Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện
Đề bài: Lập dàn ý cho bài văn kể lại một câu chuyện
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 1
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể: Câu chuyện Cây khế
b) Thân bài: Kể lại nội dung câu chuyện Cây khế theo trình tự thời gian
Một gia đình nọ có hai người con trai, người anh tham lam, lười biếng, còn người em chăm chỉ, tốt bụng
Khi cha qua đời, người anh lấy hết gia sản, chỉ chia cho em trai một cây khế già và một túp lều tranh cạnh cây khế
Người em trai không nản lòng, vẫn tiếp tục chăm chỉ làm lụng, giúp đỡ bà con và chăm sóc cây khế già
Mùa quả năm đó, cây khế rất sai trái, nên thu hút một con chim thần đến ăn mỗi ngày
Thấy chim ăn nhiều quả, người em trai bèn ra than thở với chim, mong chim đừng ăn quả nữa
Chim thần dặn dò người em may túi ba gang để đưa anh đi lấy vàng, trả công cho số khế đã ăn, nhờ vậy người em trở nên giàu có
Người anh thấy em giàu có hơn, lân la sang hỏi chuyện
Khi biết chuyện, người anh đổi cả gia tài lấy cây khế của em trai, rồi ngày ngày chờ chim thần đến
Khi chim thần đến, người anh trai bắt chước em ra than thở, được chim hứa hẹn dẫn ra đảo lấy vàng
Vì tham lam, người anh may túi 12 gang, nên khi lấy vàng đầy túi, sức nặng khiến chim không bay nổi
Khi bay qua biển lớn, bất ngờ có bão, vì chở quá nặng nên chim rớt xuống biển. Chim thần dùng sức bay khỏi mặt biển, còn người anh trai vì buộc túi vàng lên người nặng quá nên nhanh chóng chìm sâu
c) Kết bài: Suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện cổ tích Cây khế.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 2
1. Mở bài:
Tên truyện: Người ăn xin
Nhân vật: cậu bé và người ăn xi
2. Thân bài:
Cụ ăn xin co ro đưa bàn tay xin cậu giúp đỡ
Cậu bé muốn giúp cụ nhưng trong người không có gì cả
Cậu bé đành nắm lấy bàn tay xin lỗi cụ
Cụ già cảm ơn trong nỗi xúc động
3. Kết bài:
Chú bé và ông lão đều nhận được điều gì đó từ nhau.
Câu chuyện hết sức xúc động và có ý nghĩa giúp chúng ta thấy được tình yêu thương con người luôn quanh ta.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 3
Mở bài: Trong các câu chuyện đã được nghe, em thích nhất là câu chuyện Sự tích cây vú sữa.
Thân bài:
+ Có một câu bé ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, chẳng nghĩ đến mẹ ớ nhà mỏi mắt chờ mong.
+ Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ, liền tìm đường về nhà.
+ Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc.
+ Kì lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh, rồi chín. Một quả rơi vào lòng cậu. Môi cậu vừa chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ.
+ Cậu nhìn lên tán lá. Lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé oà khóc. Cây xoà cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ vẻ.
+ Trái cây thơm ngon ờ vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.
Kết bài: Câu chuyện đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 4
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể: Truyện cổ tích Tấm Cám
b) Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện Tấm Cám theo trình tự hợp lí:
c) Kết bài: Tình cảm, cảm xúc của em dành cho câu chuyện mà mình vừa kể lại
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 5
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể lại: Cây tre trăm đốt
b) Thân bài: Kể lại các sự việc chính trong câu chuyện theo trình tự hợp lí:
c) Kết bài: Nêu tình cảm, cảm xúc của em dành cho câu chuyện mà mình vừa kể lại
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 6
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể lại: truyện cổ tích Cô bé Lọ Lem.
b) Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện Cô bé Lọ Lem theo trình tự thời gian:
c) Kết bài: Nêu suy nghĩ, tình cảm của em dành cho câu chuyện cổ tích vừa kể.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 7
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể: Câu chuyện Cây khế
b) Thân bài: Kể lại nội dung câu chuyện Cây khế theo trình tự thời gian
c) Kết bài: Suy nghĩ của em về ý nghĩa của câu chuyện cổ tích Cây khế.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 8
a) Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em muốn kể lại: Thạch Sanh
b) Thân bài: Kể lại nội dung câu chuyện cổ tích Thạch Sanh:
c) Kết bài:
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 9
1. Mở bài:
Trong rất nhiều câu chuyện mà chúng ta đã nghe, có một câu chuyện mang tên "Sự tích cây vú sữa" đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất trong lòng em.
2. Thân bài:
- Câu chuyện kể về một cậu bé ham chơi. Một ngày nọ, bị mẹ mắng, cậu bé tức giận vùng vằng rời đi, không suy nghĩ đến mẹ ở nhà đang lo lắng về mình. Cậu bé lang thang khắp nơi, không biết mình đã đi được bao lâu. Khi đói và lạnh, cậu bị đánh bởi một nhóm trẻ lớn hơn. Lúc này, cậu mới nhớ đến mẹ và quyết định trở về nhà.
- Tới nhà, cậu nhận ra cảnh vật vẫn giống như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu gọi mẹ và ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kỳ lạ thay, cây xanh bắt đầu run rẩy và nở ra những đài hoa trắng như mây từ các cành lá của mình. Quả của cây cũng nhanh chóng lớn và chín mọng. Một quả rơi vào lòng cậu, và khi cậu chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt ngào như sữa mẹ.
- Cậu nhìn lên tán cây và nhận ra rằng mặt lá cây có một mặt xanh bóng, mặt kia lại đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ đợi con. Cậu bé cảm động đến rơi lệ, và cây ôm cậu như tay mẹ âu yếm vỗ về.
- Trái cây thơm ngon từ cây vú sữa đã trở thành một phần không thể thiếu trong vườn nhà cậu, và mọi người đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.
3. Kết bài:
Câu chuyện "Sự tích cây vú sữa" đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Đó là một câu chuyện đầy ý nghĩa và cảm động, nhắc nhở chúng ta luôn biết trân trọng và quý trọng những điều tốt đẹp nhất mà cha mẹ dành cho chúng ta.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 10
1. Mở bài:
Trong những câu chuyện mà em từng nghe, có một câu chuyện mà em yêu thích hơn cả, đó là câu chuyện về Sự tích cây vú sữa.
2. Thân bài:
- Câu chuyện kể về một cậu bé ham chơi, luôn mải mê vui đùa mà quên đi sự lo lắng của mẹ. Một ngày, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ nhà đi lang thang khắp nơi. Đến khi đói rét và gặp phải những nguy hiểm, cậu mới nhận ra giá trị của gia đình và nghĩ đến mẹ.
- Khi trở về nhà, cậu không thấy mẹ đâu, chỉ thấy một cây xanh trong vườn. Cậu gọi tên mẹ và khóc, ôm cây xanh đó. Kì lạ thay, cây bỗng run rẩy và trổ hoa, trái. Một quả rơi vào lòng cậu, và khi cậu chạm vào, dòng sữa trắng trào ra, ngọt ngào như sữa mẹ.
Cây xanh kì diệu đó ôm cậu như mẹ âu yếm vỗ về. Trái cây thơm ngon này đã trở thành nguồn sống cho cả làng, được gieo trồng khắp nơi và gọi là cây vú sữa.
3. Kết bài:
Câu chuyện về cây vú sữa đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Nó nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình và giá trị của sự hiếu thảo. Chúng ta cần luôn biết ơn và quý trọng những người thân yêu xung quanh, bởi họ là nguồn gốc của sự sống và hạnh phúc của chúng ta.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 11
1. Mở bài:
Để có một đất nước yên bình, không chiến tranh, không bộ đội và các chiến sĩ dũng cảm, các vị anh hùng của dân tộc đã phải hy sinh máu và tính mạng để bảo vệ tự do và sự an toàn cho mọi người. Trong số những anh hùng đó, có những trẻ nhỏ, có những thiếu niên, và cũng có những người trưởng thành. Trong số những người anh hùng nhỏ tuổi đó, có một người mà em luôn ngưỡng mộ, đó chính là anh Kim Đồng.
2. Thân bài:
- Một lần, sau khi hoàn thành nhiệm vụ dẫn cán bộ vào căn cứ, Kim Đồng đang trên đường trở về nhà thì nghe thấy có tiếng động lạ phát ra từ rừng sâu. Không ngần ngại, anh đã nhanh chóng rủ Cao Sơn để tìm cách báo động cho các cán bộ đang ở xóm gần đó.
- Kim Đồng quan sát và phát hiện bọn lính địch đang lợi dụng sương mù để phục kích trên đường vào xóm và chuẩn bị bắt giữ những người dân vô tội. Không chần chừ, Kim Đồng ra quyết định và bảo Cao Sơn lùi về phía sau, sau đó chạy về báo cáo.
- Một khi đảm bảo an toàn, Kim Đồng đã dùng kỹ năng và sự quan sát để vượt qua suối và lên phía rừng. Hành động của anh đã làm lộ bọn lính địch, khiến chúng phải phát đạn và hô lên lệnh "Đứng lại!"
- Nhờ tiếng súng báo động đó, các đồng chí cán bộ ở gần đó đã kịp thời tránh thoát lên rừng. Tuy nhiên, Kim Đồng đã hy sinh tại chỗ, trên bờ suối Lê-nin, để bảo vệ an toàn cho đồng đội và người dân.
=> Em rất ngưỡng mộ anh Kim Đồng, người đã hy sinh tính mạng mình vì cách mạng, vì đồng bào. Hành động cao cả và hy sinh đó đã trở thành tấm gương sáng giữa cuộc đời, là nguồn động viên không ngừng cho các Đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
3. Kết bài:
Anh Kim Đồng là một người anh hùng thực sự, người đã hy sinh bản thân để bảo vệ sự an toàn và tự do cho đất nước và nhân dân. Tên anh sẽ mãi mãi được ghi nhớ và tôn vinh trong lòng mọi người, là biểu tượng vĩ đại của tinh thần đoàn kết và hy sinh cho cộng đồng.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 12
1. Mở bài:
Trong các câu chuyện mà em từng nghe, có một câu chuyện mà em yêu thích hơn cả, đó là câu chuyện về Sự tích cây vú sữa.
2. Thân bài:
- Câu chuyện bắt đầu với một cậu bé ham chơi, lúc nào cũng nghịch ngợm và không chịu nghe lời mẹ. Một ngày, sau một lần bị mẹ mắng, cậu bé tức giận và bỏ nhà đi lang thang. Trên đường đi, cậu gặp nhiều khó khăn và cảm thấy đói rét, nhưng vẫn không nghĩ đến mẹ ở nhà mỏi mắt lo lắng.
- Khi cậu quay trở về nhà, không thấy mẹ đâu, chỉ thấy một cây xanh trong vườn. Cậu gọi tên mẹ và khóc, ôm cây xanh đó. Kì lạ thay, cây bỗng run rẩy và trổ hoa, trái. Một quả rơi vào lòng cậu, và khi cậu chạm vào, dòng sữa trắng trào ra, ngọt ngào như sữa mẹ.
Cậu nhìn lên tán lá của cây, một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé không thể kìm nén được cảm xúc và bắt đầu khóc. Cây xoà cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về.
Trái cây thơm ngon này đã trở thành nguồn sống cho cả làng, được gieo trồng khắp nơi và gọi là cây vú sữa.
3. Kết bài:
Câu chuyện về cây vú sữa đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Nó nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình và giá trị của sự hiếu thảo. Chúng ta cần luôn biết ơn và quý trọng những người thân yêu xung quanh, bởi họ là nguồn gốc của sự sống và hạnh phúc của chúng ta.
Dàn ý cho bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 13
1/ Mở bài:
Trong những câu chuyện mà em đã từng nghe, có một câu chuyện mang tên "Sự tích cây vú sữa" đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng em.
2/ Thân bài:
- Câu chuyện bắt đầu với một cậu bé ham chơi. Một ngày nọ, sau khi bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi mà không mảy may suy nghĩ đến mẹ ở nhà, người đang mỏi mắt chờ mong. Lang thang khắp nơi, cậu không biết mình đã đi được bao lâu. Đến khi đói và rét, cậu lại bị trẻ lớn hơn đánh, mới nhớ đến mẹ và quyết định trở về nhà.
- Tới nhà, cảnh vật vẫn yên bình như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu gọi mẹ và ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kỳ lạ thay, cây xanh bắt đầu run rẩy và nở ra những đài hoa trắng như mây từ các cành lá của mình. Quả của cây cũng nhanh chóng lớn và chín mọng. Một quả rơi vào lòng cậu, và khi cậu chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt ngào như sữa mẹ.
- Cậu nhìn lên tán cây và nhận ra rằng mặt lá cây có một mặt xanh bóng, mặt kia lại đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ đợi con. Cậu bé cảm động đến rơi lệ, và cây ôm cậu như tay mẹ âu yếm vỗ về.
- Trái cây thơm ngon từ cây vú sữa đã trở thành một phần không thể thiếu trong vườn nhà cậu, và mọi người đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.
3. Kết bài:
Câu chuyện "Sự tích cây vú sữa" đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Đó là một câu chuyện đầy ý nghĩa, nhắc nhở chúng ta luôn biết trân trọng và quý trọng những điều tốt đẹp nhất mà cha mẹ dành cho chúng ta.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 1
Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở dưới biển Đông. Thần mình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu Cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng còn bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạch Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào).
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 2
Câu chuyện về trí thông minh, khả năng tìm tòi, và sáng tạo của con người luôn là nguồn cảm hứng tuyệt vời, tiếp thêm cho ta động lực học để phấn đấu học tập. Trong đó em thích nhất là câu chuyện Nhà phát minh 6 tuổi.
Ma-ri-a sinh ra trong một gia đình sáu đời có người là giáo sư đại học. Cô bé rất thích quan sát. Hồi cô 6 tuổi, có lần, gia đình tổ chức bữa tiệc. Cô bé nhận thấy một điều lạ: Mỗi lần gia nhân bưng trà lên, tách đựng trà thoạt đầu trượt trong đĩa. Nhưng khi nước trà rót ra đĩa thì những tách trà kia bỗng nhiên dừng chuyển động, cứ như bị cái gì đó ngăn lại. Ma-ri-a nghĩ mãi mà vẫn không hiểu vì sao. Thế là cô lặng lẽ rời khỏi phòng khách.
Cô bé vào bếp, lấy một bộ đồ trà ra và tự mình làm đi làm lại thí nghiệm. Cuối cùng cô cũng hiểu ra: Khi giữa tách trà và đĩa có một chút nước thì tách trà sẽ đứng yên. Lúc ấy, Ma-ri-a chợt thấy cha đang vào bếp. Cô liền nói với cha phát hiện của mình. Cha cô hết sức vui mừng. Ông nâng bổng cô con gái nhỏ lên vai, đi thẳng ra phòng khách, hân hoan nói: “Đây sẽ là giáo sư đời thứ bảy của gia tộc tôi!”.
Về sau, Ma-ri-a trở thành giáo sư nhiều trường đại học danh tiếng của Mỹ. Năm 1963, bà vinh dự được tặng Giải thưởng Nô-ben Vật lí.
Sáng tạo là khả năng đặc biệt của con người. Câu chuyện tri Nhà phát minh 6 tuổi khiến em nhận ra rằng khả năng tìm tòi, sáng tạo của con người có thể tạo nên nhiều điều thật tuyệt diệu.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 3
Người Việt Nam ta từ xưa đã nổi tiếng thông minh, sáng tạo. Vì vậy, trong dân gian lưu truyền rất nhiều những câu chuyện hay về trí tuệ của con người. Trong đó, em đặc biệt ấn tượng với câu chuyện Em bé thông minh.
Câu chuyện kể về một cậu bé tuy còn nhỏ, lại chưa đến trường hay học qua lớp học nào, nhưng lại có trí tuệ và sự hiểu biết vượt qua người thường. Trí thông minh của cậu bé được thể hiện qua những thử thách mà cậu gặp được và cách giải quyết nó. Thử thách đầu tiên của cậu là câu đố của viên quan tình cờ đi ngang qua làng. Ông ta theo lệnh nhà vua, cưỡi ngựa đi khắp cả nước để tìm người tài. Khi đi qua làng của cậu bé, thấy một đứa trẻ trông có vẻ nhanh nhẹn, nên đã dừng lại để thử tài. Viên quan đưa ra một câu đố rất hóc búa, rằng tính xem một ngày ngựa của ông ta đi được bao nhiêu bước. Nhưng thật bất ngờ, câu bé lập tức hỏi ngược lại viên quan: Nếu ông ấy tính được một ngày trâu của cha cậu cày bao nhiêu đường, thì cậu sẽ nói cho ông ấy biết số bước đi của chú ngựa. Nghe vậy, viên quan liền nhận ra cậu bé này rất thông minh, nên vội vàng trở về kinh thành báo cáo với nhà vua.
Nghe chuyện, nhà vua vẫn chưa tin về tài năng của cậu bé, nên đã nghĩ ra thêm một thử thách cho cậu. Ông ban cho làng cậu ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, yêu cầu làng sau một năm phải làm cho trâu sinh ra trâu con rồi nộp cho nhà vua, nếu không sẽ bị trị tội. Điều này làm cho cả làng sợ hãi và bất lực vô cùng. Nhưng cậu bé thì lại rất bình tĩnh. Cậu nói với dân làng hãy giết thịt hai con trâu, đồ xôi bằng hai thúng gạo nếp để mở tiệc. Phần còn lại thì bán lấy tiền làm lộ phí cho cha con cậu lên kinh gặp nhà vua. Khi đến nơi, cậu đứng trước cửa cung vua, gào khóc ầm ĩ, khiến nhà vua rất khó hiệu, bèn gọi cậu vào diện kiến. Trước mặt nhà vua, cậu bé khóc lóc đòi nhà vua bắt cha phải sinh em bé để chơi cùng với mình. Tuy nhiên, mẹ cậu đã mất từ lâu, mà cha cậu lại là đàn ông, làm sao mà sinh được? Khi nhà vua giải thích cho cậu bé hiểu điều đó, thì cậu liền nhân cơ hội mà hỏi ngược lại ông rằng: Tại sao lại yêu cầu làng cậu nuôi cho ba con trâu đực sinh ra nghé con chứ? Vì điều đó cũng vô lý như ép cha cậu sinh em bé mà thôi. Điều này khiến nhà vua hiểu ra, đứa trẻ trước mặt chính là người tài mà mình đang thử thách. Thế là, ông liền ra lệnh đưa cha con cậu bé vào cung vua để tiện hỏi chuyện. Để chắc chắn hơn, ông đã thử tài cậu bé thêm lần nữa. Bằng cách yêu cầu cậu làm thịt con chim sẻ nhỏ thành một mâm cỗ thịnh soạn. Người hầu vừa truyền chỉ, cậu bé đã lấy ngay từ trong túi một cái kim khâu, đưa cho anh ta, và nói rằng hãy nhờ nhà vua mài cây kim đó thành chiếc dao sắc để làm thịt chim sẻ. Lần này thì nhà vua thật sự thán phục tài trí của cậu bé rồi.
Mấy hôm sau, nước ta tiếp đón đoàn sứ thần nước bên sang thăm. Họ đem sang một câu đố rất khó, để kiểm tra xem nước ta có người tài hay không. Vì vậy, cả triều đình vô cùng căng thẳng. Từ các quan lớn đến học sinh trong trường đều không ai tìm ra cách nào xâu sợi chỉ qua thịt ốc mà vẫn còn nguyên mình ốc cả. Đúng lúc đang bối rối, nhà vua nhớ ra cậu bé thông minh nọ đang ở trong cung, nên đã sai lính đến hỏi cậu bé. Câu đố khó đến vậy, mà vừa nghe, cậu bé đã giải được ngay, thậm chí còn hát thành một bài ca dao nữa chứ. Sau sự kiện đó, cả triều đình đều khâm phục tài trí của cậu bé. Nhà vua thì phong cậu làm trạng nguyên, và xây dinh thự cạnh cung vua để tiện hỏi thăm việc nước.
Câu chuyện Em bé thông minh được sáng tác để ngợi ca và khẳng định sức mạnh của trí tuệ dân gian trước trí tuệ cung đình. Từ đó, giúp chúng ta hiểu được rằng, kiến thức có thể có ở mọi nơi, không chỉ có ở trong sách vở. Vì vậy, cùng với học ở lớp, chúng ta cần học ở cuộc sống xung quanh mình.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 4
Mỗi câu chuyện đều mang đến cho ta một bài học quý giá. Đó có thể là bài học tri thức bổ ích, cũng có thể là bài học đạo lí làm người. Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng được nghe câu chuyện “Điều ước của vua Mi - đát”. Câu chuyện đã cho em một bài học về sự tham lam của con người.
Câu chuyện kể rằng: thuở xa xưa, tại đất nước Hi Lạp xinh đẹp có một vị vua nọ nổi tiếng tham lam tên là Mi - đát. Thần Đi - ô - ni - dốt biết được lòng tham không đáy của vua Mi - đát nên đã cố ý xuất hiện và cho nhà vua một bài học. Một ngày kia, khi vua Mi - đát đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì thần Đi - ô - ni - dốt chợt hiện ra, phán:
- Ta ban cho ngươi một điều ước, điều ước sẽ hiệu nghiệm ngay.
Nghe vậy nhà vua vô cùng mừng rỡ. Vốn tính tham lam, vua Mi - đát không ngần ngại mà ước ngay:
- Xin thần cho mọi vật tôi chạm vào đều biến thành vàng!
Thần giữ lời hứa và ban cho Mi - đát điều ước tham lam ấy rồi biến mất. Ngay sau đó, vua Mi - đát nôn nóng muốn thử sự hiệu nghiệm của điều ước nên bẻ một cành sồi trên cây gần đó. Vua vừa chạm tay vào, cành cây lập tức biến thành vàng. Ông ta lượm một quả táo, tức thì quả táo cũng biến thành vàng nốt. Mi - đát sung sướng nghĩ rằng mình là người hạnh phúc nhất, giàu có nhất trên thế gian. Không ai có thể giàu hơn mình nữa.
Đến bữa ăn, nhà vua vẫn giữ tâm trạng vui vẻ ngồi vào bàn tiệc, chờ người hầu dọn thức ăn lên. Thế nhưng bao nhiêu là cao lương mĩ vị, bát đũa, cốc chén... trên bàn ăn đều ngay lập tức biến thành vàng khi ông ta chạm tay tới. Không một thứ nào có thể ăn được nữa. Bụng đói cồn cào, bấy giờ vua Mi - đát mới hiểu được mình vừa ước một điều ước khủng khiếp như thế nào. Trong cơn đói hành hạ và nỗi sợ hãi,vua vội vàng run run quỳ xuống khấn xin thần Đi - ô - ni - dốt:
- Xin thần thu lại điều ước để cho tôi được sống.
Một lát sau, thần Đi - ô - ni - dốt mới hiện ra, nhìn vua Mi - đát và nghiêm nghị phán:
- Nhà ngươi hãy tới sông Pác - tôn, nhúng mình vào dòng nước, phép màu sẽ biến mất. Lòng tham của ngươi cũng sẽ được rửa sạch.
Vua Mi - đát nhanh chóng làm theo lời thần. Quả nhiên, sau khi ngâm mình xuống dòng sông thì phép màu biến mất. Nhà vua không còn bản tính tham lam như trước nữa.
“Điều ước của vua Mi - đát” vừa là một câu chuyện hài hước, vừa là một câu chuyện đầy ý nghĩa. Qua câu chuyện, em hiểu ra được nhiều điều. Không nên tham lam, tham lam sẽ không đem lại cho chúng ta hạnh phúc. Ngược lại tham lam còn đem đến những hậu quả khó lường.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 5
Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần có sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.
Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ cung.
Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:
- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?
Lạc Long Quân nói:
- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.
Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:
- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.
Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:
- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.
Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:
- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.
Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:
- Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.
Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.
Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 6
Chuyện kể về một cậu bé ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, chẳng nghĩ đến mẹ ở nhà mỏi mắt chờ mong. Không biết cậu đã đi bao lâu. Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ, liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc. Kì lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng mịn, xanh óng ánh, rồi chín. Một quả rơi vào lòng cậu. Môi cậu vừa chạm vào, một dòng sữa trắng trào ra, ngọt thơm như sữa mẹ. Cậu nhìn lên tán lá. Lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé oà khóc. Cây xoà cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về. Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây vú sữa.
Câu chuyện trên đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về sự biết ơn công lao sinh thành của cha mẹ. Là một người con, chúng ta nên thấu hiểu sự yêu thương, hy sinh của cha mẹ. Vì thế hãy cố gắng trở thành một người con ngoan các bạn nhé!
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 7
Marie Curie là nhà vật lý học, nhà hóa học Pháp gốc Ba Lan, nổi tiếng toàn thế giới về việc nghiên cứu chất phóng xạ. Câu chuyện về cuộc đời, trí thông minh, cùng nỗ lực tìm tòi, sáng tạo trong khoa học của bà luôn truyền cảm hững mạnh mẽ cho em.
Marie Curie là là người phụ nữ đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới hai lần được nhận giải thưởng Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, được suy tôn là nữ bác học xuất sắc nhất trên toàn thế giới. Cuộc đời của Marie Curie là một câu chuyện thần kỳ, với rất nhiều sự tích vĩ đại.
Ngay từ nhỏ, Marie đã bộc lộ tư chất thông minh hơn người, luôn tìm tòi, vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong thế giới khoa học nhiều bí ẩn, lý thú. Ở Ba Lan thời đó, các trường đại học không nhận phụ nữ, Marie đành theo học "trường đại học lưu động" do các trí thức yêu nước bí mật thành lập. Nữ sinh Marie phải làm gia sư cho nhà điền chủ giàu có trong vùng để có tiền trang trải việc học. Sau 5 năm kiên trì làm gia sư, nhờ sự giúp đỡ của chị gái cả, khi 24 tuổi Marie mới được sang học Đại học danh tiếng Sorbone ở Paris.
Hai năm sau khi kết hôn, Marie sinh con gái đầu lòng và chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ. Bà chọn đề tài nghiên cứu là hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani.
Hai vợ chồng Marie và Pierre phải chạy vạy mãi mới mượn được một gian hầm ẩm thấp làm phòng thí nghiệm và bắt đầu nghiên cứu với hàng ngàn phép tính toán và đo đạc.
Phải đến gần 10 năm sau, vợ chồng Curie phát hiện một nguyên tố phóng xạ có cường độ phóng xạ mạnh gấp 400 lần so với Urani nguyên chất. Nguyên tố đó được đặt tên là Poloni theo tên của quê hương Ba Lan của bà. Ít lâu sau, họ tiếp tục phát hiện ra nguyên tố có cường độ phóng xạ cực mạnh là Radi. Quá trình tinh luyện Radi từ quặng Pêchbơlăng rất vất vả, tốn kém nên vợ chồng nhà bác học đã quyết tâm tìm cách sáng chế.
Sau 4 năm trời đằng đẵng với hàng ngàn thí nghiệm, họ không có tiền, cũng không có người nào giúp đỡ. Tuy nhiên, đó là "thời kỳ anh dũng và cũng hạnh phúc nhất trong cuộc sống của hai vợ chồng tôi", Marie bồi hồi nhớ lại.
Cuối cùng, họ cũng đã luyện thành công chất Radi. Với thành tựu này, ông bà Curie đã được Viện Khoa học Hoàng gia London trao tặng Huy chương Devy và Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao tặng giải Nobel Vật lý.
Nữ bác học lừng danh mọi thời đại này chứng minh một người thành công không cần đến phòng thí nghiệm hiện đại, phòng thu lớn hay những trang thiết bị tối tân. Tất cả những gì họ cần là sự tò mò trước những điều mới lạ, một mục đích rõ ràng, sự cống hiến không ngừng nghỉ và tốt hơn hết, có một người đồng hành cùng hướng đến những điều tốt đẹp nhất trong công việc.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 8
Trong những câu chuyện đã học, em thích nhất là câu chuyện Cây khế.
Cây khế là một câu chuyện cổ tích của nước ta mang trong mình bài học ý nghĩa. Chuyện kể về hai anh em ruột nhưng có tính cách trái ngược nhau. Người anh tham lam, lười biếng bao nhiêu thì người em hiền lành, chăm chỉ bấy nhiêu.
Sau khi cha mất, người anh chia cho em mình một cây khế già và một túp lều tranh rồi lấy hết gia sản. Người em ở lều tranh chăm chỉ làm lụng mỗi ngày và chăm sóc cây khế. Năm đó khế ra trái rất sai và ngọt nên có chim lạ đến ăn. Thấy người em than thở vất vả, chim hứa ăn khế sẽ trả vàng. Và chở người em ra đảo lấy vàng về. Nhờ đó, người em trở nên giàu sang. Biết chuyện, người anh xin đổi gia tài lấy cây khế của em, rồi bắt chước em than thở với chim. Tuy nhiên do tham lam, hắn may cái túi lớn gấp bốn lần chim dặn và lấy quá nhiều vàng khiến chim không chở nổi. Trên đường về lại gặp bão lớn, thế là hắn cùng số vàng đó rơi xuống biển sâu.
Câu chuyện đã dạy cho em bài học về lòng trung thực và sự chăm chỉ trong cuộc sống. Nếu có tính tham lam, gian dối thì sẽ có kết thúc bi kịch như người anh mà thôi.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 9
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Người anh tham lam, khi chia gia tài liền chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn cha mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây khế ngọt. Người em không chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho mảnh vườn và cây khế.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà người em ra quả rất sai. Từng chùm quả chín vàng như nặng lúc lỉu trên cành. Người em nhìn cây khế mà vui mừng, tính đem bán để lấy tiền mua gạo.
Một hôm, có con chim lạ từ đâu bay đến ăn khế. Thấy cây khế bị chim ăn xơ xác người em ôm mặt khóc. Chim bỗng cất lời: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người em nghe chim nói tiếng người lấy làm kinh ngạc, bèn về kể cho vợ nghe. Hai vợ chồng may một chiếc túi vừa đúng ba gang, chờ chim đến. Hôm sau, chim bay đến, bảo người em ngồi lên lòng mình. Chim bay rất xa, đến một hòn đảo đầy vàng bạc giữa biển khơi bao la. Người em lấy vàng bỏ đầy túi ba gang rồi lại theo chim trở về nhà. Từ đó, người em trở nên giàu có.
Người anh nghe thấy em giàu liền sang chơi và lân la hỏi chuyện. Em không giấu giếm kể lại cho anh tường tận mọi điều. Người anh nằng nặc đòi đổi nhà cửa ruộng vườn của mình lấy mảnh vườn và cây khế, người em dù không muốn nhưng thấy anh cương quyết quá cũng đành đổi cho anh.
Mùa năm sau, cây khế lại sai trĩu những quả vàng chín mọng, người anh khấp khởi mừng thầm, ngày ngày ngóng chờ con chim lạ tới. Thế rồi một hôm, chim tới ăn khế, người anh giả vờ khóc lóc, chim cũng nói: “Ăn một quả trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng”
Người anh nghe vậy, mừng như mở cờ trong bụng, vội vã cùng vợ may một chiếc túi to thật là to. Hôm sau chim tới đưa người anh đi lấy vàng ở hòn đảo xa lạ nọ. Nhìn thấy vàng bạc châu báu trên đảo, người anh vội vàng nhét đầy túi to, lại còn giắt khắp người. Khi người anh leo lên lưng chim, chim phải vỗ cánh mấy lần mới bay lên được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Chim bảo người anh vứt bớt vàng bạc đi nhưng anh ta không chịu. Chim nặng quá, nghiêng cánh, thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi xuống biển sâu, không bao giờ trở về được nữa.
Bài văn Kể lại một câu chuyện - mẫu 10
Trong rất nhiều truyện cổ tích đã đọc, em thích nhất là "Sự tích chú Cuội". Câu chuyện không chỉ nhắc đến nguồn gốc của chú Cuội mà còn đem đến cho em nhiều bài học ý nghĩa.
Truyện kể về chàng tiều phu tên Cuội. Một lần vào rừng, anh ta thấy cảnh đám hổ con đã chết được hổ mẹ mớm cho loại lá kì lạ. Từ đó, phát hiện ra loài cây có khả năng "cải tử hoàn sinh". Vì tò mò, Cuội đã mang cây về trồng và giúp đỡ được rất nhiều người. Có hôm, Cuội đi trên đường và phát hiện ra một con chó đáng thương nằm chết bên đường. Thương hại, anh ta lấy lá cây cứu sống nó rồi mang về nhà nuôi. Chú chó cũng biết ơn ân nhân, luôn quấn quýt chủ không rời nửa bước. Một lần, Cuội cứu sống con gái phú ông. Cô gái tỉnh dậy thì vô cùng biết ơn, nguyện theo Cuội về nhà. Phú ông cũng rất vừa lòng, quyết định gả luôn con gái cho anh. Thế là Cuội có vợ. Hai vợ chồng sống với nhau vô cùng hòa thuận, hạnh phúc.
Lúc bấy giờ, trong làng có một bọn cướp chuyên. Chúng biết Cuội có thể hồi sinh người chết, đem lòng ghen ghét, nhân lúc anh ta đi vắng đã giết vợ Cuội và quẳng bộ lòng đi. Chàng Cuội trở về thấy vợ chết thì đau khổ vô cùng, cố hết sức lấy lá cây chữa trị. Thế nhưng do không còn bộ lòng, Cuộc không thể nào hồi sinh vợ được. Chú chó trung thành thương chủ, nguyện dâng hiến bộ lòng của mình. Nhờ vậy mà vợ Cuội sống lại. Sau đó, Cuội đắp một bộ lòng bằng đất cho chú chó và thành công hồi sinh nó. Cả gia đình lại vui vẻ, thuận hòa chung sống.
Tuy nhiên, vợ Cuội sau khi sống lại lại trở nên hay quên. Cuội lúc nào cũng nhắc vợ phải tưới cây bằng nước giếng trong. Thế nhưng dặn rồi nàng ta lại quên luôn. Trong một lần Cuội đi vắng, người vợ đã tưới nước bẩn cho cây thần. Cái cây cứ vậy bật gốc, dần bay lên trời. Đúng lúc đó thì Cuội trở về. Do tiếc cây, anh ta đã túm lấy rễ, cố kéo cái cây về lại nhưng vô ích. Thế là cả người cả cây bay lên cung trăng.
Qua "Sự tích chú Cuội", em đã nhận ra rằng sự sống của con người là có hạn. Thế nên chúng ta cần biết trân trọng hiện tại, đối đãi tử tế với tất cả mọi người. Có như vậy, cuộc sống mới trở nên có ý nghĩa