TOP 20 Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên 2025 SIÊU HAY

11

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Đề bài: Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Dàn ý Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Hồng Nguyên làm công tác văn nghệ trong quân đội và trở thành một nhà thơ được chú ý đến trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thơ ông viết về nhiều đề tài nhưng thường tập trung thể hiện tình cảm đối với anh bộ đội, nói lên niềm tin son sắt vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

+ “Nhớ” là bài thơ hay nhất của Hồng Nguyên, ghi nhận một trong những thành tựu xuất sắc đầu tiên của thơ ca chống Pháp viết về anh bộ đội. Bài thơ giống như "kịch bản phân cảnh" của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

2. Phân tích

a. Phân tích nội dung và chủ đề của tác phẩm.

Bài thơ “Nhớ” của nhà thơ Hồng Nguyên đã ngợi ca vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng mộc mạc, giản dị mà giàu lòng yêu nước, có lí tưởng cao đẹp, dũng cảm, tâm hồn lãng mạn, giàu chất thơ, có tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và niềm lạc quan cách mạng dẫu kháng chiến nhiều khó khăn, gian khổ:

- “Nhớ” những ngày đầu vừa nhập ngũ, cùng nhau đứng dưới lá quân kì.

+ Họ đã tự giới thiệu về mình thật vô tư, hồn nhiên, số lượng tuy không công bố cụ thể nhưng khá đông. Trình độ văn hóa cũng rất thấp và trình độ quân sự cũng chưa cao. Tuy nhiên ở “chúng tôi” có điểm đặc biệt đó chính là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và niềm lạc quan vẫn vui cười dẫu kháng chiến nhiều khó khăn.

+ Những ngày đầu kháng chiến, các anh từ nhiều miền quê khác nhau hăng hái nhập ngũ, cùng nhau tập hợp về đây, cùng đứng dưới lá quốc kỳ. Họ là những người sống chân thực, khiêm tốn và cũng luôn náo nức với bao niềm vui của tuổi trẻ và trong cuộc đời mới.Ở họ quy tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp của quần chúng cách mạng.

+ Những con người ấy đã từ luống cày mà bước ra, từ sau lũy tre làng bước tới. Hình ảnh này cũng giống với hình ảnh của những anh chiến sĩ trong thơ Chính Hữu. Họ từ “ nước mặn đồng chua”, từ miền quê nghèo “đất cày nên sỏi đá” để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và trở thành đồng đội. Đó cũng chính là ý thức chiến đấu, giải phóng dân tộc sâu sắc của anh bộ đội Cụ Hồ.

+ Tuy là những người tứ xứ, không hẹn mà quen, nhưng không hề xa lạ. Họ vốn là những người nông dân lần đầu mặc áo lính, họ gắn bó với ruộng đồng, quen thuộc với cuộc sống thanh bình, không quen chuyện binh đao. Trong giai đoạn này người lính còn bị hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều người còn chưa biết chữ…Cái quan trọng nhất mà họ có được đó là lòng nhiệt tình yêu nước và tinh thần lạc quan. Không hề ngập ngừng, sợ hãi, họ chủ động tìm giặc mà đánh với những vũ khí thô sơ.

+ Cái thuở ban đầu đầy gian khó nhưng lòng các anh vẫn tràn đầy niềm vui và niềm tin yêu cuộc sống. Chính vì trong lòng luôn có sẵn niềm tin, niềm yêu như vậy nên dù bao khó khăn, thiếu thốn các anh vẫn vững vàng, chủ động “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Không ở đâu trên trái đất này, người chiến sĩ gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại có một vẻ đẹp mộc mạc, bình dị đến thế !

+ Người lính dường như chỉ có tay không này sẽ tạo nên tất cả, thiếu giáo gươm họ sẽ rèn nên gươm giáo, thiếu súng đạn sẽ tìm ra súng đạn.

( Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng )

-> Bài thơ biểu thị khí thế của cuộc chiến tranh nhân dân; nhân dân khi đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù địch, mọi người đều thể hiện dũng khí trong chiến đấu.

- Nỗi nhớ quê hương

+ Người lính trong bài thơ không chỉ làm ta khâm phục mà còn khiến ta mến thương bởi ân tình của các anh đối với quê hương. Là những người nông dân mặc áo lính, từ nông dân mà ra nên dù có ra đi vì nghĩa lớn, dù có cách xa quê hương ngàn dặm thì mối tình quê vẫn không hề thay đổi, vẫn da diết trong sâu thẳm hồn các anh. Đến với quân ngũ, người lính đã để lại ở hậu phương, gia đình và những người thân yêu. Trong cuộc hành quân trường kỳ, gian khổ, cái đọng lại trong lòng mỗi người lính chính là nỗi nhớ quê da diết, cồn cào. Và cũng có thể nói tình yêu quê nhà vọng về trong nỗi nhớ.

- “Nhớ” tình đồng đội và sinh hoạt của người chiến sĩ trong quân ngũ

+ Tình đồng đội được biểu hiện sâu sắc, đằm thắm trong sinh hoạt hằng ngày. Trên những chặng đường hành quân còn ghi lại bao kỉ niệm, bình dị mà ân tình, sâu sắc.

+ Cuộc hành quân nhiều gian lao và khó khăn nhưng cũng có những khi phấn khởi bởi có được những lúc mộng mơ, đùa vui tếu táo. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn, bởi những tâm tình sâu kín được thể hiện thật nghịch ngợm, hóm hỉnh.

-> Tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, sâu nặng đã giúp họ vượt lên mọi khó khăn gian khổ.

+ Với các anh cuộc đời lưu động là cuộc đời anh đã chọn nên mỗi bờ tre, mái rạ, mỗi đêm khuya “giường kê cách cửa, bếp lửa khoai vùi” và cả những chặng đường hành quân tưởng chừng không dứt đều đã trở thành máu thịt. Tất cả, tất cả những kỉ niệm ấy đều gặp nhau ở mối tình quân dân cá nước mộc mạc mà cảm động

+ Làng quê trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả với tình cảm thân thiết, khai thác được nhiều cái mới của sinh hoạt tập thể, từ hình ảnh “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh “ người mẹ già bắt rận cho những đứa con xa” đến phút chia tay đầy lưu luyến và có sắc thái riêng độc đáo về động tác và ngôn từ. Làm sao không nhớ được những làng quê đẹp, bình dị, giàu tình người như thế. Hồng Nguyên đã thành công trong việc khai thác bức tranh quê đẹp chan chứa ân tình.

- Nỗi nhớ, tình yêu thương đối với nhân dân và với đất nước.

+ Tầm mắt được mở rộng hơn nên vì thế cũng đầy sự lạc quan và yêu đời. Lần lượt nhiều cảnh sắc nếp sống sinh hoạt được ùa về như những cảnh phim rộng với lời thơ thanh thoát, thảnh thơi…

+ Nhớ lời dặn dò chân tình, đơn sơ mang phong vị miền Trung tahwms tình quân dân ẩn chứa niềm tin chiến thắng, khát vọng hoà bình của cả dân tộc .Cái tình quân dân cá nước sao mà tha thiết và gần gũi đến thế. Bao nhiêu kỷ niệm của làng quê về những con người, những tấm lòng của miền đất lạ đã in dấu và trong tâm hồn của người chiến sĩ. Và những kỷ niệm ấy sẽ không thể phai mờ theo năm tháng.

=> Bài thơ – mang chất sống của cuộc đời chiến sĩ gian lao và anh dũng, thể hiện tình cảm quân dân thắm thiết, tâm hồn sôi nổi, lạc quan của những người nông dân mặc áo lính.

b. Phân tích những hình thức nghệ thuật đặc sắc

-Trong cấu tứ, lời thơ, “Nhớ” kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện với bộc lộ tâm trạng, cảm xúc. Hình ảnh, ngôn từ của “Nhớ” bình dị mà tinh tế, gợi cảm, chặt chẽ mà tự nhiên, phóng khoáng.

- Hồng Nguyên đã mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, ngôn ngữ thơ đậm chất miền Trung làm nên nét đặc trưng riêng của người con Thanh Hoá.

- Bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói, ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ, nêu cảm xúc của cá nhân hoặc bức thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người.

TOP 20 Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên 2025 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 1

Ra đời trong hoàn cảnh với những bài thơ viết về đề tài người lính. Bài thơ nhớ của Hồng Nguyên cũng đã đọng lại trong tâm trí người đọc những ấn tượng sâu sắc về đời sống của người lính trong kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ Nhớ gồm 62 dòng, dòng dài nhất của 10 chữ được chia thành ba khổ thơ với ba mạch cảm xúc khác nhau. Nhưng ngay từ giây phút đầu tiên bài thơ đã chọn cho một hình thức thể hiện đất riêng đó là hình ảnh những người chiến sĩ vệ quốc đoàn trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Với những câu thơ ngắn nhà thơ đã giới thiệu những người bạn đồng chí đồng đội của mình thật tốt đẹp và chân thành biết bao. Những hình ảnh người lính đó cũng giống như hình ảnh người lính trong thơ của Chính Hữu. Họ cũng xuất thân từ những cánh đồng chua mặn, từ những miền quê nghèo đất cày nên sỏi đá để rồi theo tiếng gọi của tổ quốc sẵn sàng lên đường. Điều đó thể hiện ý thức đấu tranh giải phóng dân tộc sâu sắc. Trong cuộc hành quân ấy điều đọng lại trong lòng mỗi người lính chính là nỗi nhớ quê hương da diết và tình yêu quê hương luôn vang vọng trong nỗi nhớ. Chỉ với những câu thơ ngắn đã tái hiện được nỗi nhớ da diết xao xuyến của những người lính khi lên đường đi chiến đấu.

Chúng tôi đi

 

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

Mặc dù trên chặng đường hành quân có rất nhiều gian nan vất vả, có những lúc các anh đã mơ màng. Đó là hình ảnh của những cô thôn nữ khi về làm dâu, đó là những câu chuyện về vợ con người lính với những tiếng cười vui vẻ. Nỗi nhớ trong bài thơ của Hồng Nguyên còn được thể hiện ở cấp độ cao hơn đó là nỗi nhớ da diết tình yêu con người.

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Điều đó có thể thấy tình quân dân ở nơi đây thật chân thành và gần gũi biết bao. Có biết bao kỷ niệm của người về những con người những tấm lòng nơi đất khách đã khắc sâu và tâm hồn người lính và những kỷ niệm này sẽ gắn bó và đồng hành cùng những người lính ấy không bao giờ tàn phai.

Bài thơ chính là nỗi nhớ của người lính khi lên đường ra chiến trận. Họ nhớ về quê hương, nhớ về những người thân yêu ruột thịt của mình và hơn hết đó là nỗi nhớ về những ngày hòa bình độc lập.

TOP 20 Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên 2025 SIÊU HAY (ảnh 2)

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 2

Chủ đề người lính luôn là một nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn nhà thơ viết. Có rất nhiều các tác phẩm viết và ca ngợi về hình ảnh kiên cường bất khuất của người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhớ của Hồng Nguyên là một bài thơ tiêu biểu trong số những bài thơ về đề tài người lính.

Nhớ là một bài thơ hay của Hồng Nguyên. Ông tên thật là Nguyễn Văn Vượng. Nhớ được viết vào năm 1946 khi nhà thơ sắp lên đường vào Vinh làm việc với tờ báo dân mới. Bài thơ Nhớ gắn với bút danh Hồng Nguyên kể từ đó để cho tới nay thời gian vẫn nhớ tới một gương mặt tài hoa mà đoản mệnh của xứ Thanh. Với Hồng Nguyên nhớ chính là ký ức của cuộc đời. Nhớ chính là ký ức về người chiến sĩ, một cuộc đời với bao kỷ niệm khó quên, sự nhớ thương da diết của thuở ban đầu bước vào cuộc kháng chiến là điểm gặp gỡ quen thân của những người chiến sĩ.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Khổ thơ gợi lên không khí của những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi những chàng thanh niên đang lứa tuổi thiếu niên từ nhiều miền quê khác nhau đã hăng hái lên đường nhập ngũ, họ là những con người khiêm tốn, trung thực, luôn hào hứng với những niềm vui của tuổi trẻ và với cuộc sống mới. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính có một vị trí quan trọng trong văn học và thơ ca. Ở họ ta thấy được nhiều phẩm chất cao đẹp của người quần chúng cách mạng. Đoạn thơ đã thể hiện chân thực hình ảnh người lính bộ đội cho những ngày đầu mới thành lập lực lượng vũ trang, trong những ngày tháng còn gian khổ thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần chiến đấu của họ vẫn luôn dâng cao và hừng hực khí thế.

Khi mới được thành lập mọi người đều ở những vùng quê với những hoàn cảnh khác nhau. Thế nhưng ta vẫn cảm nhận được có cái gì đó rất thân mật gần gũi. Họ là những thanh niên nông dân trong bộ quân phục gắn bó với nông thôn, đang quen với cuộc sống thanh bình và trong thời kỳ này rất nhiều người còn mù chữ và tất cả những khó khăn đó đều được khắc phục trong những năm tháng ở quân ngũ. Một điểm chung của họ đó chính là lòng yêu nước nồng nàn và sự lạc quan, không sợ hãi, không ngại khó khăn thử thách, luôn chủ động tìm địch và chiến đấu bằng vũ khí thô sơ.

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Với ý chí quyết tâm đánh giặc của mình mặc dù họ là những người với hai bàn tay trắng để đánh địch nhưng họ có thể rèn kiếm, không có súng thì kiếm súng. Giống như trong tác phẩm Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành một câu bất hủ mà cụ Mết đã nói chúng nó dùng súng thì mình phải dùng giáo. Quả thực đúng như thế đó là một triết lý của thời đại, muốn đánh giặc phải có vũ khí. Đoạn thơ là sự tiêu biểu cho khí thế chiến tranh nhân dân, khi đồng bào đã giác ngộ lý tưởng cách mạng với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần xung kích đều thể hiện sự dũng cảm trong chiến đấu. Khi đã sẵn sàng lên đường nhập ngũ người lính phải bỏ lại người thân, gia đình, mái tranh..

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Tình cảm hậu phương chính là tình cảm chung của những người đã khuất đã được nhà thơ thể hiện dưới nhiều màu sắc khác nhau. Cuộc sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn người lính khi nhớ đến những người hậu phương với một niềm nhớ nhung tha thiết. Hình ảnh người phụ nữ lao động sớm hôm luôn là hình ảnh thao thức trong mỗi người lính thì lên đường đi chiến đấu.

Nhớ là bài thơ viết về người lính. Bài thơ đã nói lên sự chân thực sinh động về tình đồng chí và nét sinh hoạt của những người lính trong quân đội. Cuộc sống còn nhiều khó khăn phức tạp nhưng ở họ rất vui tươi lạc quan yêu đời. Tình đồng đội được thể hiện sâu sắc đáng yêu của các hoạt động hàng ngày. Có rất nhiều những kỷ niệm được ghi lại trong những chuyến hành quân.

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa

Những người lính còn nhớ về tình quân dân ấm áp

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Đọc tác phẩm nhớ ta như được sống trong những giây phút hào hùng của những ngày đất nước còn trong khói lửa chiến tranh, về sự lạc quan, yêu đời của người lính. Dù trong gian khổ họ vẫn luôn hướng về một niềm tin đất nước độc lập.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 3

Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên đã trở thành hiện tượng ngay từ khi mới xuất hiện và được đông đảo độc giả yêu thích. Nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều người và được lưu truyền qua nhiều năm.

Bài thơ “Nhớ” có 62 câu, câu dài nhất có 10 chữ. Tác phẩm được chia thành ba khổ thơ với ba yếu tố cảm xúc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy bài thơ này đã lựa chọn hình thức thể hiện riêng ngay từ đầu. Đây là hình ảnh vệ quốc đoàn trong những năm kháng chiến. Có bao nhiêu người, và họ là ai? Thông tin này đã được nhà thơ giới thiệu ngay ở những khổ thơ đầu.

Họ tự giới thiệu mình như thế này. Mặc dù con số chính xác chưa được công bố nhưng đó là một con số đáng kể. Và trình độ văn hóa cũng rất thấp, trình độ quân sự cũng không cao. Nhưng điều khiến họ trở nên đặc biệt là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và sự lạc quan để cười ngay cả khi đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh.

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ,

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “Một hai”

Súng bắn chưa quen,

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Lột sắt đường tàu,

Rèn thêm đao kiếm,

Áo vải chân không,

Đi lùng giặc đánh.

Ba năm rồi gửi lại quê hương.’

Nhà thơ đã thể hiện trong những lời thơ hài hước của mình những người bạn đồng hành tốt bụng và chân thành biết bao. Những người lính này từ luống cày bước ra. Hình ảnh này giống với hình ảnh những người lính trong bài thơ của Chính Hữu. Họ đến từ những vùng nghèo, nước mặn, ruộng chua, cày xới đất đá để đáp lại tiếng gọi quê hương. Những người lính này có tình cảm sâu sắc về đấu tranh giải phóng dân tộc.

Điều đọng lại trong lòng mỗi người trong cuộc tuần hành này là niềm khao khát quê hương sâu sắc và nồng nàn. Và cũng có thể nói, tình yêu quê hương vọng trở về trong nỗi nhớ. Chỉ qua một vài lời thơ đơn giản đã có thể khơi lại nỗi nhớ đó, và nỗi nhơ ấy rất mạnh mẽ. Đó là nỗi nhớ của một người vợ trẻ đầy yêu thương và hoài niệm.

‘Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa

– Đằng nớ vợ chưa?

– Đằng nớ?

– Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…’

Cuộc hành quân tuy gian nan, vất vả nhưng cũng có những giây phút phấn khởi vì những giây phút tựa như trong mơ. Đó là hình ảnh những người phụ nữ ở một ngôi làng bên rìa cánh đồng dâu, là câu chuyện kể về vợ con người lính cùng nhau vui vẻ, cười đùa.

Trong bài thơ ‘Nhớ’ của Hồng Nguyên, nỗi nhớ quê hương này còn được thể hiện ở một mức độ cao hơn là nỗi nhớ, tình yêu con người, quê hương. Tầm nhìn rộng hơn, tràn đầy lạc quan và yêu đời hơn. Nhiều cảnh đời thường nối tiếp nhau diễn ra, giống như những cảnh phim rộng. Và ở đoạn thơ này, tác giả đã thành công trong việc khắc họa những điều đó nhờ lối thơ thanh thoát, nhẹ nhàng…

‘Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…

..

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!’

Và tình yêu này giữa con người với nhau thật nồng nàn và thân thiết. Biết bao kỷ niệm về làng quê, con người, tấm lòng vùng đất lạ đã khắc sâu vào tâm hồn người lính. Và những ký ức này vẫn không phai mờ dù bao nhiêu năm có trôi qua, và chúng ta cũng có thể cảm nhận được điều đó.

Nhưng sau khoảng thời gian khó khăn như vậy, họ lại một lần nữa bắt tay vào thực hiện một nhiệm vụ hết sức nặng nề. Nó giống như sức nặng của vũ khí trên vai người lính. Điều này thể hiện hình ảnh người chiến sĩ có ý chí kiên cường, bất khuất. Đây cũng là giá trị của bài thơ “Nhớ” của nhà thơ Hồng Nguyên.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 4

Cuộc kháng chiến thần kỳ của nhân dân ta chống thực dân Pháp không chỉ là một cột mốc vẻ vang trong lịch sử Việt Nam mà còn là một cột mốc đáng nhớ của văn học nước nhà. Bởi vì lần đầu tiên trong thơ Việt Nam xuất hiện một nhân vật anh hùng dân tộc mới. Đây chính là những ảnh bộ đội Hồ – anh bộ đội đã trải qua bao gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Khi gọi tên anh, chúng ta sẽ không bao giờ quên bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, một bài thơ thể hiện định nghĩa đầy đủ nhất về người lính và tình đồng đội cao cả. Nhưng chúng ta cũng luôn nhớ đến các anh với một chân dung mới lạ qua bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên.

Câu mở đầu độc đáo của bài thơ ngay từ cách các anh tự giới thiệu về mình.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi 1,2

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Những hình ảnh thơ được lặp đi lặp lại tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc về những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dù những ngày đầu đầy khó khăn nhưng trong lòng các anh bộ đội vẫn tràn ngập niềm vui và niềm tin vào cuộc sống.

Bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, các anh luôn có niềm tin yêu lớn lao trong lòng nên vẫn kiên định, chủ động tìm kẻ thù mà đánh trận. Những vần thơ ấy thật khỏe khoắn và đầy sức mạnh làm sao:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Tất cả chúng ta đều ngạc nhiên và xúc động khi đọc đến những câu thơ này. Bởi không nơi nào trên thế giới những người lính, những người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại sở hữu vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như vậy. Nhưng đây là hiện thực. Đó là một hiện thực nguyên sơ, không được tô điểm một cánh hoa mỹ hay che đậy của cuộc kháng chiến trường kỳ lâu dài. Chính vì vậy hình ảnh những người lính trong bộ đồ áo vải chân không sẽ mãi mãi là một hình ảnh đẹp không bao giờ lặp lại trong lịch sử đất nước này.

Những người lính trong bài thơ khiến chúng ta không chỉ ngưỡng mộ mà còn yêu mến các anh vì ân tình của các anh đối với quê hương.

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Là người nông dân mặc áo lính, dù có cách xa quê hương hàng ngàn cây số, dù có ra đi vì một mục đích cao đẹp thì tình quê vẫn in sâu trong trái tim các anh. Lời thơ “Mòn chân bên cối gạo canh khuya” chứa đựng tình nghĩa sâu nặng đối với người vợ trẻ. Tình yêu này giống như một sợi chỉ mỏng manh vô hình nhưng nó đi cùng suốt cuộc đời chiến đấu của các anh và không bao giờ đứt đoạn.

Đi theo dòng ký ức và nỗi nhớ trong bài thơ, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của những người lính có nhiều nét tươi đẹp. Cùng với những người bạn cùng thôn xóm, các anh đã phải chịu đựng những tháng ngày hành quân gian khổ, nơi nắng mưa làm sờn mép ba lô. Sức mạnh nào đã tạo nên điều kỳ diệu này? Đó chính là tình đồng chí đồng đội. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn bởi những cảm xúc sâu lắng được thể hiện một cách tinh nghịch và hài hước.

– Đằng nớ vợ chưa

– Đằng nớ

– Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu

Hình ảnh lãng mạn đó, tiếng cười vui vẻ, lạc quan đó vẫn còn vang vọng đâu đó cho đến hôm nay, như để nhắc nhở chúng ta về một thời gian khó khăn nhưng vô cùng hào hùng của đất nước.

Câu “Tôi nhớ, chúng tôi đi” xuất hiện nhiều lần trong bài thơ. Phải chăng cuộc đời lưu động có phải là cuộc đời anh đã chọn? Mỗi bờ tre, từng mái tranh, từng đêm khuya giường kê cách cửa, bếp lửa đốt khoai, thậm chí cả những đám chặng đường hành quân tưởng chừng như vô tận… đã trở thành máu thịt. Tất cả những kỷ niệm ấy gặp nhau trong một tình yêu giản dị nhưng cảm động giữa con người và đất nước.

Chúng tôi đi nhớ nhất câu nì

Dân chúng cầm tay lắc lắc

Độc lập nhớ rẽ viền với chắc

“Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau” Lời dặn dò đơn giản, mang đậm chất quê hương này từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ người yêu thơ. Bởi bài thơ thể hiện niềm tin vào chiến thắng và khát vọng hoà bình của toàn dân qua những vần thơ vô cùng giản dị.

Bài thơ đã kết thúc nhưng hình ảnh những người lính trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp với những nét đặc sắc khó quên làm nổi bật phẩm chất cao quý của bộ đội Cụ Hồ vẫn còn mãi trong tấm lòng mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 5

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “một, hai”

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến…’

Bài thơ này gợi lại không khí những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi đồng bào cùng lứa tuổi ở các vùng miền đều hăng hái nhập ngũ. Họ là những người sống thật thà, khiêm tốn, luôn hào hứng với niềm vui của tuổi trẻ, cuộc sống mới.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính chiếm một vị trí quan trọng trong thơ ca. Ở họ kết hợp nhiều nét đẹp của quần chúng cách mạng. Văn học thời kỳ này tập trung vào người chiến sĩ, người lính.. Bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên đã đoạt giải nhất tại cuộc họp Ủy ban Nghệ thuật Lam Sơn tổ chức tại Thanh Hóa năm 1948.

Bài thơ này khắc họa sinh động những người lính trong những ngày đầu thành lập quân đội, những người dù vượt qua bao năm tháng gian khổ vẫn có tinh thần chiến đấu kiên cường. Khi các nhà thơ viết về người lính, họ thường tìm thấy tiếng nói gần gũi nhất với người lính. Trong bài thơ “Nhớ”, Hồng Nguyên để người lính kể về mình như sau.

‘Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ.’

Lúc này lực lượng quân đội mới được thành lập. Có điều gì đó rất gần gũi và thân mật trong bầu không khí tập thể của quân đội. Những người từ khắp nơi mà gặp không hẹn trước, nhưng họ không hề xa lạ. Từ ‘lũ chúng tôi’ không có nghĩa là coi thường đối tượng được mô tả, mà là một cách tự nhiên để nói về bản thân những người lính. Vốn dĩ họ là những nông dân thanh niên mặc quân phục, biết cuộc sống yên bình nhưng không quen chuyện binh đao.

‘ Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh.’

Có thể nói đoạn thơ này thể hiện rõ nhất sự quyết tâm đánh bại kẻ thù của những người lính thời đại này. Người lính này dường như có thể tạo ra bất cứ thứ gì chỉ bằng đôi tay trần của mình. Vì không có giáo hoặc kiếm nên sẽ phải rèn một cái. Anh ta không có súng và đạn nên anh ta sẽ tìm súng và đạn. Đoạn thơ đã thể hiện tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ. Khi nhân dân đã giác ngộ lý tưởng cách mạng và có tinh thần yêu nước sâu sắc, căm thù giặc thì ai cũng thể hiện lòng dũng cảm trong chiến đấu. Khi người lính nhập ngũ, anh đã bỏ lại gia đình và những người thân yêu của mình.

‘Mái lều tranh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya.’

Cuộc sống ở quê hương vẫn còn nhiều khó khăn. Người lính hoài niệm, nhớ về quê hương nhưng không hề thấy buồn hay nản. Trong thâm tâm, họ nhớ về quê hương với cảm giác nhớ người vợ trẻ. Người lính ra chiến trường nhớ vợ, nghĩ đến những vất vả của người vợ khi phải gánh trách nhiệm của người phụ nữ với gia đình và trách nhiệm với tiền tuyến.

Hai chữ “mòn chân” gợi nhiều cảm giác thương nhớ người ra đi và những người thân yêu ở hậu phương.

“Nhớ” là bài thơ nói về người lính trong những mối quan hệ khác nhau. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thực và sinh động về tình đồng đội, hoạt động sinh hoạt của những người lính trong quân đội. Cuộc sống còn khó khăn nhưng họ rất hạnh phúc và lạc quan. Tinh thần đồng đội được thể hiện một cách sâu sắc và đầy yêu thương trong hoạt động hàng ngày của các anh. Chặng đường hành quân chứa đựng tình yêu thương sâu sắc và để lại nhiều kỷ niệm.

‘Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô

Tháng năm bạn cùng thôn xóm

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng

Kì hộ lưng nhau, ngang bờ cát trắng

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa …

– Đằng nớ vợ chưa? Đằng nớ

-Tớ còn chờ Độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.’

Bài thơ cũng cho thấy sâu sắc tình quân dân. Đất nước trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả chân thực, dựa trên nhiều khía cạnh mới của sinh hoạt tập thể, từ “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh người mẹ già đi bắt rận cho những đứa con ở phương xa, đến giây phút chia tay ngập tràn yêu thương và những sắc thái động tác, lời nói độc đáo.

Chúng tôi đi, nhớ nhất câu nì

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập nhớ rẽ viền với chắc”.

Làm sao lại có thể không nhớ đến một ngôi làng đẹp đẽ, giản dị và giàu tình người như vậy? Hồng Nguyễn đã tận dụng tốt trong việc khai thác phong cảnh đẹp đẽ mà đầy yêu thương này.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 6

Ngay từ khi mới xuất hiện bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện được lan truyền rộng rãi. Cũng đã ghi đậm vào tâm trí của nhiều người và cũng đi cùng năm tháng.

Bài thơ Nhớ gồm có 62 dòng thơ và dòng dài nhất có 10 chữ. Nó được chia làm ba khổ thơ với ba mạch cảm xúc khác nhau. Nhưng ta cũng có thể thấy được ngay từ đoạn đầu bài thơ đã lựa chọn cách thể hiện rất riêng. Đó là hình ảnh của những người lính Vệ quốc đoàn trong những năm tháng kháng chiến. Họ có bao nhiêu người và gồm những ai? Thông tin này đã được nhà thơ giới thiệu thông qua những vần thơ đầu tiên.

Họ đã tự giới thiệu thế đây, số lượng tuy không công bố cụ thể nhưng khá đông. Và trình độ văn hóa cũng rất thấp và trình độ quân sự cũng chưa cao. Tuy nhiên ở chúng tôi có điểm đặc biệt đó chính là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và sự lạc quan vẫn vui cười khi kháng chiến.

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương.

Bằng những câu thơ hóm hỉnh nhà thơ đã tự giới thiệu về những đồng đội của mình đáng yêu và chân thành biết bao. Những con người ấy đã từ luống cày mà bước ra. Hình ảnh này cũng giống với hình ảnh của những anh chiến sĩ trong thơ Chính Hữu. Họ từ nước mặn đồng chua, từ miền quê nghèo đất cày nên sỏi đá để đi theo tiếng gọi tổ quốc. Cũng chính là ý thức chiến đấu, giải phóng dân tộc sâu sắc.

Trong cuộc hành quân ấy, cái đọng lại trong lòng mỗi người chính là nỗi nhớ quê đầy da diết và cồn cào. Và cũng có thể nói tình yêu quê nhà vọng về trong nỗi nhớ. Chỉ với những câu thơ này đã có thể tái hiện được nỗi nhớ ấy và nó amng tính ám ảnh rất cao. Đó chính là hình ảnh người vợ trẻ với tình thương và nỗi nhớ đong đầy.

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
– Đằng nớ vợ chưa?
– Đằng nớ?
– Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…

Cuộc hành quân ấy vẫn gian lao và khó khăn nhưng cũng có những khi phấn khởi bởi có được những lúc mộng mơ. Đó là hình ảnh của những o thôn nữ ở cuối nương dâu. Là những câu chuyện về người vợ người con từ các chú chiến sĩ với điệu cười sảng khoái.

Nỗi nhớ quê nhà ấy trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên còn thể hiện ở một cấp độ cao hơn chính là nỗi nhớ, tình yêu thương đối với nhân dân và với đất nước. Tầm mắt được mở rộng hơn nên vì thế cũng đầy sự lạc quan và yêu đời. Lần lượt nhiều cảnh sắc nếp sống sinh hoạt được ùa về như những cảnh phim rộng. Và đoạn này tác giả đã thành công trong việc khắc họa những điều đó nhờ lời thơ thanh thoát, thảnh thơi…

Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…
..
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Và cái tình quân dân cá nước ấy sao mà tha thiết và gần gũi tới thế. Bao nhiêu kỷ niệm của làng quê về những con người, những tấm lòng của miền đất lạ đã in dấu và trong tâm hồn của người chiến sĩ. Và những kỷ niệm ấy sẽ theo năm tháng mà không phai mờ và ta cũng sờ thấy được.

Tuy nhiên sau những giờ phút mệt nhọc ấy các anh lại lên đường với nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Đó là nhiệm vụ mà đắt nước giao cho và cũng vô cùng khó khăn và gian khổ. Nó cũng giống như sức nặng của khẩu súng mà các anh vác trên vai. Qua đó cũng khắc họa được hình ảnh của người chiến sĩ với ý chí kiên cường và bất khuất. Đó cũng chính là giá trị của bài thơ Nhớ của nhà thơ Hồng Nguyên.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 7

Cuộc kháng chiến thần kì của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là một dấu mốc đáng nhớ của văn học Việt Nam. Bởi lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam xuất hiện những con người mới tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng: Đó là anh bộ đội cụ Hồ - anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với biết bao khó khăn gian khổ. Nhắc đến tên anh, tất cả chúng ta sẽ không thể quên bài Đồng chí của Chính Hữu - bài thơ như một định nghĩa hoàn hảo nhất về người lính và tình đồng chí cao đẹp. Nhưng chúng ta cũng mãi nhớ đến các anh trong một bức chân dung mới lạ - bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Bài thơ mở đầu thật độc đáo, độc đáo ngay ở cách các anh tự giới thiệu về mình:

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi 1,2

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Những hình ảnh thơ liên tiếp xuất hiện đã gây cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc về những anh bộ đội của thời kì đầu chống Pháp. Cái thuở ban đầu đầy gian khó nhưng lòng các anh vẫn tràn đầy niềm vui & niềm tin yêu cuộc sống

Chính vì trong lòng luôn có sẵn niềm tin, niềm yêu như vậy nên dù bao khó khăn, thiếu thốn các anh vẫn vững vàng, chủ động, đi tìm giặc mà đánh. Những câu thơ thật khoẻ khoắn, mạnh mẽ:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Đọc đến đây tất cả chúng ta đều cảm thấy ngạc nhiên & cảm động. Bởi không ở đâu trên trái đất này, người chiến sĩ gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại có một vẻ đẹp mộc mạc, bình dị đến như vậy. Nhưng đó chính là hiện thực – một hiện thực nguyên sơ không hề được điểm trang hay tô vẽ của cuộc kháng chiến trường kì. Chính vì vậy hình ảnh các anh bộ đội áo vải chân không mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ một đi không trở lại trong lịch sử dân tộc

Người lính trong bài thơ không chỉ làm ta khâm phục mà còn khiến ta mến thương bởi ân tình của các anh đối với quê hương:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Là những người nông dân mặc áo lính, từ nông dân mà ra nên dù có ra đi vì nghĩa lớn, dù có cách xa quê hương ngàn dặm thì mối tình quê vẫn không hề thay đổi, vẫn da diết trong sâu thẳm hồn anh. Biết bao nghĩa tình sâu nặng với người vợ trẻ chất chứa trong câu thơ Mòn chân bên cối gạo canh khuya. Tình cảm ấy như một sợi chỉ đỏ mỏng manh, vô hình nhưng theo suốt cuộc đời chinh chiến của các anh, không bao giờ đứt nối

Trôi theo mạch hồi tưởng, nhớ nhung của bài thơ, ta còn thấy thêm được nhiều nét đẹp trong cuộc đời người lính. Những chặng đường hành quân gian khổ: Nắng mưa sờn mép ba lô, tháng năm bạn cùng thôn xóm nhưng các anh vẫn bền bỉ vượt qua. Động lực nào, sức mạnh nào đã làm nên điều kì diệu ấy? Đó chính là tình đồng chí, đồng đội. Nói về tình cảm cao đẹp này Chính Hữu viết: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay, còn Hồng Nguyên lại viết: Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa. Cả hai đều là những câu thơ làm rung động lòng người, gợi bao ấm áp trong tâm hồn. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn, bởi những tâm tình sâu kín được thể hiện thật nghịch ngợm, hóm hỉnh:

- Đằng nớ vợ chưa

- Đằng nớ

- Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu

Ta tưởng như hình ảnh lãng mạn ấy, tiếng cười vui vẻ lạc quan ấy còn vang đâu đây như nhắc nhở chúng ta về một thời gian khổ nhưng quá đỗi hào hùng của dân tộc

Bài thơ nhiều lần nhắc lại cụm từ Tôi nhớ, chúng tôi đi. Phải chăng với các anh Cuộc đời lưu động là cuộc đời anh đã chọn nên mỗi bờ tre, mái rạ, mỗi đêm khuya giường kê cách cửa, bếp lửa khoai vùi và cả những chặng đường hành quân tưởng chừng không dứt đều đã trở thành máu thịt. Tất cả, tất cả những kỉ niệm ấy đều gặp nhau ở mối tình quân dân cá nước mộc mạc mà cảm động:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc

Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc

Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau , lời dặn dò đơn sơ mang phong vị miền Trung ấy từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ yêu thơ. Bởi nó nói được niềm tin chiến thắng, khát vọng hoà bình của cả dân tộc bằng những câu thơ vô cùng giản dị.

Bài thơ đã khép lại nhưng còn đọng mãi trong mỗi chúng ta hình ảnh anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với những đặc điểm riêng biệt thật khó quên nhưng luôn sáng mãi những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 8

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến...

Khổ thơ gợi lên không khí những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thanh niên cùng lứa tuổi từ nhiều miền quê khác nhau hăng hái nhập ngũ. Họ là những người sống chân thực, khiêm tốn và cũng luôn náo nức với bao niềm vui của tuổi trẻ và trong cuộc đời mới.

Trong nhũng năm kháng chiến chống Pháp hình tượng người chiến sĩ có một vị trí quan trọng trong văn thơ. Ở họ qui tụ nhiều phẩm chất đẹp của quần chúng cách mạng. Văn học giai đoạn này tập trung viết nhiều về người chiến sĩ quân đội. Trong văn có Trần Đăng, Hồ Phương, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi. Trong thơ có Tố Hữu, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Quang Dũng. Bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên được giải nhất trong cuộc họp Ban Văn nghệ Lam Sơn năm 1948 ở Thanh Hóa.

Bài thơ thể hiện chân thực hình ảnh người chiến sĩ quân đội trong thời kì đầu thành lập lực lượng vũ trang, những năm tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng tinh thần chiến đấu vẫn tràn đầy quyết tâm. Viết về người chiến sĩ, các nhà thơ thường tìm tiếng nói gần gũi nhất với người chiến sĩ, Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ đã để cho chính người chiến sĩ nói về mình:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ.

Lúc này lực lượng võ trang mới hình thành. Có một cái gì rất thân mật, gần gũi trong không khí tập thể của quân đội. Tuy là những người tứ xứ, không hẹn mà quen, nhưng không hề có không khi xa lạ. Cụm từ “lũ chúng tôi” không có ý xem nhẹ hoặc thiếu tôn trọng với đối tượng miêu tả mà đây là cách nói về mình một cách gần gũi tự nhiên. Họ vốn là những thanh niên nông dân mặc áo lính, gắn bó với ruộng đồng, quen thuộc vối cuộc sống thanh bình, không quen chuyện binh đao. Trong giai đoạn này người lính còn bị hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều người còn chưa biết chữ, rồi đây tất cả sẽ được khắc phục trong những năm tháng ở quân đội. Cái quan trọng nhất mà họ nhiệt tình yêu nước và tinh thần lạc quan. Không hề ngập ngừng, sợ hãi, họ chủ động tìm giặc mà đánh với những vũ khí thô sơ:

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh.

Đây có thể xem là đoạn thơ tiêu biểu nhất cho quyết tâm giết giặc của những chiến sĩ trong giai đoạn này. Người lính dường như chỉ có tay không này sẽ tạo nên tất cả, thiếu giáo gươm họ sẽ rèn nên gươm giáo, thiếu súng đạn sẽ tìm ra súng đạn. Bài thơ biểu thị khí thế của cuộc chiến tranh nhân dân; nhân dân khi đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù địch, mọi người đều thể hiện dũng khí trong chiến đấu. Đến với quân ngũ, người lính đã để lại ở hậu phương, gia đình và những người thân yêu:

Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.

Tình cảm với hậu phương là một tình cảm phổ biến của người ra đi chiến đấu và đã được các nhà thơ thể hiện với nhiều sắc thái khác nhau. Trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi bộc lộ tâm trạng người lính:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Chính Hữu trong Đồng chi cũng miêu tả tấm lòng và nỗi nhớ của hậu phương:

Giếng nước gốc đa
Nhớ người ra lính.

Đời sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn. Những người chiến sĩ nghĩ về hậu phương với tình cảm nhớ thương chia sẻ nhưng không hề có sự tủi buồn và nản lòng, trong tấm lòng nhớ về hậu phương thì tha thiết nhất là tình cảm nhớ thương người vợ. Hồng Nguyên cũng đã nói đến tình cảm trên qua một hình ảnh cụ thể gợi cảm: “ít nhiều người vợ trẻ, mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Người lính ra đi chiến đấu nhớ thương vợ, nghĩ đến hình ảnh người vợ vất vả sớm hôm trong trách nhiệm của người phụ nữ với gia đình và trách nhiệm của hậu phương với tiền tuyến.

Hai chữ “mòn chân” gợi nhiều xúc động nhớ thương của người ra đi với người thân yêu ở hậu phương.

Nhớ là một bài thơ nói về người chiến sĩ thông qua nhiều mối quan hệ, bài thơ đã nói lên chân thực, sinh động tình đồng đội và sinh hoạt của người chiến sĩ trong quân ngũ, đời sống còn khó khăn nhưng họ rất vui, lạc quan. Tình đồng đội được biểu hiện sâu sắc, đằm thắm trong sinh hoạt hằng ngày. Trên những chặng đường hành quân còn ghi lại bao kỉ niệm, bình dị mà ân tình sâu sắc:

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kì hộ lưng nhau, ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ...
- Đằng nớ vợ chưa? Đằng nớ
-Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

Bài thơ cũng bộc lộ sâu sắc tình quân dân. Làng quê trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả với tình cảm thân thiết, khai thác được nhiều cái mới của sinh hoạt tập thể, từ hình ảnh “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh người mẹ già bắt rận cho những đứa con xa đến phút chia tay đầy lưu luyến và có sắc thái riêng độc đáo về động tác và ngôn từ:

Chúng tôi đi, nhớ nhất câu nì
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập nhớ rẽ viền với chắc”.

Làm sao không nhớ được những làng quê đẹp, bình dị, giàu tình người như thế. Hồng Nguyên đã thành công trong việc khai thác bức tranh quê đẹp chan chứa ân tình.

Đánh giá

0

0 đánh giá