Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chiều sông Thương hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương
Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều sông Thương của Hữu Thỉnh.
Dàn ý Phân tích bài thơ Chiều sông Thương
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu khái quát cảm xúc về bài thơ.
2. Thân bài:
a. Phân tích nội dung bài thơ:
* Vẻ đẹp của sông Thương khi chiều buông:
- Cảnh vật bên sông: hoa Quan họ nở tím bên bờ.
- Dòng nước: vẫn chảy đôi dòng.
- Trên sông: "cánh buồm đang hát lên".
- Bầu trời cao xa: "đám mây trên Việt Yên/ rủ bóng về Bố Hạ".
- Cảnh vật gần bên dòng sông: ruộng lúa, lòng mương, nương mạ, lớp bùn, nước phù sa,...
-> Dòng sông Thương còn gửi gắm những ước mơ về một mùa màng bội thu, làm cho quê hương thêm ấm no "cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng/ những gì ta gửi gắm".
* Tình cảm của tác giả về sông Thương, về quan họ quê hương:
- Cảm xúc trìu mến khi ngắm nhìn những cảnh vật quen thuộc bên dòng sông Thương.
- Từ sự xúc động, say đắm trước vẻ đẹp ấy, tác giả đã hát lên "ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc".
-> Tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn thường trực trong tâm trí và trái tim nhà thơ.
b. Phân tích nghệ thuật bài thơ
- Hình thức viết độc đáo: không viết hoa chữ cái đầu dòng.
- Thể thơ năm chữ ngắn gọn.
- Hình ảnh thơ gần gũi, thân quen.
- Lời thơ dạt dào cảm xúc.
- Các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, điệp ngữ.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị bài thơ.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 1
Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta cảm nhận được sự sâu lắng, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ "Chiều sông Thương" với hình ảnh gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết đã mang đến cho bạn đọc những rung động sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương cùng tình cảm chân thành ở nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật trữ tình:
"Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa Quan họ
nở tím bên bờ sông"
Buổi chiều thu man mác buồn như bao trùm toàn bộ cảnh vật. Không khí lắng đọng của tiết trời ấy đã níu kéo bước chân người xa quê "vẫn chưa về tới ngõ". Trong giây phút bắt gặp hình ảnh thân quen "hoa Quan họ" bung nở sắc tím bên bờ sông, nhân vật trữ tình lại đưa mắt ngắm nhìn toàn bộ cảnh sắc:
"nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên"
Với biện pháp điệp cấu trúc "nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái" đã nhấn mạnh cảnh vật quê hương vẫn như xưa, nguyên vẹn không thay đổi. Nổi bật trên nền không gian sông nước rộng lớn mênh mông là hình ảnh những con thuyền. Nhà thơ thật tinh tế khi miêu tả trạng thái tưởng chừng "tĩnh lặng" nhưng lại "động" của chúng. Từng cánh buồm được nhân hóa "đang hát lên" không chỉ khắc họa trạng thái "no căng gió" mà còn diễn tả được niềm vui ở con người qua lời ca, khúc hát.
Bức tranh thiên nhiên càng thêm mở rộng nhờ những nét vẽ tài hoa:
"đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh"
Việc lựa chọn và sử dụng từ đã cho ta thấy được sự liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa kia dần trở nên mềm mại, có thể "rủ bóng về Bố Hạ". Hạ tầm mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh "lúa cúi mình", "ruộng bời". Những cây lúa nặng trĩu hạt đang rung rinh từng ré như báo hiệu một mùa màng bội thu. Cánh đồng bao la, bát ngát bên dòng sông Thương đang tắm mình trong làn gió, gợi từng đợt sóng "xanh". Khung cảnh thiên nhiên thật yên bình, hòa hợp làm sao!
Theo dòng chảy của con sông quê, nhà thơ thấy được:
"nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang"
Có thể thấy, mỗi sự vật đều vận hành theo một cách hết sức riêng biệt. "Nước màu" hay còn gọi là nước phù sa vẫn "chảy ngoan" vào "lòng mương", mang theo dưỡng chất cung cấp cho ruộng đồng. Xa xa kia, mấy đám mạ mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh mướt non tơ. Lớp bùn đất cũng được cày xới cẩn thận, trở nên láng mướt, mịn màng. Tất cả đang tiếp tục sinh sôi, nảy nở sự sống từng ngày từng ngày như báo hiệu một mùa màng bội thu. Phải chăng, đó cũng là mong ước của nhà thơ và người dân xứ Kinh Bắc "cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng". Chứng kiến sự giàu có, trù phú nơi quê nhà, nhà thơ không khỏi hạnh phúc, say đắm. Thửa ruộng nào cũng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo "sắp vàng hoe bốn bên". Niềm vui sướng tràn ngập, lan tỏa khắp ngóc ngách chốn thôn quê. Lắng nghe dòng chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, nâng niu món quà quý giá mà con sông ban tặng tới người lao động "hạt phù sa tất quen/ sao mà như cổ tích". Hạt phù sa kì diệu như phép màu cổ tích, làm cho đồng ruộng tươi tốt, màu mỡ, mang đến sự thịnh vượng, êm ấm cho quê nhà.
Từ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng khi ngắm nhìn cảnh sắc bên bờ sông Thương, nhà thơ đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp bình yên ấy. Sự xúc động, say đắm được gói gọn trong hai câu thơ "ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc". Điệp từ "ôi" kết hợp với các từ "màu nâu", "xanh biếc" cũng cho thấy tình cảm da diết của tác giả. Dù con sông có màu nâu của phù sa hay trong veo "xanh biếc" thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở "dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai".
Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, lời thơ chất chứa cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân hóa "sông muốn nói", so sánh "mắt dài như dao cau" đã khắc họa sinh động bức tranh sông Thương trong buổi chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ cái đầu dòng từ câu thơ thứ hai làm bài thơ giống như một câu chuyện kể đầy tâm tình của người xa quê. Từ đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn in sâu trong tâm trí và trái tim nhà thơ.
Bài thơ "Chiều sông Thương" không chỉ là nét phác họa về bức tranh đồng quê yên ả nơi đồng bằng Bắc Bộ mà còn chan chứa tình cảm yêu mến, gắn bó của Hữu Thỉnh. Mong rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 2
Nhà thơ Hữu Thỉnh được biết đến như một trong những “cây đại thụ” của nền văn học Việt Nam thời hiện đại. Với giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm cùng sự giản dị mà không kém phần sâu sắc, ông đã đem đến cho kho tàng thi ca nước nhà vô số tác phẩm giàu giá trị. Trong đó, không thể không kể đến bài thơ “Chiều sông Thương”.
“Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
…
cánh buồm đang hát lên”
Là người đi xa trở về trong một chiều thu, thế nhưng vẻ đẹp của dòng sông đã níu chân tác giả, khiến ông đi mãi “vẫn chưa về tới ngõ”. Hai câu thơ “nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái” gợi thật nhiều liên tưởng về một buổi chiều muộn. Khi ánh mặt trời dần buông xuống dưới chân núi, vầng sáng xung quanh biến thành hình lưỡi liềm chiếu xuống dòng sông xao động nhẹ nhàng. Ngoài ra, trên mặt nước còn có những bông hoa Quan họ tô điểm, “nở tím bên sông”, thấp thoáng có cánh buồm phía xa xa. Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa “hoa” - “dùng dằng”, “sông muốn nói”, “cánh buồm đang hát lên” để khiến câu thơ thêm phần sinh động, biến dòng sông trở thành một thực thể có hồn, có bè bạn, có tình cảm. Với hai khổ thơ đầu, tác giả đã diễn tả buổi chiều thu bên dòng sông Kinh Bắc thật nhẹ nhàng, êm đềm, đầy thơ mộng.
“đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh”
Phóng tầm mắt ra xa, tác giả thấy những đám mây đang nối đuôi nhau từ Việt Yên về Bố Hạ. Hai địa danh của vùng đất Bắc Giang được nhắc đến thể hiện sự gần gũi, gắn bó quen thuộc của nhà thơ với vùng đất này. Hai bên bờ sông, những cây lúa đang “cúi mình giấu quả” báo hiệu một vụ mùa bội thu sắp tới gần. Cả đồng ruộng đều tràn đầy sức sống, tươi non mơn mởn được cơn gió xinh lướt qua rung rinh như cơn sóng màu xanh.
Để khắc sâu thêm vẻ đẹp của đồng ruộng và tác dụng của dòng sông đối với cánh đồng, tác giả viết:
“nước màu đang chảy ngoan
giữa dòng mương máng nổi
….
hạt phù sa rất quen
sao mà như cổ tích”.
Chính dòng sông đã cung cấp nước cho đồng ruộng qua đường mương máng. Phù sa trong nước khiến cho lớp bùn thêm “sếnh sang”, nhiều dưỡng chất, giúp cây lúa phát triển, “mạ đã thò lá mới”. Hữu Thỉnh cũng khẳng định chính dòng sông Thương giúp cho mùa màng thêm sắc, “đất quê mình thịnh vượng”. Hai câu thơ “những gì ta gửi gắm, sắp vàng hoe bốn bên” đã gửi gắm thật nhiều hi vọng. “ta” ở đây có thể là tác giả, hay là người nông dân chăm chỉ sớm hôm chăm sóc cánh đồng. “những gì” là mồ hôi công sức, là tình yêu thương, là niềm hi vọng về tương lai ấm no hạnh phúc. Từ những ước vọng đầy trong sáng, chính đáng đó, nhà thơ đã ca ngợi “hạt phù sa” quen thuộc nhưng lại cực kì có ích cho cây cối, nông nghiệp, chứa phép màu nhiệm “như cổ tích”.
Chính vì vậy, tác giả ca ngợi dòng sông Thương trong câu thơ tiếp theo:
“ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
dâng cho mùa sắp gặt
bồi cho mùa phôi phai”.
Lúc bình thường, dòng sông mang màu xanh biếc hiền hòa, tươi đẹp. Khi mưa gió, nước lên, dòng sông lại biến thành màu nâu đỏ của phù sa. Những hạt phù sa này “dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi phai”. Khi cây lúa đến vụ gặt, phù sa sẽ thêm nhiều chất dinh dưỡng, để hạt ngọc trời thêm giá trị. Sau mỗi mùa vụ, đất đai hết dưỡng chất, phù sa lại bồi đắp thêm cho đất màu mỡ hơn. Vậy nên dù mang màu sắc gì đi chăng nữa, sông Thương vẫn đẹp. Đây không chỉ là vẻ đẹp khiến con người say đắm mà con mang lại nhiều lợi ích, niềm vui cho cuộc đời.
Khổ cuối cùng, Hữu Thỉnh quay trở lại miêu tả dòng sông khi “nắng thu đang trải đầy” nhưng trăng đã “non múi bưởi”. Dòng sông chảy hiền hòa, chậm chạp hơn, trời dần tối khiến cho “cả chiều thu sang đông”.
“Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh có nhiều biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng tưởng tượng, khiến người đọc cảm thấy dòng sông như một con người, vừa xinh đẹp, vừa chăm chỉ chăm sóc cây lúa từ khi còn là mạ non đến mùa gặt. Thông qua tác phẩm này, người đọc có thể thấy được tác giả là một người yêu quý thiên nhiên quê hương, biết ơn và trân trọng những gì thiên nhiên ban tặng con người.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 3
Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ "Chiều sông Thương" của Hữu Thỉnh là một bài thơ hay, đáng yêu. Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang.
Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê (người lính?) trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều.thu thường mán mác buồn, nhưng "Chiều sông Thương" lại nhiều thiết tha, bâng khuâng rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì "dùng dằng", níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy "nở tím" cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ "dùng dằng" mãi:
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa Quan họ
Nở tím bên sông Thương
Sông Thương quê mẹ, quê em "nước vẫn nước đôi dòng" biết bao lưu luyến gợi nhớ gợi thương đã bao đời: "dòng trong dòng đục, em trông ngọn nào"… Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình, "Chiều uốn cong lưỡi hái". Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về:
Những gì sông muốn nói
Cánh buồm đang hát lên
Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ
Nhà thơ, đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành "con gió xanh". Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang "cúi mình giấu quả". Một chữ "ngoan" tài tình gợi tả dòng nước "đỏ nặng phù sa" êm trôi trong lòng mương lòng máng:
Nước màu đang chảy ngoan
Giữa lòng mương máng nổi
Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương "mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang": Là những ruộng lúa "vàng hoe" trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm "Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích". Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là "Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Cũng không phải là "Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng "("Bên kia sông Đuống" – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động "để thương, để nhớ, để sầu cho ai ":
Mấy cô coi máy nước
Mắt dài như dao cau
Chàng trai về thăm quê xúe động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu:
Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa phôi thai
Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà "em " đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn.
Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn. Vầng trang non lấp ló như "múi bưởi". Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu. Chi tiết nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình:
Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bên cầu con nghé đợi
Cả chiều thu sang sông
Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải. Bài "Chiều sông Thương" giăng mắc, vương vấn mãi hồn ta. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với "con sông màu nâu, con sông màu biếc" của Hữu Thỉnh. Chất thơ, tình thơ là ở đấy.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 4
Nhà thơ Hữu Thỉnh nổi tiếng như một trong những 'cây lớn' của văn hóa hiện đại Việt Nam. Với cách diễn đạt nhẹ nhàng, đầy tình cảm và sự giản dị nhưng sâu sắc, ông để lại nhiều tác phẩm quý giá trong kho tàng thơ ca đất nước. Trong đó, không thể không nhắc đến bài thơ 'Chiều sông Thương'.
'Dọc suốt ngày thu
vẫn chưa bước chân về nhà
...
cánh buồm hòa minh hát ca”
“Là người trở về sau những chặng đường xa, nhưng vẻ đẹp của dòng sông đã không buông lỏi tác giả, khiến ông vẫn chưa bước chân về “ngõ nhà”. Hai câu thơ “nước vẫn mênh mông/ chiều vẫn chiều lưỡi hái” đưa ta vào một chiều thu trầm lắng. Khi ánh nắng mặt trời dần buông lỏng dưới chân núi, tia sáng trải rội tạo bóng hình như lưỡi liềm chiếu xuống dòng sông hiền hòa. Ngoài ra, trên mặt nước, những đám mây trôi dịu dàng, bông hoa Quan họ 'mở cánh tím bên sông', và cánh buồm phô diễn ở xa xôi. Ở đây, tác giả đã sử dụng nhân hóa 'hoa' và 'dùng dằng', 'sông muốn kể', 'cánh buồm đang hòa mình hát ca' để tạo nên bức tranh sống động, biến dòng sông thành một thực thể sống, có linh hồn, có bạn bè, có tình cảm. Với hai khổ thơ đầu, tác giả đã mô tả buổi chiều thu bên dòng sông Kinh Bắc nhẹ nhàng, êm đềm, tràn ngập bản năng thơ mộng.
“đám mây bên Việt Yên
“mờ bóng về Bố Hạ
lúa e ấp che giấu hạt giống
ruộng hòa mình với hơi gió xanh”
Nâng tầm tâm nhìn xa xôi, tác giả nhận thấy những đám mây dẫn theo nhau từ Việt Yên về Bố Hạ. Hai điểm đất đó biểu hiện sự gắn bó mật thiết của nhà thơ với vùng đất Bắc Giang. Hai bên lề sông, những cây lúa 'e ấp che giấu hạt giống' báo hiệu một vụ mùa bội thu sắp đến. Cả cánh đồng tràn đầy năng lượng, xanh mướt bởi làn gió nhẹ vuốt ve như làn sóng xanh.
Để làm sâu sắc thêm vẻ đẹp của đồng ruộng và tác động của dòng sông lên cánh đồng, tác giả viết:
“dòng nước điều màu chảy dịu dàng
“trong lòng mương máng trôi lững lờ
“….
“hạt phù sa quen thuộc
“như cổ tích thần kỳ”
“Dòng sông là nguồn nước ban cho ruộng đồng qua dòng mương máng. Phù sa trong nước tạo thêm lớp bùn “trắng trải”, giàu dưỡng chất, giúp cây lúa phát triển, “mạ mới thò lá”. Hữu Thỉnh khẳng định rằng dòng sông Thương là nguồn động viên cho mùa màng thêm phần phồn thịnh, “đất quê mình thịnh vượng”. Hai câu thơ “những điều ta gửi gắm, sắp vàng hoe bốn bề” chứa đựng rất nhiều kỳ vọng. “ta” ở đây có thể là tác giả hoặc người nông dân chăm chỉ sớm tinh hôm, chăm sóc cánh đồng. “những điều” là mồ hôi của công sức, tình yêu thương và niềm hy vọng về một tương lai ấm no hạnh phúc. Từ những ước vọng trong trẻo, người viết thơ tôn vinh “hạt phù sa” quen thuộc nhưng lại vô cùng hữu ích cho cây trồng, nông nghiệp, như một phép màu như cổ tích.
“Chính vì thế, tác giả tôn vinh dòng sông Thương trong câu thơ tiếp theo:
“ôi dòng sông màu nâu
“ôi dòng sông màu huyền bí”
“nâng tầm mùa gặt mới bắt đầu”
“mở đường cho mùa phôi phai”
“Ngày thường, dòng sông nhấp nhô trong bức tranh xanh biếc tĩnh lặng. Khi bước vào mùa mưa, nước dâng, sông chuyển sang màu nâu ấm áp của phù sa. Những hạt phù sa này “nâng tầm mùa gặt mới bắt đầu/ mở đường cho mùa phôi phai”. Khi lúa chín, phù sa mang đến nhiều dưỡng chất, làm cho hạt lúa trở nên quý giá hơn. Sau mỗi vụ mùa, đất trồng mất đi chất dinh dưỡng, nhưng phù sa lại bù đắp, làm cho đất trở nên màu mỡ hơn. Do đó, bất kể sông Thương có màu sắc nào, nó vẫn tuyệt vời. Đây không chỉ là vẻ đẹp làm cho con người kinh ngạc mà còn là nguồn động viên, niềm vui cho cuộc sống.”
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 5
Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta nhận thức được vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người Việt Nam. Bài thơ 'Chiều sông Thương' là một tác phẩm gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương và tình cảm chân thành của nhà thơ.
Khi bắt đầu bài thơ, chúng ta được đưa vào bối cảnh tình cảm của nhân vật trữ tình:
'Dọc suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
sử dụng dằng hoa Quan họ
bừng nở tím ven bờ sông'
Chiều thu buồn bã bao trùm toàn bộ cảnh vật. Bầu không khí yên bình của thời tiết ấy đã kết lại bước chân người con xa xứ, 'vẫn chưa về tới làng'. Trong khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh quen thuộc, 'hoa Quan họ' khoe sắc tím bên mé bờ sông, nhân vật trữ tình nhìn nhận toàn bộ vẻ đẹp:
'nước vẫn chảy đôi dòng
hoàng hôn vẫn lắp lánh nhẹ nhàng
những điều mà dòng sông muốn thổ lộ
cánh buồm đang rộn ràng hát ca
Với kỹ thuật điệu phối văn bản 'nước vẫn trôi theo nhịp điệu/ hoàng hôn vẫn lắp lánh nhẹ nhàng' đã làm nổi bật bức tranh quê hương, giữ nguyên vẻ đẹp truyền thống. Trên bề mặt sông rộng lớn, hình ảnh những chiếc thuyền như điệu đà. Nhà thơ tinh tế khi mô tả tình trạng vừa 'yên bình' vừa 'sôi động'. Cánh buồm được nhân cách hóa 'đang rộn ràng hát ca' không chỉ thể hiện trạng thái 'lướt nhẹ gió' mà còn thể hiện niềm hạnh phúc con người qua giai điệu, bản hát.
Bức tranh tự nhiên mở ra rộng lớn với những đường nét họa sĩ tài ba:
'tảng mây bên trời Việt Yên
dịu dàng dắt bóng về Bố Hạ
lúa e ấp che giấu trái cây
cánh đồng nhấp nhô dưới hơi gió xanh'
Sự chọn lọc và sử dụng từ ngôn ngữ cho thấy tài năng sáng tạo, hấp dẫn của nhà thơ. Bầu trời cao kia trở nên mềm mại, mờ nhạt, như mời gọi bóng tối về phủ lên Bố Hạ. Ánh mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh của 'lúa đầu cúi', 'cánh đồng nhấp nhô'. Những cây lúa nặng trĩu hạt như những bông hoa rung rinh, báo hiệu mùa màng bội thu. Cảnh đẹp bao la, toàn bộ bên bờ sông Thương, đang tận hưởng sự êm đềm, hòa quyện của gió, khiến tạo sóng mặt nước màu 'xanh'. Bức tranh thiên nhiên tràn ngập bình yên và hòa quyện!
Theo dòng chảy của con sông quê hương, nhà thơ nhận thức được:
'nước chảy màu đẹp quyến rũ
giữa sông nước bồn bề
mạ mới nẩy lá xanh tươi
trên tầng bùn mịn màng'
Dễ dàng nhận thấy, mỗi sự vật đều hoạt động theo cách riêng biệt. 'Nước phù sa' hay nước màu vẫn 'lặng lẽ trôi vào lòng mương', mang theo dưỡng chất nuôi dưỡng ruộng đồng. Xa xa kia, những bông lúa mới nảy mầm đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh tươi như những sợi lụa non. Tầng bùn đất được cày xới cẩn thận, trở nên mịn màng, nhẵn bóng. Tất cả đều đang sống động, phát triển mạnh mẽ, là dấu hiệu rõ ràng của một mùa màng phong phú. Có lẽ đó cũng là ước muốn của nhà thơ và những người dân ở Kinh Bắc 'để đất quê mình phồn thịnh/ mặt ruộng mênh mang mùa màng'. Ngắm nhìn niềm hạnh phúc, sự sung túc trên quê hương, nhà thơ không giấu được niềm vui, hạnh phúc. Mọi cánh đồng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo, tạo nên hình ảnh đẹp như tranh, hứng khởi lòng người. Nghe dòng sông chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, kính trọng món quà quý báu mà con sông trao tặng những người nông dân 'hạt phù sa thân thuộc/ như chuyện cổ tích'. Hạt phù sa như một điều kì diệu, như câu chuyện cổ tích, tạo nên đồng ruộng tươi tắn, phồn thịnh, mang lại sự thịnh vượng và ấm no cho vùng quê thân yêu.
Cảm xúc đong đầy, hồn hộn khi nhìn ngắm vẻ đẹp bên lề dòng sông Thương, nhà thơ chìm đắm hoàn toàn vào bình yên nơi đó. Sự xúc động, cuốn hút được gói ghém trong hai dòng thơ 'thác thỏm sông màu nâu/ hòa mình trong sắc xanh biếc'. Từ 'thác thỏm', kết hợp cùng 'màu nâu', 'xanh biếc' làm thấy rõ tình cảm sâu sắc của tác giả. Dù sông có màu nâu của phù sa hay đẹp như màu 'xanh biếc', nó vẫn mang theo sức sống, 'nở nang cho mùa sắp gặt/ nuôi dưỡng cho mùa phôi thai'.
Bằng nghệ thuật thơ bày tỏ trong bốn câu ngắn gọn, hình ảnh thơ gần gũi, lời thơ chứa đựng cảm xúc kết hợp với các diễn ngôn nghệ thuật như: nhân hóa 'dòng sông muốn nói', so sánh 'đôi mắt như lưỡi cau dao' đã tạo nên bức tranh sống động về sông Thương trong bức tranh chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ đầu câu thứ hai làm cho bài thơ trở thành một câu chuyện tận cùng tình cảm của người xa quê. Từ đây, chúng ta cảm nhận được tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, quê hương luôn ghi sâu trong tâm hồn và trái tim của nhà thơ.
Bài thơ 'Chiều sông Thương' không chỉ là bức tranh tĩnh lặng về quê hương trong nền văn hóa của miền Bắc, mà còn là sự thể hiện tình cảm mật thiết và gắn bó của Hữu Thỉnh. Hy vọng rằng, bài thơ sẽ tồn tại mãi theo thời gian.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 6
Vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước chính là một chủ đề được rất nhiều tác giả hướng đến. Trong đó, Hữu Thỉnh được xem là một tác giả có bút lực mạnh mẽ và sáng tạo. Những bài thơ của ông không chỉ đơn thuần thể hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn chất chứa được nhiều tình cảm của nhân vật. Trong những tác phẩm của Hữu Thỉnh, Chiều sông Thương chính là một tác phẩm đặc sắc về vẻ đẹp của dòng sông xứ Kinh Bắc: sông Thương.
Chiều sông Thương được viết theo thể loại thơ 5 chữ với cách gieo vần độc đáo. Nội dung của bài thơ là vẻ đẹp êm đềm, trù phú của dòng sông Thương trong một buổi chiều dịu dàng. Hình ảnh buổi chiều thường được nhắc tới trong những bức tranh về người con xa quê, buổi chiều cũng là khoảng thời gian mà con người mệt mỏi, thể hiện rõ ràng những cảm xúc nhất.
"nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên"
Trong con mắt của mỗi nhà thơ, hình ảnh của cảnh vật sẽ được miêu tả dưới một góc độ khác nhau. Điều đó cũng làm nên nét đặc sắc của từng cây bút. Với Hữu Thỉnh, dòng sông Thương thơ mộng xuất hiện với những nét đẹp dịu dàng. Vẻ đẹp của con sông ban đầu là những nét đẹp nhẹ nhàng hai bên bờ. Tác giả đã miêu tả từ xa tới gần, sắc tím của hoa là một nét đẹp như người phụ nữ, vừa mềm mại, vừa quyến rũ. “Vẫn” được tác giả sử dụng nhiều trong các câu thơ. Tác giả như đang hoài niệm về một thời không nào đó, nơi chất chứa nhiều kỉ niệm. Điều đó làm người đọc thắc mắc về thừa mà tác giả nhớ. Nó sẽ là gì mà khiến cho một nhà thơ đa tình lại nhớ mãi không quên?
Những cảnh vật mà tác giả miêu tả đều là nhưng chi tiết nhỏ ở độ nhạt nhòa, ít người để ý đến. Tuy nhiên từ những chi tiết nhỏ như thế mà người đọc lại hình dung được chút gì đó vui tươi. Cũng có thể bởi những màu sắc đẹp đẽ, cũng có thể bởi những câu thơ đầy sức sống và đằm thắm của tác giả. Dòng sông được tác giả miêu tả bên cạnh những tác dụng của con thuyền. Đó là công việc mang theo phù sa trở về, cùng giúp những con thuyền căng buồm xuôi nước quay lại.
"Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa Quan họ
nở tím bên bờ sông"
Đây cũng là hoàn cảnh của nhân vật trữ tình được làm rõ. Cảnh vật vui tươi như níu bước chân của người đi xa, mãi “vẫn chưa về tới ngõ”. Ngay phía sau, tác giả lại dùng “dùng dằng” thể hiện chút gì đó lưu luyến không rời. Thứ gì có ma lực như thế, lại níu được bước chân của một người đương vội vàng? Nhưng cũng nhờ đó, tác giả mới thấy được thời khắc buổi chiều, hoa bung nở sắc thắm, dòng sông Thương khoác lên người một lớp áo đẹp đến mơ màng.
"nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang"
Trong khổ thơ này, tác giả bỗng hóa thật dịu dàng. Con nước bống dưng thật ngoan ngoãn. Có lẽ, với tác giả, sự chầm chậm dịu dàng đó chính là một cách thể hiện “ngoan ngoãn” của dòng nước sông Thương. Theo đó, những chất phù sa, dinh dưỡng tiến tới để nuôi mạ, những lá mới thò ra. Những chất phù sa ấy hóa thành lớp bùn sếnh sang đầy chất dinh dưỡng để nuôi một vụ mùa bội thu trong tương lai. Sự nảy nở của cây mạ cũng như sự nảy nở của tình cảm, tâm hồn của người thi sĩ. Đó còn là đại diện cho những ước mơ của con người, một mùa gặt bội thu, no ấm.
Tuy không thể hiện rõ cảm xúc trong từng câu thơ, nhưng chúng ta như được lây nhiễm niềm xốn xang của con người trước vẻ đẹp ấy. Một buổi chiều bên con sông khiến cho người thi sĩ mơ màng, làm cho độc giả lưu luyến dừng bước chân. Bởi khung cảnh ấy dưới nét bút Hữu Thỉnh không chỉ đẹp, còn vô cùng quyến rũ. Những biện pháp tu từ như nhân hóa con sông cũng khiến cho nó càng thêm đặc biệt. Nó khiến người đọc ngạc nhiên từ vẻ đẹp đến cả lợi ích của dòng sông.
Bài thơ Chiều sông Thương dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp của dòng sông mà còn thấy được một tương lai trong mơ của rất nhiều người. Dòng sông Thương xinh đẹp chảy xiết theo thời gian, dường như sẽ chẳng bao giờ dừng lại ngơi nghỉ.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 7
Quê hương là đề tài muôn thủa trong thi ca, Hữu Thỉnh cũng góp thêm vào đề tài ấy bài thơ "Chiều sông Thương". Bài thơ được làm theo thể 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang. Dòng sông Thương quê mẹ êm đềm yên ả "nước vẫn nước đôi dòng", một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình, "chiều uốn cong lưỡi hái". Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về. Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương "mạ đã thò lá mới - trên lớp bùn sếnh sang", là những ruộng lúa "vàng hoe" trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm "Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích. Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu: Ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc”. Cảnh sắc quê hương càng hữu tình, nên thơ càng thấy được tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 8
Trong những bài thơ hay nhất của Hữu Thỉnh, bài thơ "Chiều sông Thương" được đánh giá là một trong những bài thơ thể hiện cảm xúc, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt, hai khổ thơ cuối đã thể hiện tình cảm của người con xa quê qua sự yêu thương, tình quý trọng với dòng sông quê hương. Cảm xúc của tác giả được thể hiện qua hai câu cảm thán với từ "Ôi", dòng sông hiện lên với màu sắc nâu và biếc thể hiện sự trong xanh, mới mẻ xen vào đó là sự tươi mát vào thu. Sông Thương giúp cho mùa gặp thêm bội thu, giúp cho mùa thu hoạch tốt với những nông dân. Đến với khổ cuối, hình ảnh dòng sông ấy hiện lên qua ánh nắng mùa thu trong buổi chiều thơ mộng. Ánh trăng dần dần xuất hiện bé nhỏ như múi bưởi. Hình ảnh con nghé đứng đợi bên cầu cũng thể hiện sự lãng mạn, đầy chất thơ cả trên bờ sông. Chiều thu như cùng nhau sang sông, dòng sông như ranh giới giữa buổi chiều với buổi tối sắp đến. Như vậy, với thể thơ năm chữ kết hợp với từ ngữ bâng khuâng, xao xuyến cùng với biện pháp tu từ điệp cấu trúc "Ôi con sông", Hữu Thỉnh đã cho người đọc thấy được sự thơ mộng, lãng mạn của dòng sông vào buổi chiều mùa thu. Đồng thời, thể hiện tình yêu, sự tự hào của tác giả về sông Thương, về quê hương quan họ của đất nước.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 9
Trong rất nhiều bài thơ viết về quê hương và tình yêu quê hương thì có lẽ bài thơ "Chiều sông Thương" của tác giả Hữu Thỉnh đã để lại cho em nhiều cảm xúc sâu lắng nhất. Bài thơ năm chữ này giàu vần điệu, nhạc điệu, lời thơ nhẹ nhàng, trong sáng. Những cảnh vật làng quê đều tiềm tàng những màu sắc ấm no, hi vọng. Đầu tiên là dòng sông êm đềm, yên ả, những dòng nước chảy xuôi dòng rồi đến những đám mây trên Việt Yên. Chúng được tác giả nhân hoá như những con người đang mừng người đi xa trở về. Những câu cảm thán được kết hợp với điệp ngữ làm cho câu thơ trở nên bồi hồi, say đắm hơn bao giờ hết. Cảnh sắc quê hương được miêu tả sâu đậm, hữu tình bao nhiêu thì càng biết được tình yêu quê hương của tác giả sâu đậm, hữu tình đến nhường nào.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 10
Quê hương là một đề tài vĩ đại trong văn học, và bài thơ 'Chiều sông Thương' của Hữu Thỉnh cũng không ngoại lệ. Bài thơ này được viết bằng thể thơ lục bát, với vần điệu phong phú, lời thơ thanh nhẹ, hình ảnh đẹp mắt, cảm xúc sâu lắng. Dòng sông Thương trong bài thơ là biểu tượng của quê hương yên bình và thân thương, nơi mà 'nước vẫn nước đôi dòng', một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp lánh. Bức tranh về quê hương đẹp mơ màng được tái hiện qua những dòng thơ tinh tế và giàu cảm xúc. Bài thơ còn nói về ruộng đồng, ruộng lúa trải dài vô tận, và dòng sông mang theo bao ký ức tuổi thơ và niềm nhớ. Tình yêu quê hương rực cháy trong từng câu thơ, khiến cho người đọc cảm thấy xúc động và bồi hồi.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 11
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu,
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền, vượt thác,
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi."
"Trăm dáng sông xuôi ấy" không chỉ đẹp trong tự nhiên mà còn trở thành những dòng sông gợi thương gợi nhớ trong trang văn, trang thơ của biết bao người nghệ sĩ. Đó là dòng Vàm Cỏ Đông trong thơ Hoài Vũ, dòng sông quê hương "xanh biếc" trong thơ Tế Hanh, là "sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh" trong thơ Hoàng Cầm, là dòng Đà giang "tuôn dài tuôn dài" trong tùy bút Nguyễn Tuân... là dòng Hương giang mềm như tấm lụa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hữu Thỉnh cũng mang đến cho văn đàn một áng thơ đẹp mà cảm hứng được khơi nguồn từ dòng sông xứ Kinh Bắc: sông Thương. "Chiều sông Thương" được làm theo thể ngũ ngôn, với 32 câu thơ viết liền mạch, không dấu ngắt, tạo cảm giác cả bài thơ như dòng cảm xúc dào dạt tuôn trào chợt ùa về trong khoảnh khắc.
Bối cảnh thời gian, không gian được gợi lên ngay từ nhan đề và những câu thơ đầu tiên: thời gian của cảm xúc là một buổi chiều thu, không gian là dòng sông Thương êm đềm, trù phú. Buổi chiều thường gợi thương gợi nhớ, nhất là với người con xa quê. Vậy nên dù chưa "về tới ngõ" nhưng nhìn thấy dòng sông quê hương thân thuộc, bao nhiêu cảm xúc đã ùa về trong tâm trí nhà thơ. Hình như với mỗi người, dòng sông quê hương thường để lại những suy tư và xúc cảm sâu lắng. Nên không phải ngẫu nhiên mà có biết bao áng thơ hay được viết lên từ hình ảnh quen thuộc, thân thương ấy.Với mỗi người, dòng sông quê hương mình lại đẹp theo một cách. Trong cảm nhận của Hữu Thỉnh, sông Thương là dòng sông thơ mộng chảy hiền hòa giữa một một miền quê trù phú:
"Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa quan họ
nở tím bên sông Thương
nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên
đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang
cho sắc mặt mùa màng
đất quê mình thịnh vượng
những gì ta gửi gắm
sắp vàng hoe bốn bên
hạt phù sa rất quen
sao mà như cổ tích
mấy cô coi máy nước
mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu
ôi con sông màu biếc
dâng cho mùa sắp gặt
bồi cho mùa phôi thai
nắng thu đang trải đầy
đã trăng non múi bưởi
bên cầu con nghé đợi
cả chiều thu sang sông."
Vẻ đẹp của dòng sông được tạo nên qua những nét vẽ đặc sắc: Hoa quan họ. Nào ai biết "hoa quan họ" là hoa gì? Chỉ khi chạm vào sắc tím trong câu thơ tiếp theo, ta mới hình dung đó chính là sắc tím của lục bình - một nét vẽ quá đỗi thân thương, mềm mại. Những chùm lục bình tím trôi đi giữa dòng nước êm đềm:
"Nước vẫn nước đôi dòn
chiều vẫn chiều lưỡi hái".
Cảnh vật "vẫn" như xưa, vẫn tồn tại trong sự vĩnh hằng muôn thuở của nó mà sao gợi thương, gợi nhớ nhiều đến thế? Nét thi vị trong cách biểu đạt của Hữu Thỉnh là ở độ "nhòe mờ" của ý nghĩa lời thơ. "Chiều lưỡi hái" là buổi chiều như thế nào? "Những gì sông muốn nói/cánh buồm đang hát lên" - là điều những gì vậy? Thật khiên cưỡng nếu ta áp đặt cho những câu thơ này một nét nghĩa cụ thể nào đó. Ta chỉ có thể cảm nhận được qua tiếng "hát" kia là hình ảnh một dòng sông vui tươi, trù phú - dòng sông mang phù sa bồi đắp cho mùa màng của mảnh đất Kinh Bắc; mang những con thuyền căng buồm xuôi ngược muôn nơi.
Bức tranh chiều sông Thương tiếp tục được điểm tô bởi những nét vẽ thật đẹp: Hình ảnh từng đám mây rủ bóng xuống dòng sông gợi lên một khung cảnh thanh bình, yên ả. Chữ "rủ" không mang cảm giác buồn bởi nó xuất hiện trong văn cảnh cùng hàng loạt những hình ảnh đẹp khác:
"Lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang..."
Trong dáng cúi mình của bông lúa giấu quả là niềm vui một vụ mùa bội thu; trong hai chữ "ruộng bời" là hình ảnh của cả cánh đồng tươi tốt; trong màu nước chảy ngoan là phù sa màu mỡ đắp bồi; trong màu mạ xanh non đang thò là mới trên lớp bùn sếnh sang là sự sống mới đang tiếp tục vận động, sinh sôi. Những hình ảnh thật đẹp, thật sáng được đặt trong sự biểu đạt vừa như quen, vừa như lạ của Hữu Thỉnh qua các từ ngữ giàu giá trị biểu đạt giúp người đọc hình dung sự tốt tươi, trù phú của mùa màng xứ Kinh Bắc. Hình ảnh ấy khác biệt hẳn với mảnh đất Kinh Bắc điêu tàn trong bom đạn kẻ thù: "Ruộng ta khô/ Nhà ta cháy/ Chó ngộ một đàn.." (Hoàng Cầm).
Kinh Bắc ngày nay đã mang một diện mạo mới, một "sắc mặt" mới: "Cho sắc mặt mùa màng/đất quê mình thịnh vượng". Phép tu từ nhân hóa thật đẹp tiếp tục đậm tô hình ảnh của một vùng quê trù phú, thịnh vượng đã được gợi lên từ những câu thơ trước. Nếu những câu thơ trước là cái nhìn cận cảnh, thì hai câu thơ này là cái nhìn toàn cảnh, được viết lên từ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về sự phát triển của quê hương. Mấy chữ "quê mình" nghe sao xốn xang, kiêu hãnh mà thân thương đến thế!Tất cả những gì mà nhà thơ hi vọng, mong ước cho quê hương đều đã, đang và sẽ thành hiện thực: "Những gì ta gửi gắm/sắp vàng hoe bốn bên". Mong ước quê hương giàu đủ, thịnh vượng là nỗi niềm đau đáu của những người con xa quê luôn thiết tha với quê hương, xứ sở. Và giờ đây, khi chứng kiến cảnh sắc, mùa màng quê hương đang độ căng tràn, màu mỡ, nhà thơ không khỏi xốn xang, hạnh phúc. Câu thơ bật lên như một tiếng reo vui - niềm vui của ước mơ đang dần trở thành hiện thực. Hình ảnh hoán dụ "vàng hoe" cùng từ chỉ không gian "bốn bên" gợi nhiều hơn mấy tiếng ngắn gọn, đơn sơ ấy. Đó là hình ảnh của những cánh đồng mênh mông bất tận sáng tươi trong sắc vàng óng ả, cũng là hình ảnh của mùa màng tươi tốt bội thu.
Cảm nhận niềm vui sướng, hạnh phúc lan tỏa trong lòng, nhà thơ không khỏi biết ơn những gì mà dòng sông Thương mang đến cho mảnh đất quê hương mình:
"Hạt phù sa rất quen
Sao mà như cổ tích".
Hạt hạt phù sa sông Thương đắp bồi cho đồng ruộng Kinh Bắc vốn là những gì đã "rất quen", đó là sự đắp bồi qua thời gian vĩnh hằng, muôn thuở. Điều đặc biệt là trong cảm nhận của nhà thơ, phù sa ấy như mang phép màu của cổ tích, mang đến những điều kì diệu - mang đến sự thịnh vượng cho cả một vùng quê. Cách biểu đạt của nhà thơ cứ mộc mạc, nhẹ nhàng như thế, mà lắng đọng, sâu sắc biết bao.Những câu cuối của bài thơ như khúc hát hân hoan, dào dạt ngân lên từ tâm hồn, trái tim của người con xa quê nay trở về chứng kiến quê nhà đang dạt dào sức sống:
"Ôi con sông màu nâu
Ôi con sông màu biếc
Dâng cho mùa sắp gặt
Bồi cho mùa phôi thai".
Cảm xúc thơ rung lên trong tiếng "Ôi" lặp lại đến hai lần. Dù đó là con sông nặng phù sa "nâu" mùa nước nổi hay con sông trong veo màu "biếc" độ thu về, thì đều là dòng sông mang sự sống đến với mảnh đất nơi đây. Hai tiếng "dâng", "bồi" gói trọn tình yêu mà con sông dành cho đất và người Kinh Bắc. Dòng sông ấy đã "dâng" cho mùa sắp gặt và sẽ "bồi" cho mùa đang "phôi thai" bằng tất cả mỡ màng phù sa mà con sông chắt chiu nơi thượng nguồn mang tới.
Bài thơ không chỉ là bức tranh đẹp về dòng sông Thương Kinh Bắc mà còn chất chứa biết bao cảm xúc yêu mến, tự hào của nhà thơ về dòng sông, về quê hương, đất nước. Tất cả được biểu đạt qua thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, ngôn từ hình ảnh thơ vừa gần gũi, mộc mạc vừa giàu sức gợi..
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 12
Trong những tác phẩm hay nhất của Hữu Thỉnh, bài thơ 'Chiều sông Thương' được đánh giá là một trong những tác phẩm thể hiện tình yêu quê hương, niềm tự hào về đất nước của tác giả. Đặc biệt, hai dòng thơ cuối cùng đã thể hiện tình cảm của một người con xa quê thông qua sự yêu thương, tình quý trọng với dòng sông quê hương. Cảm xúc của tác giả được thể hiện qua hai câu cảm thán với từ 'Ôi', dòng sông hiện lên với màu nâu và xanh biếc, thể hiện sự tươi mát vào mùa thu. Sông Thương giúp cho mùa gặp thêm bội thu, giúp cho mùa thu hoạch tốt với những nông dân. Đến với khổ cuối cùng, hình ảnh dòng sông ấy hiện lên qua ánh nắng mùa thu trong buổi chiều thơ mộng. Ánh trăng dần dần xuất hiện như múi bưởi bé nhỏ. Hình ảnh con nghé đứng đợi bên cầu cũng thể hiện sự lãng mạn, đầy chất thơ cả trên bờ sông. Chiều thu như cùng nhau sang sông, dòng sông như ranh giới giữa buổi chiều với buổi tối sắp đến. Như vậy, với thể thơ năm chữ kết hợp với từ ngữ bâng khuâng, xao xuyến cùng với biện pháp tu từ điệp cấu trúc 'Ôi con sông', Hữu Thỉnh đã cho người đọc thấy được sự thơ mộng, lãng mạn của dòng sông vào buổi chiều mùa thu. Đồng thời, thể hiện tình yêu, sự tự hào của tác giả về sông Thương, về quê hương quan họ của đất nước.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 13
Sự tinh túy của thiên nhiên, của đất nước luôn là đề tài mà nhiều nhà văn hướng đến. Trong số đó, Hữu Thỉnh được biết đến là một tác giả sáng tạo và có uyên bác trong việc diễn đạt. Những tác phẩm của ông không chỉ đơn giản là mô tả về vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn truyền tải được những tình cảm sâu lắng của nhân vật. Trong số các tác phẩm của Hữu Thỉnh, bài thơ Chiều sông Thương chính là một tác phẩm xuất sắc về vẻ đẹp của dòng sông nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc: sông Thương.
Chiều sông Thương được viết theo thể loại thơ 5 chữ với phong cách gieo vần độc đáo. Nội dung của bài thơ là vẻ đẹp êm đềm, phong phú của dòng sông Thương trong một buổi chiều dịu dàng. Hình ảnh buổi chiều thường được nhắc đến trong những tác phẩm miêu tả về người con xa quê, là thời điểm mà con người cảm thấy mệt mỏi, thể hiện rõ nhất những cảm xúc.
'nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên'
Trong mắt của mỗi nhà thơ, hình ảnh của cảnh vật sẽ được miêu tả dưới góc độ khác nhau. Điều đó cũng làm nên đặc điểm riêng của mỗi cây bút. Với Hữu Thỉnh, dòng sông Thương xuất hiện trong bức tranh thơ mộng với những nét đẹp dịu dàng. Vẻ đẹp của con sông ban đầu là những nét đẹp nhẹ nhàng hai bên bờ. Tác giả đã miêu tả từ xa tới gần, màu tím của hoa là một nét đẹp như phụ nữ, vừa mềm mại, vừa quyến rũ. “Vẫn” được sử dụng nhiều trong các câu thơ. Tác giả như đang nhớ lại một thời điểm nào đó, nơi đây chứa đựng nhiều kỷ niệm. Điều này khiến người đọc tự hỏi về điều mà tác giả không thể quên. Đó sẽ là gì mà khiến một nhà thơ đa tình như vậy không thể quên được?
Những cảnh vật mà tác giả miêu tả thường là những chi tiết nhỏ nhặt, ít người để ý đến. Tuy nhiên từ những chi tiết nhỏ nhặt đó, người đọc lại có thể hình dung được một chút gì đó vui tươi. Có lẽ do những màu sắc tươi đẹp, có thể là những câu thơ đầy sức sống và đằm thắm của tác giả. Dòng sông được miêu tả cùng với các tác dụng của con thuyền. Đó là công việc mang phù sa trở về, giúp những con thuyền căng buồm trên nước quay trở lại.
'Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa Quan họ
nở tím bên bờ sông'
Đây cũng là tình huống của nhân vật trữ tình được làm rõ. Cảnh vật vui tươi như níu bước chân của người đi xa, mãi “vẫn chưa về tới ngõ”. Ngay phía sau, tác giả lại sử dụng “dùng dằng” để thể hiện chút gì đó lưu luyến không rời. Điều gì có thể có sức hút như vậy, lại níu bước chân của một người đang vội vàng? Nhưng cũng chính vì thế, tác giả mới nhận ra thời khắc buổi chiều, hoa nở sắc thắm, dòng sông Thương khoác lên mình một chiếc áo đẹp đến mơ màng.
'nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang'
Trong khổ thơ này, tác giả đột nhiên trở nên dịu dàng. Dòng nước bỗng chốc trở nên ngoan ngoãn. Có lẽ, với tác giả, sự chậm rãi dịu dàng đó chính là biểu hiện của sự ngoan ngoãn của dòng nước sông Thương. Theo đó, những phần phù sa, dinh dưỡng tiến tới để nuôi mạ, những lá mới bắt đầu nảy mầm. Những phần phù sa ấy biến thành lớp bùn giàu chất dinh dưỡng để nuôi một vụ mùa bội thu trong tương lai. Sự mọc mạnh của cây mạ cũng như sự mạnh mẽ của tình cảm, tâm hồn của người thi sĩ. Đó cũng là biểu hiện của những ước mơ của con người, một mùa gặt phong phú, an lành.
Mặc dù không diễn đạt rõ ràng cảm xúc trong từng câu thơ, nhưng chúng ta như bị cuốn hút bởi sự phấn khích của con người trước vẻ đẹp đó. Một buổi chiều bên con sông khiến người thi sĩ say mê, làm cho độc giả dừng lại đắm chìm. Bởi khung cảnh ấy dưới bút của Hữu Thỉnh không chỉ đẹp, mà còn vô cùng cuốn hút. Những biện pháp ngôn từ như nhân hóa con sông càng làm nó trở nên đặc biệt hơn. Nó khiến người đọc ngạc nhiên từ vẻ đẹp đến cả lợi ích của dòng sông.
Bài thơ Chiều sông Thương dưới bàn tay của Hữu Thỉnh không chỉ cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của dòng sông mà còn thấy được một tương lai mơ mộng của nhiều người. Dòng sông Thương xinh đẹp chảy mãi theo thời gian, dường như không bao giờ ngừng lại nghỉ ngơi...
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 14
Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ 'Chiều sông Thương' của Hữu Thỉnh là một bài thơ hay, đáng yêu. Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang. Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê (người lính?) trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều.thu thường mán mác buồn, nhưng 'Chiều sông Thương' lại nhiều thiết tha, bâng khuâng rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì 'dùng dằng', níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy 'nở tím' cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ 'dùng dằng' mãi.
Phân tích bài thơ Chiều sông Thương - mẫu 15
Đọc thơ của Hữu Thỉnh, ta cảm nhận được sự sâu lắng, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ 'Chiều sông Thương' với hình ảnh gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết đã mang đến cho người đọc những rung động sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương cùng tình cảm chân thành của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, ta thấy được hoàn cảnh của nhân vật trữ tình:
'Đi suốt cả ngày thu
vẫn chưa về tới ngõ
dùng dằng hoa Quan họ
nở tím bên bờ sông'
Buổi chiều thu u ám buồn bã như đã phủ kín toàn bộ cảnh vật. Bầu không khí lạnh lẽo của mùa thu ấy đã dẫn dắt bước chân người xa quê 'vẫn chưa về tới ngõ'. Trong khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh quen thuộc của 'hoa Quan họ' bung nở màu tím bên bờ sông, nhân vật trữ tình lại nhấm nháp mắt nhìn toàn bộ cảnh sắc:
'nước vẫn nước đôi dòng
chiều vẫn chiều lưỡi hái
những gì sông muốn nói
cánh buồm đang hát lên'
Với cách diễn đạt 'nước vẫn nước đôi dòng/ chiều vẫn chiều lưỡi hái', nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh quan quê hương vẫn như nguyên vẹn, không thay đổi. Đứng nổi bật trên dòng sông rộng lớn mênh mông là hình ảnh của những con thuyền. Nhà thơ rất tinh tế khi miêu tả trạng thái tưởng chừng như 'yên bình' nhưng lại 'sống' của chúng. Từng cánh buồm như nhân hóa 'đang hát lên' không chỉ mô tả trạng thái 'đầy gió' mà còn thể hiện được niềm vui trong lòng con người qua tiếng hát, khúc nhạc.
Bức tranh thiên nhiên trở nên phong phú hơn nhờ vào những nét vẽ tài hoa:
'đám mây trên Việt Yên
rủ bóng về Bố Hạ
lúa cúi mình giấu quả
ruộng bời con gió xanh'
Việc lựa chọn và sử dụng từ đã cho thấy sự liên tưởng độc đáo, thú vị của nhà thơ. Bầu trời cao xa kia dần trở nên mềm mại, có thể 'rủ bóng về Bố Hạ'. Hạ tầm mắt xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện ra hình ảnh 'lúa cúi mình', 'ruộng bời'. Những cây lúa nặng trĩu hạt đang rung rinh từng ré như báo hiệu một mùa màng bội thu. Cánh đồng bao la, bát ngát bên dòng sông Thương đang tắm mình trong làn gió, gợi từng đợt sóng 'xanh'. Khung cảnh thiên nhiên thật yên bình, hòa hợp làm sao!
Theo dòng chảy của dòng sông quê, nhà thơ thấy được:
'nước màu đang chảy ngoan
giữa lòng mương máng nổi
mạ đã thò lá mới
trên lớp bùn sếnh sang'
Có thể thấy, mỗi sự vật đều vận hành theo một cách riêng biệt. 'Nước màu' hay còn gọi là nước phù sa vẫn 'chảy ngoan' vào 'lòng mương', mang theo dưỡng chất cung cấp cho ruộng đồng. Xa xa kia, mấy đám mạ mới gieo đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh mướt non tơ. Lớp bùn đất cũng được cày xới cẩn thận, trở nên láng mướt, mịn màng. Tất cả đang tiếp tục sinh sôi, nảy nở sự sống từng ngày từng ngày như báo hiệu một mùa màng bội thu. Phải chăng, đó cũng là mong ước của nhà thơ và người dân xứ Kinh Bắc 'cho sắc mặt mùa màng/ đất quê mình thịnh vượng'. Chứng kiến sự giàu có, trù phú nơi quê nhà, nhà thơ không khỏi hạnh phúc, say đắm. Thửa ruộng nào cũng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo 'sắp vàng hoe bốn bên'. Niềm vui sướng tràn ngập, lan tỏa khắp ngóc ngách chốn thôn quê. Lắng nghe dòng chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, nâng niu món quà quý giá mà con sông ban tặng tới người lao động 'hạt phù sa tất quen/ sao mà như cổ tích'. Hạt phù sa kì diệu như phép màu cổ tích, làm cho đồng ruộng tươi tốt, màu mỡ, mang đến sự thịnh vượng, êm ấm cho quê nhà.
Từ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng khi ngắm nhìn cảnh sắc bên bờ sông Thương, nhà thơ đã hoàn toàn đắm chìm vào vẻ đẹp bình yên ấy. Sự xúc động, say đắm được gói gọn trong hai câu thơ 'ôi con sông màu nâu/ ôi con sông màu biếc'. Điệp từ 'ôi' kết hợp với các từ 'màu nâu', 'xanh biếc' cũng cho thấy tình cảm da diết của tác giả. Dù con sông có màu nâu của phù sa hay trong veo 'xanh biếc' thì nó vẫn mang đến sự sinh trưởng, nảy nở 'dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi thai'.
Bằng thể thơ năm chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi, lời thơ chất chứa cảm xúc kết hợp với các biện pháp tu từ như: nhân hóa 'sông muốn nói', so sánh 'mắt dài như dao cau' đã khắc họa sinh động bức tranh sông Thương trong buổi chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ cái đầu dòng từ câu thơ thứ hai làm bài thơ giống như một câu chuyện kể đầy tâm tình của người xa quê. Từ đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu sắc luôn in sâu trong tâm trí và trái tim nhà thơ.
Bài thơ 'Chiều sông Thương' không chỉ là nét phác họa về bức tranh đồng quê yên ả nơi đồng bằng Bắc Bộ mà còn chan chứa tình cảm yêu mến, gắn bó của Hữu Thỉnh. Mong rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian