông làm kháng chiến và ông lão bây giờ có thể tự hào, hãnh diện ngồi kể về cái làng Chợ Dầu kháng chiến của mình.
Từ khi có cách mạng, cuộc đời người nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái tham gia kháng chiến, cầm súng bảo vệ quê hương.
Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng. Đó là lòng trung thành, là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.
Qua hình ảnh nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp tâm hồn của ông hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.
Không xung phong, không cầm súng, không ra trận, nhưng Kim Lân lại chiến đấu bằng ngòi bút hết sức âm thầm mà quyết liệt. Có thể nói, qua nhân vật ông Hai phảng phất hình bóng của Kim Lân trong đó. Cũng như ông Hai, Kim Lân yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng lắm. Từ nhận thức và tình cảm của bản thân, ông tìm cách chuyển tải nó vào văn học. Nhân vật ông Hai là kết tinh sâu sắc cái tài, cái tình của nhà văn Kim Lân đối với cuộc đời, đối với đất nước.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 7
Làng là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân được viết trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã khắc họa tình yêu làng, yêu nước một cách hồn nhiên, trong sáng và thánh thiện của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Tình cảm đó được khắc họa một cách đậm nét và sinh động qua hình tượng nhân vật ông Hai trong Làng.
Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là “tật” khoe làng của ông. Ngày nào cũng vậy, ông Hai thường sang nhà bác Thứ để nói chuyện về cái làng của mình. Đối với ông Hai, làng ông là nhất. Bất cứ thứ gì làng ông cũng đều nhất hết. Trong con mắt của ông Hai, không đâu bằng làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tuy nhiên, cái “tật” khoe làng của ông Hai cũng thay đổi cùng với sự thay đổi về nhận thức của người nông dân sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng, ông tự hào vì làng ông có cái sinh phần của cụ tổng đốc to nhất vùng. Cái chân của ông bị tật cũng vì tham gia xây dựng cái sinh phần đó. Ông tự hào vì mình đã góp phần để làm nên niềm tự hào của quê hương.
Ông Hai khoe làng ông toàn lát đá xanh: “trời mưa trời gió đi từ đầu làng đến cuối xóm, bùn không dính đến gót chân…”
Sau cách mạng, ông khoe làng ông có “phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, khang trang nhất vùng…”
Đặc biệt, ông Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không cần biết họ có nghe hay không; ông chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với cái làng đã gắn bó với ông gần trọn cuộc đời.
Kháng chiến chống Pháp nổ ra. Ông Hai hăng hái đào hào, đắp ụ với anh em dân quân du kích. Ông lại đem hết sức mình để bảo về quê hương. Nhưng rồi, đòi hỏi của kháng chiến, của bà con hàng xóm buộc ông phải đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ quê quay quắt. Từ một người hoạt bát, vui vẻ, ông trở nên hay cáu bẳn. Nỗi nhớ quê, nhớ anh em còn ở lại chiến đấu cứ dày vò ông. Nỗi nhớ ấy chính là biểu hiện sinh động của lòng yêu quê hương, yêu cái làng Chợ Dầu thân yêu của ông Hai.
Tình yêu ấy còn được thể hiện ở sự quan tâm đặc biệt của ông đối với kháng chiến. Dù ông chưa đọc được nhiều nhưng vẫn cố gắng ra phòng thông tin tuyên truyền để nghe đọc báo đã cho thấy điều đó. Ông “chúa ghét” những đứa cậy mình biết chữ mà không đọc to lên để ông có thể biết được tình hình. Cái sự “ghét” rất tự nhiên và đáng yêu của ông Hai cho thấy tình yêu nước, sự gắn bó thủy chung của người nông dân Việt Nam với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.
Nhưng có lẽ, tình yêu làng của ông Hai thể hiện rõ nhất khi ông nghe được tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Khi nghe được tin ấy, ông Hai như người mất hồn. Bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về quê hương bỗng chốc sụp đổ. Nếu việc khoe làng cho độc giả thấy được tình yêu làng tha thiết của ông thì nỗi đau khổ khi làng theo giặc lại thể hiện một cách sâu sắc tình yêu nước, gắn bó với kháng chiến của ông Hai.
Từ khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông chỉ dám quanh quẩn ở nhà và rất sợ ai đó nhắc đến cái làng của mình. Cuộc trò chuyện với đứa con út đã làm nổi bật tâm trạng của ông Hai. Ông trò chuyện với con, hỏi con về làng của mình, những lời đáp ngây thơ, hồn nhiên của con như cứa vào trái tim ông. Khó có thể nói hết được tâm trạng của người đã gắn bó gần trọn cuộc đời với cái làng của mình, luôn coi làng mình là một “thiên đường”, không đâu có thể sánh bằng phải đối diện với một sự thật khác: làng theo giặc.
Dù thất vọng, dù đau khổ đến cùng cực nhưng ông Hai vẫn kiên quyết đi theo kháng chiến, theo cụ Hồ Chí Minh: “Làng thì yêu thật nhưng làng mà theo tây rồi thì cũng phải thù”.
Phải có một tình yêu nước lớn lao như thế nào, người ta mới có thể “thù” cái làng của mình được. Chi tiết này đã cho người đọc thấy được tình yêu nước tha thiết của ông Hai nói riêng, của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp nói chung.
Đau khổ, thất vọng bao nhiêu, ông Hai càng vui sướng và hạnh phúc bấy nhiêu khi nghe được tin cải chính làng mình theo giặc. Sau khi đi nghe ông chủ tịch xã lên cải chính tin làng mình theo giặc, ông Hai như người chết sống lại. Ông lại tiếp tục đi “khoe” làng nhưng lần này, ông khoe chuyện cái nhà của mình bị giặc đốt: “Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác Thứ ạ! Đốt sạch! Ông chủ tịch xã tôi vừa lên cải tính. Cải chính cái tin làng Chợ Dầu theo giặc ấy mà! Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả!”
Đến đây, nhiều người sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi một người nông dân như ông Hai lại có được tâm trạng vui sướng và hạnh phúc khi nghe tin nhà mình bị đốt sạch, đốt hết! Cả cuộc đời của người nông dân may ra cũng chỉ làm được một căn nhà. Giờ giắc nó đốt mất rồi, gia đình, vợ con sẽ sống ở đâu? Nhưng với ông Hai, đó lại là một niềm vui vô bờ. Thậm chí, ông còn nhấn mạnh chuyện Tây nó “đốt sạch…”. Ông Hai vui không phải vì bị mất của, ông vui vì một nhẽ khác đáng trân trọng và tự hào hơn rất nhiều: làng ông không theo giặc. Cái tin Tây đốt phá làng và nhà ông đã thành tro bụi càng chứng tỏ làng ông không theo giặc. Niềm vui đó lớn lao hơn rất nhiều việc nhà ông bị cháy. Điều đó càng làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước chung thủy, thiết tha của ông Hai.
Nói tóm lại, truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa một cách sinh động tình yêu làng, yêu quê hương chân thành, đáng quý của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nó trả lời cho câu hỏi: Vì sao dân tộc Việt Nam có thể chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 8
I -E -ren -bua từng nói “Tình yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc”. Quả đúng như vậy. Tình yêu nước bắt nguồn từ những điều bình dị nhất. Chỉ một ngôi nhà, một xóm nhỏ, một miền quê mà sao tha thiết thế. Chúng gợi trong lòng ta biết bao cảm xúc thiêng liêng về sự gắn bó mật thiết với quê nhà. Ông Hai trong tác phẩm làng của Kim Lân là một người có tấm lòng yêu làng sâu đậm. Ông yêu quý ngôi làng của mình và coi đó như là máu xương, là da thịt của mình.
"Làng" là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, một cái tên không hề xa lạ trong làng văn học Việt Nam thời kỳ đầu. Trích đoạn nói riêng và tác phẩm nói chung được viết năm 1948 trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đoạn trích ca ngợi tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hai tình huống chính:khi ông hai nghe tin làng theo giặc và khi ông hai nghe tin cải chính. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm được thể hiện rõ ràng qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Qua đoạn trích, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được bộc lộ rõ ràng, gây âm vang trong lòng người đọc.
Trước hết, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được thể hiện trước khi ông nghe tin dữ. Ông Hai là người nông dân ở làng chợ dầu. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh nên phải tản cư đi nơi khác. Trong lòng ông rất muốn ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích nhưng vì hoàn cảnh neo người, lại được an ủi “ Tản cư cũng là kháng chiến nên ông đành lên vùng đất thắng để tản cư. Ở đó ông hai không lúc nào không nhớ về làng. Ông khoe về làng với bác thứ đến mức nhàn tai cốt chỉ để vơi đi nỗi nhớ làng. Ông khoe về kháng chiến của làng, buổi tập quân sự, sự sầm uất của làng… Trong lời kể hiện hữu tình yêu làng. Là nét tâm lý thường gặp ông hai không chỉ thế, ông còn hay ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức, đọc lỏm bao nhiêu tin thắng trận “Lòng ông lão cứ múa cả lên, Vui quá!” Đây chính là nét mới của người nông dân sau cách mạng được phản ánh trong văn học, bày tỏ tình yêu nước yêu làng của ông.
Không chỉ vậy, tình yêu làng, yêu nước của ông hai được bộc lộ rõ qua lúc khi nghe tin dữ. Đầu tiên, tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc khi mới nghe tin dữ. Đang trong đỉnh cao của niềm vui, ông hai rơi xuống vực thẳm của sự tuyệt vọng. Nghe người đàn bà tản cư lên nhắc đến tên làng, ông hai vội hỏi mong nghe được itn hay nào ngờ nhận được tin như sét đánh ngang tai “ Cả làng chúng nó việt gian theo tây chứ còn giết gì nữa” Tác giả tập trung miêu tả tâm trạng ông hai lúc đó “ Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân” “ Tưởng như không thở được” Tự trấn an mình. Ông Hai hỏi lại như như chưa tin hẳn” Những lời người ta rõ ràng quá lại có cả thằng chánh bệu khiến ông không thể không tin. Ông Hai rơi xuống đáy cùng của sự tuyệt vọng, vội đánh trống lảng, chạy trốn như sợ bị phát hiện. “ Hà nắng gớm về nào” Yêu là yêu hết mình, tin là tin sâu sắc. Đau là đau tận cùng. Đó chính là tình cảm của ông dành cho làng bấy lâu nay bị sụp đổ vì tin làng theo giặc.
Khi về đến nhà, tình cảm ấy được nổi bật. Ông khóc thương lũ con là người làng Việt gian. Những câu nói của mấy người tản cư vẫn văng vẳng trọng ông “ Cái giống việt gian bán nước phải cho mỗi đứa một nhất, ông chửi rủa:” Chúng mày ăn miếng cơm, miếng cháo gì vào mồm mà để làm giống việt gian bán nước đã nhục nhã thế này. Ngơ ngơ, ông liền điểm từng người những vẫn kiên quyết. Không có lửa làm sao có khói “ Câu hỏi tu từ, độc thoại nội tâm nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, tủi khổ của ông Hai.
Khi nói chuyện với vợ tình cảm ấy tiếp tục hòa quyện, đấu tranh. Cuộc hội thoại đặc biệt chỉ có ba lượt trao và hai lượt trả. Ông hai trả lời gì, gắt lên, biết rồi. nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, không muốn nói chuyện của ông. Ông Hai sợ mụ chủ nhà nghe thấy. Tiếng gì thế? “ Tiếng mụ chủ” “ Mụ làm cái gì mà ồn ào thế? “ Bao câu hỏi tu từ nhấn mạnh tâm lý hỗn loạn của ông Hai nghệ thuật độc thoại nội tâm được vận dụng triệt để.
Mấy ngày sau,ở ông hai người ta vẫn nhìn thấy tình yêu làng, yêu nước cháy bỏng trong ông. Suốt mấy ngày ông chẳng dám đi đâu, quanh quẩn ở nhà. Khi người ta túm năm tụm ba, nhắc đến “ Tây, việt gian, cam nhông…” là ông lại lủi vào góc nhà, nín thít” Chắc lại chuyện ấy rồi” Bao nhiêu nỗi dằn vặt dồn hết trong ông. Tâm lý ông hai giờ đây bị giam vào vòng sợ hãi. Tận cùng của sự tuyệt vọng, tủi hổ. Chính nỗi sợ hãi đã toát lên tình yêu nước trong ông. Bởi vậy không hề là việt gian và chính ông sợ bản thân mang tiếng việt gian. Thật đáng thương, đáng trân trọng!
Chính tình yêu nước chiến thắng và hòa quyện cùng tình yêu làng được thăng hoa, nở hoa nơi trang giấy khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi. Khi bà hai ra chợ gặp mụ chủ. Mụ có ý đuổi khéo gia đình ông đi vì người làng không chứa việt gian. Ông Hai từ lo lắng, tủi hổ chuyển sang sợ hãi, hoảng hốt. Ông lo cho gia đình mình rồi sẽ ở đâu, lấy gì làm kế sinh nhai, còn bao nhiêu người làng nữa.Câu hỏi tu từ như những cơn sóng lòng dồn tới tấp kết ngữ độc thoại nổi bật cuộc đời đấu tranh nội tâm. Rồi ông chợt nghĩ “ Hay là quay về làng” Bảo ý nghĩ đen tối chợt hiện ra. Ông gạt phắt đi” Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” Đây chính là câu nói bày tỏ rõ quan điểm của ông hai” Tình yêu nước chiến thắng, thiêng liêng bao trùm bao tình cảm khác. .
Hơn nữa, tình yêu làng, đất nước trong lúc trò chuyện với cụ Húc cũng thể hiện phần nào. Lời đối thoại như độc thoại, ông nói với ông như tự giãi bày lòng mình vì cụ húc ngây thơ giãi bày làng con ở đâu, nhà con ở làng chợ dầu”… Chính những câu nói ngây thơ của cu út đã nắm chặt lấy trái tim của ông Hai. Ông muốn con ghi nhớ rõ nguồn gốc của mình: Làng chợ dầu nhưng hiện tại nó không xứng đáng với tình cảm của ông Hai.Khiến tim người đọc đau nhói. Những câu đối thoại, của nhân vật. Qua tình huống đó đã bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Cuối cùng, tình yêu làng, yêu nước hòa làm một khi ông hai nghe tin cải chính. Ông Hai theo một người đàn ông nào đó đi rất vội, chiều tối mới về. Lạ thay, gương mặt buồn thiu rạng rỡ hẳn lên, ông lại còn khao con bánh rán, đôi mắt hấp háy. Vừa về đến nhà, ông đã khoe với mọi người đầu tiên là bác thứ ;” Bác thứ đâu rồi” “ Nhà tôi bị tây đốt” Đốt nhẫn” ông luôn chân luôn tay như muốn nói với tất cả mọi người rằng Làng chợ dầu không theo giặc. tin được cải chính, ông khoe cả nhà ông bị tây đốt. Ông hai coi trọng trọng danh dự hơn vật chất. Đây chính là lòng tự trọng của ông Hai. Trong cái cháy tàn, cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng chợ dầu. Ông mừng vui đến mức xưng là em tính cách ông trở nên ngộ nghĩnh khi dùng từ sai sự mục đích. Tác giả miêu tả tâm lý nhân vật vô cùng khéo léo qua ngôn ngữ đối thoại, miêu tả hành động cử chỉ để làm nổi bật tình yêu quê hương, đất nước và nhân vật ông hai.
Có thể nói, để làm nổi bật tình yêu quê hương đất nước của nhân vật ông hai. Kim Lâm đã đạt thành công trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Về nghệ thuật, đoạn trích kết hợp nhiều nhiều phương thức biểu đạt, tự sự, miêu tả…. Và tình huống truyện bất ngờ, gay cấn thử thách nhân vật. Ngoài ra, ngôi kể thứ ba giúp cho mạnh văn linh hoạt, bao quát nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ đối thoại. Gấp lại trang truyện Làng tác phẩm neo đậu trong lòng ta những vang âm về tình yêu quê hương đất nước. ta thây được ngòi bút tiến bộ của nhà văn kim liên phát hiện ra những nét mới của người nông dân lấy cảm hứng đó mà từ ngữ nở hoa nơi trang giấy.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 9
Ông Hai cũng giống như bao nhiêu người nông dân quê khác luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông luôn yêu quý và tự hào về làng Chợ Dầu, hay khoe về làng một cách nhiệt tình, hào hứng mặc dù không biết có đang có ai lắng nghe hay không. Ở nơi tản cư ông lòng ông luôn hướng về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về làng Chợ Dầu.
Trong hoàn cảnh thử thách, tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động. Nhà văn Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tình huống để ông Hai biết được tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang náo nức, phấn chấn vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nhưng sau đó hụt hẫng, thất vọng khi biết tin dữ "Cả làng Việt gian theo Tây". Tin bất ngờ đó vừa lọt vào tai đã khiến ông Hai bàng hoàng, đau đớn: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi lại, giọng lạc hẳn đi nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: "Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".
Khi về đến nhà, ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ dàn ra "chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông Hai rất căm thù, phẫn uất những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Niềm tin cộng với nỗi đau bất ngờ giằng xé trong lòng ông. Ông đã kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy". Ông đau đớn, chua xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước". Suốt mấy ngày liền sau đó, ông chẳng dám đi đâu, "chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng trong trạng thái nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, nặng nề, day dứt biến thành nỗi sợ hãi thường trực trong lòng ông. Ông tủi hổ, đau đớn như chính ông là người có lỗi ....
Ông bị rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong khi tưởng chừng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay vì "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".
Lúc này tình yêu lành đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin vào Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã đau đớn và dứt khoát để lựa chọn "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dẫu đã xác định là thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Do vậy mà ông càng xót xa, đau đớn ....
Khi tâm trạng đang bị dồn nén và bế tắc này, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Ông nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng của mình. Ông Hai đã hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: "Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai?". Lời của đứa con vang lên trong ông giản dị mà thiêng liêng "Nhà ta ở làng Chợ Dầu", "ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!". Những điều đó ông đã biết nhưng vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm điều đó. Ông Hai mong rằng "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai". Có thể nói, những suy nghĩ trong lòng ông như những lời nguyện thề son sắt. Từ đó cho ta thấy tấm lòng của ông Hai với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ.
Thật may mắn, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai vui mừng, sung sướng như được sống lại. Ông đã đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên". Ông đã mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật mật đi khoe với mọi người. Đi đến đâu cũng chỉ mấy câu "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt sạch! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả". "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe với mọi người là nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn nhưng khẳng định rằng làng ông không theo giặc. Tuy là mất hết cả cơ nghiệp nhưng mà ông lại không hề tiếc nuối, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Vì trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đây như là một niềm vui kỳ lạ, cho thấy một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Qua việc cảm nhận tình yêu làng của ông Hai giúp ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Chính vì vậy mà tác phẩm "Làng" của nhà văn Kim Lân xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Cảm nhận tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng - mẫu 10
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 mất năm 2007, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, hầu hết các sáng tác của ông đều viết về sinh hoạt ở nông thôn và cảnh ngộ của những người dân. Trong đó tiêu biểu là truyện ngắn “Làng” được viết thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Truyện ngắn đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng yêu nước sâu sắc và một tinh thần kháng chiến.
Ông Hai - nhân vật chính trong truyện ngắn “Làng”, người làng Chợ Dầu. Ông rất yêu làng, không muốn xa làng nhưng vì hoàn cảnh gia đình và theo chính sách của cụ Hồ buộc lòng gia đình ông Hai phải rời làng đi tản cư. Nhưng không phải rời làng là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà lúc nào ông cũng trông ngóng dõi theo những biến chuyển của làng quê.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện rất đặc biệt ở cái tính hay khoe về làng của ông. Trước cách mạng ông khoe làng ông giàu đẹp: “nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, đường lát toàn đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm bùn không dính gót chân”, ông khoe về làng với một tình cảm hồn nhiên ngây thơ. Với ông, cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào, cũng ăn đứt thiên hạ. Ông luôn tự hào về cái sinh phần của quan tổng đốc làng ông, đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe: “Chết chết tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được cái định cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như là động ấy.” Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên hả hê, cả làng ông vì để xây cái lăng đó rất khổ sở và bản thân ông bị tàn tật như bây giờ cũng là do bị một chồng gạch đổ vào. Vậy mà ông Hai vẫn tự hào về nó, điều này nó lên sự hạn chế trong nhận thức của ông, cũng là của người dân Việt Nam trước cách mạng.
Sau cách mạng, nhận thức của ông Hai đã thay đổi, ông không bao giờ còn đả động đến cái sinh phần đấy nữa, ông biết thù nó đến tận tim gan. Bây giờ khoe về làng ông khoe về phong trào kháng chiến với những buổi tập quân sự, những buổi cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.
Yêu làng ông Hai luôn nhớ về làng. Thực lòng mà nói ông Hai rất muốn ở lại làng cùng anh em chiến đấu, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình và theo chính sách của cụ Hồ buộc lòng ông ai phải đi tản cư. Xa làng ông Hai luôn trông ngóng dõi theo tin tức và những biến chuyển ở làng quê. Ngày nào cũng vậy dù bận công bận việc, dù lao động mệt nhọc thì ông Hai vẫn dành thời gian lên phòng thông tin huyện để nghe tin tức về làng, về cuộc kháng chiến. Yêu làng, gắn bó với làng quê nên từ lúc dời làng ông khổ tâm, day dứt khôn nguôi biết bao nỗi buồn vui của quá khứ chất chứa trong lòng. Tình yêu nỗi nhớ thương làng của ông Hai được thể hiện thật xúc động: “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá."
Tình yêu làng của ông Hai, của người dân gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Đến đây nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai vào một tình huống gay cấn éo le để thử thách và khẳng định tình cảm đó: tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc.
Buổi sáng hôm đó đang trong tâm trạng vui sướng “ruột gan ông lão cứ múa cả lên”, vì nghe tin quân ta thắng lợi ở nhiều nơi thì ông Hai bất ngờ nhận được tin làng mình theo giặc từ những người tản cư lên. Nghe tin dữ đó, ông vô cùng choáng váng, sững sờ như chết điếng người đi: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được. Một lúc lâu mới dặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: ”Ông Hai không thể tin được nhưng khi người đàn bà tản cư ấy kể quá rành rọt, buộc lòng ông phải tin. Ông cảm thấy đau đớn, xấu hổ, nhục nhã vô cùng: “Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, cúi gằm mặt xuống mà đi”. Thật khổ tâm cho ông Hai, một người nông dân hiền lành hay làm, tự hào hãnh diện về làng là thế giờ lại lủi thủi như chính mình là kẻ có tội, làm điều xấu bị mọi người xa lánh.
Về đến nhà, nhìn lũ con tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra, càng nghĩ ông càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúm, hắt hủi”, cũng là trẻ con làng Việt gian. Ông căm thù kẻ phản bội ở làng, ông nắm chặt hai tay mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này?”. Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận cao độ, oán trách thù hận, khinh bỉ ghê tởm bọn bán nước hại dân. Buổi chiều và tối hôm đó không khí gia đình ông Hai im lặng đến phát sợ, ông tỏ ra cáu gắt với vợ con. Suốt đêm hôm đó ông Hai trằn trọc không ngủ, vắt óc suy nghĩ trong lòng thì lại không tin họ cam tâm làm điều nhục nhã ấy. Có lẽ trong nỗi đau khổ tuyệt vọng ông Hai vẫn còn hi vọng bởi tình yêu làng, niềm tin tưởng vào làng Chợ Dầu của ông quá lớn. Nhưng hi vọng rồi lại thất vọng bởi cái tâm lý “Không có lửa làm sao có khói”.
Ba bốn ngày sau, ông Hai không dám bước chân ra đến ngoài. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc biến thành nỗi ám ảnh nặng nề, sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai. Vì vậy, “Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại "lủi ra một góc nhà nín thít". Thật đáng thương cho ông Hai, một người nông dân hiền lành chất phác đâu có tội tình gì?
Tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai còn được thể hiện sâu sắc hơn trong cuộc xung đột nội tâm. Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở nơi tản cư tủi nhục quá, vì bị đẩy vào tình thế bế tắc với tin đồn. Không đâu người ta chứa chất người làng Chợ Dầu. Nhưng ý nghĩ đó bị xua đuổi ngay bởi về làng là trở thành Việt gian phản động, là chấp nhận cuộc đời lầm than nô lệ. Đây là điều ông không bao giờ muốn. Sau đó ông đã dứt khoát lựa chọn: “Không thể được. Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là một quyết định vô cùng khó khăn với ông Hai bởi ông rất yêu làng, gắn bó máu thịt với làng quê. Lời nói tỏ vẻ cứng rắn vậy thôi nhưng thật ra trong lòng ông lại đau như cắt. Lúc này tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai tạm thời bị chia cắt đối lập nhau và ông Hai đã hi sinh tình cảm riêng tư của mình cho một tình cảm lớn lao cao cả hơn: lòng yêu nước. Đây là nét đẹp của ông Hai, của người nhân dân thể hiện rõ nhất những biến chuyển mới trong tình cảm và nhận thức của họ, bởi lẽ nước đã mất thì làng đâu còn.
Mặc dù đã xác định dứt khoát làng theo Tây mất rồi thì phải thù nhưng ông Hai không khỏi day dứt, dễ dàng dứt bỏ tình cảm đối với làng quê mà ngược lại ông càng đau xót tủi khổ hơn. Để ông Hai vơi đi phần nào nỗi đau đớn dằn vặt đó và yên tâm hơn với quyết định của mình, tác giả đã để ông trò chuyện với đứa con nhỏ ngây thơ: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ cụ Hồ con nhỉ”. Những lời tâm sự ấy thực chất là những lời tự nhủ tự giãi bày nỗi lòng mình để khẳng định tình yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu, sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến, với Cụ Hồ. Tình cảm đó sâu nặng bền vững và vô cùng thiêng liêng, không bao giờ đơn sai: “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Nếu tin làng Chợ Dầu theo giặc đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm thì tin làng theo giặc được cải chính lại cởi nút cho câu chuyện. Đến đây tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai hòa quyện thống nhất là một, gánh nặng tâm lý tủi nhục được trút bỏ: “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông Hai vô cùng sung sướng và tự hào về làng, ông lại bắt đầu đi khoe về làng mình, ông lão cứ múa tay lên mà khoe, ông khoe cả cái tin làng mình nhà mình bị Tây đốt nhẵn cháy rụi. Với nhân dân thì ngôi nhà là tài sản lớn nhất giờ đây bị cháy rụi, vậy mà ông Hai vẫn hả hê sung sướng cả lòng. Bởi lẽ đây là một bằng chứng cụ thể chân thực, thuyết phục nhất chứng minh cho làng ông không phải là Việt gian phản động. Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông được hưởng. Bởi lẽ trong sự cháy tàn cháy rụi của làng ông, của nhà ông là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu khác: làng Chợ Dầu kháng chiến. Như vậy vượt qua bao thử thách, đau đớn dằn vặt, ông Hai trở lại sống vui hạnh phúc như ngày nào. Tình yêu làng, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông đã được thể hiện thật chân thực sâu sắc và cảm động. Qua đây ta thấy được những biến chuyển rõ rệt trong đời sống tình cảm của ông, của người nhân dân.
Nhân vật ông Hai để lại dấu ấn khó quên trong lòng bạn đọc còn nhờ vào nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Trước hết là cách tạo dựng tình huống truyện căng thẳng éo le để bộc lộ đời sống nội tâm của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật cũng khá xuất sắc, diễn biến tâm trạng của ông Hai được thể hiện chân thực sinh động qua suy nghĩ hành động, bằng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. Cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ nhân vật đậm chất khẩu ngữ thể hiện tính cách của từng nhân vật. Phải là người gần gũi, am hiểu về nông thôn, về cuộc sống của những người nhân dân và có thái độ yêu mến trân trọng họ thì Kim Lân mới viết lên được câu chuyện độc đáo, sâu sắc như thế. Nhân vật ông Hai tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nhân dân Việt Nam thời kỳ chống Pháp với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc lớn lao.
Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” đã để lại tình cảm sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi tình yêu làng, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông. Tình cảm đó vừa sâu sắc bền chặt, vừa góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Với cách kể chuyện tự nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tạo dựng tình huống độc đáo đã làm nên thành công trong truyện ngắn “Làng”, giúp tác phẩm của Kim Lân luôn sánh bước cùng thời gian, để lại cho chúng ta bài học sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước.