TOP 10 bài Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên 2024 SIÊU HAY

753

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên

Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên

Dàn ý viết bài Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát đôi nét về tác giả, tác phẩm.

Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, thơ của ông luôn nồng nàn, đắm say và ẩn chứa một tình yêu mãnh liệt đến khao khát cháy bỏng. Tuy nhiên bên cạnh những bài thơ sôi nổi như vậy, ta lại có thể bắt gặp một Xuân Diệu khác, dịu dàng, nhẹ nhàng, say đắm trong bài “Thơ duyên” – một tác phẩm ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến trong một buổi chiều thu. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua khổ thơ đầu tiên.

 

II. Thân bài

1. Khái quát

- Tác giả Xuân Diệu (quê quán, tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp văn học, phong cách nghệ thuật,..)

- Tác phẩm Thơ Duyên ( hoàn cảnh sáng tác, thể loại,…)

2. Phân tích

- Nội dung tác phẩm: Tác giả muốn thể hiện tình yêu của mình, không chỉ là tình yêu đôi lứa, ở đây tình yêu trong tác phẩm còn mang nghĩa rộng lớn hơn. Chính là tình yêu dành cho cuộc sống, cho vạn vật, cho đất trời, đồng thời nhà thơ cũng phát hiện ra mối nhân duyên, sự gắn bó, liên kết kì diệu, hài hòa tuyệt vời giữa con người với cỏ cây hoa lá, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa thời gian với không gian bao la

- Phân tích bốn câu thơ đầu:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền"

+ Nhà thơ đã rất khéo léo và tinh tế trong việc họa nên bức tranh thu đầy nhạc tính, đó là một khúc nhạc khai mạc mang các nốt trầm du dương, êm dịu giúp cho khung cảnh trở nên dịu dàng.

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”

+ Động từ “Đổ” qua đó cảnh làm cho cảnh vừa chân thật lại rất thơ mộng; Màu xanh ngọc của sắc thu cùng hồn thu hòa lẫn thêm sắc xanh của “muôn lá” => Khiến người thi sĩ cũng phải thẫn thờ, choáng ngợp trước sắc thu đẹp mộng mơ.

"Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.”

 

+ Thiên nhiên dường như cũng đang cất lên một bản giao hưởng đến từ tiếng chim, từ tiếng đàn ở xa kia vọng lại.

=> Chỉ với bốn câu thơ, tác giả Xuân Diệu đã thành công phác họa nên một bức tranh chiều thu thật thơ mộng, sinh động, huyền ảo nhưng vẫn mang vẻ đẹp chân thực của một chiều thu nơi thôn dã, giản dị, yên bình

3. Tổng kết lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm

III. Kết bài

Nêu suy nghĩ và tình cảm của em dành cho tác phẩm.

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên - mẫu 1

Như ai đã từng si trước bức tranh thu vàng của họa sĩ Levitan, từng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu của Lưu Trọng Lư thì không thể ko xao xuyến trước cảnh chiều thu thơ mộng của Xuân Diệu trong Thơ duyên:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.”

Thơ duyên với thể hiểu là nhân duyên của con người, cũng mang thể là sự gắn bó giữa đất trời vạn vật, cỏ cây tạo cần mối liên kết huyền diệu. Mùa thu hiện ra thơ mộng trong sự hài hòa, hữu tình ấy:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”

Qua đây chúng ta nhận thấy trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, chiều mùa thu biến thành “chiều mộng”. Vẻ đẹp gợi cảm giác êm đềm, buộc phải thơ tới những cành cây tưởng như vô tri cũng vươn lên là “nhánh duyên”. Vạn vật hòa quyện vào nhau tạo thành sự “hòa thơ”. Cách sử dụng từ mới lạ, câu thơ tả cảnh mà còn đậm tình, đem lại cảm giác ảo mộng. Đi giữa chiều mộng trong không gian êm đềm nghe tiếng chim ríu rít đùa vui. Cảnh tượng hiện ra thật thanh bình, cần thơ, tạo thành 1 niềm vui dịu dàng, ấm áp. Trong hai câu thơ đầu, nhà thơ siêu tài giỏi và khéo léo trong việc họa phải bức tranh thu đầy nhạc tính: khúc nhạc khai mạc là các nốt trầm du dương, êm nhẹ làm cho cho khung cảnh thêm dịu dàng. Nhà thơ ghi lại những hình ảnh thắm màu: từ nhánh cây xanh đến sắc trời “xanh ngọc” trẻ trung. Dưới mặt đất, vạn vật đang hòa khúc hoan ca:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.”

“Đổ” là động từ làm cho cảnh như thật mà như mộng. Màu xanh ngọc của sắc thu và hồn thu. Trên vòm me là bầu trời, hòa lẫn cộng màu xanh của lá non, quanh quéo vòm me là mùa thu. Tất cả nhường nhịn như cùng sóng đôi, cộng bước đi, cộng hòa mình trong cảnh sắc đẹp thu thơ mộng. Và thi sĩ cũng thẫn thờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, bỗng chứa lên 1 tiếng ngợi ca:

“Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền”

Trong giây phút ban đầu của mùa thu, cả ko gian dịu vợi ánh nắng tinh khôi, màu xanh tươi mới, trinh nguyên chan hòa mang khúc nhạc du dương. Thiên nhiên cất lên bản giao hưởng của tiếng chim, tiếng đàn từ xa vọng lại. Xuân Diệu muốn khẳng định 1 lần nữa: mùa thu đã tới rồi và hưởng thụ mùa thu là lắng nghe sự đi lại của đất trời. Sự đi lại tương giao đó diễn ra cực kỳ khẽ khàng, 1 sự “hòa thơ”, cảnh vật như cùng nhau dạo cần khúc ca duyên, sóng đôi mang nhau, hòa quyện cùng nhau. Đất trời giao hòa gắn bó: “chiều mộng” đi có “nhánh duyên”, “cây me” hòa duyên cộng “chim”, ánh sáng đan vào muôn sắc lá… Cảnh thu hài hòa đường nét, màu sắc đẹp tươi sáng, dịu dàng, tạo bắt buộc bức tranh thu thơ mộng, tuyệt mỹ. Nhân vật trữ tình là người nhà thơ cảm nhận tự nhiên bằng toàn bộ giác quan: chiều mộng êm dịu tác động tới xúc giác, thị giác, thính giác.

Chỉ với bốn câu thơ, Xuân Diệu đã phác họa nên bức tranh thu thơ mộng, huyền ảo, vẻ đẹp chân thật, phúc hậu như được chụp lại từ một chiều thu nơi thôn dã. Mọi vật chuyển động nhịp nhàng, sóng đôi có nhau, hòa vào khiến một. Cùng là đề tài mùa thu, nhưng trong thơ Xuân Diệu ko với áo mơ phai, không với rặng liễu lả lướt mà chỉ sở hữu nhánh duyên, cánh chim, bầu trời xanh ngọc, cảnh vật giản đơn như soạn ra bản nhạc dạo đầu khởi xướng bài ca thu. Tự nhiên như có mối lương duyên giao hòa thầm kín, mời gọi con người khám phá, trải lòng.

Qua đây chúng ta nhận thấy bốn câu thơ đầu trong bài Thơ duyên mang cấu trúc hoàn chỉnh, gợi tả cảnh vật mùa thu thơ mộng, độc đáo, không trùng lặp có bất cứ bài thơ chủ đề mùa thu nào khác trong văn chương Việt Nam. Qua bức tranh thu ấy, người đọc cảm nhận một hồn thơ Xuân Diệu tinh tế, hòa quyện sở hữu thiên nhiên để say đắm trong sự giao hòa. Đó là khát khao giao cảm của nhà thơ, sự kết duyên của cảnh vật là chất xúc tác cho sự gắn kết của con người.

TOP 10 bài Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên - mẫu 2

Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. "Thơ duyên" là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua khổ thơ đầu bài thơ.

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cành me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.

Cả đoạn thơ là một bức tranh toàn cảnh về buổi chiều mùa thu với đủ hình ảnh (chiều mộng, nhánh duyên), âm thanh (tiếng chim ríu rít), màu sắc (xanh ngọc) và sự chuyển động của vạn vật (nơi nơi động tiếng huyền). Dưới thấp trên cao, ở gần ở xa, tất cả đều xôn xao, ríu rít, nên thơ nên mộng, hòa quyện vào nhau, tạo nên âm hưởng sống động của chiều thu.

Chỉ bốn dòng thơ mà xuất hiện rất nhiều từ ngữ chưa từng có trong văn chương trước đó: chiều mộng, nhánh duyên và đặc biệt câu thơ:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.

Biết bao thi nhân đã viết về bầu trời xanh nhưng mấy ai đã cảm nhận được sắc xanh ngọc của bầu trời đang đổ xuống, tuôn chảy như Xuân Diệu.

 

Xuân Diệu không những nhìn cảnh vật bằng mắt mà còn nhìn bằng tâm hồn, cả nỗi lòng dào dạt cảm xúc của mình. Ông không những lắng nghe bằng tai mà còn đón nhận tất cả những âm vang của đất trời bằng toàn bộ "tâm cảm" của mình. Vì thế ông mới thấy chiều mộng, nhánh duyên, đổ trời xanh ngọc và những âm thanh huyền diệu của cuộc sống mà không phải ai cũng nhận ra.

Bằng tài năng và sự mẫn cảm của mình, Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc bức tranh thu đẹp, trong sáng, tươi tắn. Đó là tất cả sự náo nức, dào dạt của trời thu và của lòng người. Thiên nhiên và sự sống có sự tương giao hòa hợp, có duyên với nhau, thơ mộng và trữ tình.

Buổi chiều là đề tài quen thuộc của thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng. Buổi chiều thường đi vào văn chương với nỗi buồn quạnh quẽ, thê lương. Thơ Xuân Diệu cũng vậy. Duy chỉ có Thơ duyên nằm trong số ít ỏi những bài viết về buổi chiều mà không chứa đựng nỗi buồn hiu hắt. Cảnh thu ở đây tươi vui, náo nức, hồn nhiên, ấm áp. Thơ duyên, với khổ thơ đầu, đã đem đến cho buổi chiều, trong văn học nói chung và trong thơ Xuân Diệu một gương mặt mới.

Đoạn thơ đầu bài Thơ duyên đã bộc lộ một cách chân tình lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm vui khát khao giao cảm với cuộc đời của một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm Xuân Diệu.

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên - mẫu 3

Mùa thu trong thơ Xuân Diệu luôn mang một phong vị độc đáo và lãng mạn, với những tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế và nhẹ nhàng về hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. Bài thơ "Thơ duyên" là một ví dụ điển hình, nơi cảnh thu và tình thu được thể hiện qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn. Điều này được thể hiện rõ nét ngay từ khổ thơ đầu tiên:

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cành me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.

Khổ thơ mở ra một bức tranh toàn cảnh về buổi chiều mùa thu, với đầy đủ hình ảnh (chiều mộng, nhánh duyên), âm thanh (tiếng chim ríu rít), màu sắc (xanh ngọc), và sự chuyển động của vạn vật (nơi nơi động tiếng huyền). Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, tất cả đều xôn xao, ríu rít, hòa quyện vào nhau, tạo nên một âm hưởng sống động của chiều thu.

Chỉ với bốn dòng thơ, Xuân Diệu đã mang đến nhiều từ ngữ mới lạ trong văn chương thời bấy giờ: chiều mộng, nhánh duyên, và đặc biệt là câu thơ:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.

Đã có biết bao thi nhân viết về bầu trời xanh, nhưng hiếm ai cảm nhận được sắc xanh ngọc của bầu trời đang đổ xuống, tuôn chảy như Xuân Diệu.

Xuân Diệu không chỉ nhìn cảnh vật bằng mắt mà còn cảm nhận bằng cả tâm hồn, với nỗi lòng dào dạt cảm xúc. Ông không chỉ lắng nghe bằng tai mà còn đón nhận tất cả âm vang của đất trời bằng toàn bộ "tâm cảm" của mình. Chính vì thế, ông mới thấy được chiều mộng, nhánh duyên, trời xanh ngọc và những âm thanh huyền diệu của cuộc sống mà không phải ai cũng nhận ra.

Với tài năng và sự mẫn cảm của mình, Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một bức tranh thu đẹp, trong sáng và tươi tắn. Đó là sự náo nức, dạt dào của trời thu và lòng người. Thiên nhiên và sự sống có sự tương giao, hòa hợp với nhau, thơ mộng và trữ tình.

Buổi chiều là đề tài quen thuộc trong thơ ca, và trong thơ Xuân Diệu cũng vậy. Buổi chiều thường đi vào văn chương với nỗi buồn quạnh quẽ, thê lương. Thơ Xuân Diệu cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, "Thơ duyên" là một trong những bài thơ hiếm hoi viết về buổi chiều mà không chứa đựng nỗi buồn hiu hắt. Cảnh thu ở đây tươi vui, náo nức, hồn nhiên và ấm áp. Khổ thơ đầu của "Thơ duyên" đã mang đến cho buổi chiều một gương mặt mới trong văn học nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng.

Khổ thơ đầu tiên của bài "Thơ duyên" đã bộc lộ một cách chân tình lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm vui khát khao giao cảm với cuộc đời của một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm như Xuân Diệu.

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên - mẫu 4

Như ai đã từng say mê trước bức tranh thu vàng rực rỡ của Levitan, từng bâng khuâng trước cảnh con nai vàng ngơ ngác giữa rừng thu của Lưu Trọng Lư, thì không thể không rung động trước cảnh chiều thu thơ mộng trong bài "Thơ duyên" của Xuân Diệu:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.”

"Thơ duyên" không chỉ đơn thuần là duyên phận con người, mà còn là sự gắn bó kỳ diệu giữa đất trời và vạn vật, giữa cỏ cây và thiên nhiên. Mùa thu hiện ra thơ mộng trong sự hòa quyện đầy hữu tình ấy:

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”

Qua đây, ta thấy trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, chiều mùa thu trở thành "chiều mộng". Vẻ đẹp ấy gợi cảm giác êm đềm, nên thơ, đến nỗi những cành cây tưởng như vô tri cũng trở nên "nhánh duyên". Vạn vật hòa quyện vào nhau tạo nên sự "hòa thơ". Cách sử dụng từ ngữ mới lạ, câu thơ vừa tả cảnh vừa đậm tình, mang lại cảm giác ảo mộng. Đi giữa chiều mộng trong không gian êm đềm, nghe tiếng chim ríu rít đùa vui. Cảnh tượng hiện ra thật thanh bình, nên thơ, tạo nên một niềm vui dịu dàng, ấm áp. Trong hai câu thơ đầu, nhà thơ tài tình và khéo léo họa lên bức tranh thu đầy nhạc tính: khúc nhạc khai mạc là những nốt trầm du dương, êm nhẹ làm khung cảnh thêm dịu dàng. Nhà thơ ghi lại những hình ảnh tươi thắm: từ nhánh cây xanh đến sắc trời "xanh ngọc" trẻ trung. Dưới mặt đất, vạn vật đang hòa cùng khúc hoan ca:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.”

Từ "đổ" khiến cho cảnh như thật mà như mộng. Màu xanh ngọc của sắc thu và hồn thu. Trên vòm me là bầu trời, hòa lẫn cùng màu xanh của lá non, quanh vòm me là mùa thu. Tất cả như cùng sóng đôi, cùng bước đi, cùng hòa mình trong cảnh sắc thu thơ mộng. Thi sĩ cũng thẫn thờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, bỗng cất lên một tiếng ngợi ca:

“Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền”

Trong giây phút ban đầu của mùa thu, cả không gian dịu vợi ánh nắng tinh khôi, màu xanh tươi mới, trinh nguyên chan hòa với khúc nhạc du dương. Thiên nhiên cất lên bản giao hưởng của tiếng chim, tiếng đàn từ xa vọng lại. Xuân Diệu muốn khẳng định một lần nữa: mùa thu đã tới rồi và hưởng thụ mùa thu là lắng nghe sự chuyển động của đất trời. Sự chuyển động ấy diễn ra cực kỳ khẽ khàng, một sự "hòa thơ", cảnh vật như cùng nhau dạo nên khúc ca duyên, sóng đôi, hòa quyện cùng nhau. Đất trời giao hòa gắn bó: "chiều mộng" đi với "nhánh duyên", "cây me" hòa duyên cùng "chim", ánh sáng đan vào muôn sắc lá… Cảnh thu hài hòa đường nét, màu sắc tươi sáng, dịu dàng, tạo nên bức tranh thu thơ mộng, tuyệt mỹ. Nhân vật trữ tình là người nhà thơ cảm nhận tự nhiên bằng tất cả giác quan: chiều mộng êm dịu tác động đến xúc giác, thị giác, thính giác.

Chỉ với bốn câu thơ, Xuân Diệu đã phác họa nên bức tranh thu thơ mộng, huyền ảo, vẻ đẹp chân thật, hiền hòa như được chụp lại từ một chiều thu nơi thôn dã. Mọi vật chuyển động nhịp nhàng, sóng đôi cùng nhau, hòa vào làm một. Cùng là đề tài mùa thu, nhưng trong thơ Xuân Diệu không có áo mơ phai, không có rặng liễu lả lướt mà chỉ có nhánh duyên, cánh chim, bầu trời xanh ngọc, cảnh vật giản đơn như soạn ra bản nhạc dạo đầu khởi xướng bài ca thu. Tự nhiên như có mối lương duyên giao hòa thầm kín, mời gọi con người khám phá, trải lòng.

Bốn câu thơ đầu trong bài "Thơ duyên" mang cấu trúc hoàn chỉnh, gợi tả cảnh vật mùa thu thơ mộng, độc đáo, không trùng lặp với bất kỳ bài thơ chủ đề mùa thu nào khác trong văn chương Việt Nam. Qua bức tranh thu ấy, người đọc cảm nhận được một hồn thơ Xuân Diệu tinh tế, hòa quyện với thiên nhiên để say đắm trong sự giao hòa. Đó là khát khao giao cảm của nhà thơ, sự kết duyên của cảnh vật là chất xúc tác cho sự gắn kết của con người.

Phân tích khổ 1 bài thơ Thơ duyên - mẫu 5

Nếu ai đã từng mê đắm trước bức tranh thu vàng của Levitan, hay bâng khuâng trước hình ảnh con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu của Lưu Trọng Lư, thì chắc chắn không thể không xao xuyến trước khung cảnh chiều thu thơ mộng mà Xuân Diệu vẽ nên trong bài thơ "Thơ duyên":

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cành me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.

"Thơ duyên" có thể hiểu là nhân duyên giữa con người, cũng có thể là sự gắn bó kỳ diệu giữa đất trời và vạn vật. Mùa thu hiện ra trong thơ Xuân Diệu thật mộng mơ và hữu tình qua sự hài hòa này:

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên

Trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, chiều mùa thu biến thành "chiều mộng". Vẻ đẹp ấy mang đến cảm giác êm đềm, lãng mạn, khiến cả những cành cây vô tri cũng trở thành "nhánh duyên". Vạn vật hòa quyện vào nhau, tạo nên một sự "hòa thơ". Cách sử dụng từ ngữ mới lạ, câu thơ vừa tả cảnh vừa đậm tình, đem lại cảm giác ảo mộng. Bước đi trong chiều mộng, trong không gian êm đềm nghe tiếng chim ríu rít đùa vui. Cảnh tượng hiện ra thật thanh bình, thơ mộng, tạo thành một niềm vui dịu dàng và ấm áp.

Trong hai câu thơ đầu, nhà thơ đã tài tình và khéo léo vẽ nên bức tranh thu đầy nhạc tính: khúc nhạc khai mạc là những nốt trầm du dương, êm nhẹ làm cho khung cảnh thêm dịu dàng. Nhà thơ ghi lại những hình ảnh đậm màu sắc: từ nhánh cây xanh đến sắc trời "xanh ngọc" tươi trẻ. Dưới mặt đất, vạn vật hòa cùng khúc hoan ca:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.

"Đổ" là động từ làm cho cảnh như thật mà như mộng. Màu xanh ngọc của sắc thu và hồn thu. Trên vòm me là bầu trời, hòa lẫn cùng màu xanh của lá non, quanh vòm me là mùa thu. Tất cả như cùng sóng đôi, cùng bước đi, cùng hòa mình trong cảnh sắc đẹp thu thơ mộng. Và thi sĩ cũng thẫn thờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, bỗng cất lên một tiếng ngợi ca:

Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền

Trong giây phút đầu tiên của mùa thu, cả không gian dịu dàng trong ánh nắng tinh khôi, màu xanh tươi mới, trinh nguyên chan hòa với khúc nhạc du dương. Thiên nhiên cất lên bản giao hưởng của tiếng chim, tiếng đàn từ xa vọng lại. Xuân Diệu muốn khẳng định một lần nữa: mùa thu đã đến rồi và hưởng thụ mùa thu là lắng nghe sự chuyển động của đất trời. Sự chuyển động ấy diễn ra rất khẽ khàng, là một sự "hòa thơ", cảnh vật như cùng nhau dạo khúc ca duyên, sóng đôi cùng nhau, hòa quyện cùng nhau. Đất trời giao hòa gắn bó: "chiều mộng" đi cùng "nhánh duyên", "cây me" hòa duyên cùng "chim", ánh sáng đan vào muôn sắc lá… Cảnh thu hài hòa đường nét, màu sắc tươi sáng, dịu dàng, tạo nên bức tranh thu thơ mộng, tuyệt mỹ. Nhân vật trữ tình là người thi sĩ cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả giác quan: chiều mộng êm dịu tác động đến xúc giác, thị giác, thính giác.

Chỉ với bốn câu thơ, Xuân Diệu đã phác họa nên bức tranh thu thơ mộng, huyền ảo, vẻ đẹp chân thật, hiền hậu như được chụp lại từ một chiều thu nơi thôn dã. Mọi vật chuyển động nhịp nhàng, sóng đôi cùng nhau, hòa vào làm một. Cùng là đề tài mùa thu, nhưng trong thơ Xuân Diệu không có áo mơ phai, không có rặng liễu lả lướt mà chỉ có nhánh duyên, cánh chim, bầu trời xanh ngọc, cảnh vật giản đơn như soạn ra bản nhạc dạo đầu khởi xướng bài ca thu. Thiên nhiên như có mối lương duyên giao hòa thầm kín, mời gọi con người khám phá, trải lòng.

Qua đây, chúng ta nhận thấy bốn câu thơ đầu trong bài "Thơ duyên" có cấu trúc hoàn chỉnh, gợi tả cảnh vật mùa thu thơ mộng, độc đáo, không trùng lặp với bất cứ bài thơ chủ đề mùa thu nào khác trong văn chương Việt Nam. Qua bức tranh thu ấy, người đọc cảm nhận được hồn thơ Xuân Diệu tinh tế, hòa quyện với thiên nhiên để say đắm trong sự giao hòa. Đó là khát khao giao cảm của nhà thơ, sự kết duyên của cảnh vật là chất xúc tác cho sự gắn kết của con người.

Đánh giá

0

0 đánh giá