Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Làm sáng tỏ nhận định Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Làm sáng tỏ nhận định Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người
Đề bài: “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người” dựa vào “Độc Tiểu Thanh kí” và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du làm sáng tỏ nhận định trên
Làm sáng tỏ nhận định Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người - mẫu 1
Nhà văn Pháp Anna-tôn Prăng-xơ từng nói :"Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ tâm hồn con người". Đúng vậy,qua hai bài thơ '' Cảnh khuya'' và '' Rằm tháng giêng'' ta càng thấy rõ hơn điều đó.
Cùng viết về ánh trăng nhưng trong hai bài thơ “Cảnh khuya” và bài thơ “Rằm tháng Giêng”, Hồ Chí Minh lại thể hiện một sắc thái, một cảm xúc đặc biệt. Cùng là ánh trăng đấy nhưng hình ảnh trong mỗi bài thơ lại mang một nét đẹp, lại chứa đựng những cảm xúc riêng của nhân vật trữ tình. Nếu trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh vẽ ra khung cảnh đêm khuya ánh trăng được đặt trong mối quan hệ với vạn vật nơi rừng sâu và phản chiếu hình ảnh con người đang ôm mối suy tư khi liên quan đến vận nước, thì bài thơ Rằm tháng Giêng lại là bức tranh mùa xuân dưới ánh trăng Rằm, hình ảnh của nhân vật trữ tình đang trong tư thế lạc quan tự tại và niềm tin vào sự chiến thắng của Cách mạng, vào sự trường tồn của vận nước.
Trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, nó dường như trở lên sinh động hơn trong đêm trăng nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là vẻ đẹp của một con người cách mạng đang trăn trở, suy tư về công việc của dân tộc, của đất nước:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Trong không gian tĩnh lặng của đêm khuya, tiếng suối róc rách chảy trong đêm vang vọng trong không gian, đặc biệt trong cảm nhận của Hồ Chí Minh thì tiếng suối này không như những tiếng suối thường nghe thấy mà nó dịu nhẹ hơn, da diết hơn, nó tựa như “tiếng hát xa” như có như không mà vọng lại. làm cho không gian vốn tĩnh lặng của đêm khuya tràn ngập âm thanh, như một khúc giao hưởng giữa rừng già. Không chỉ âm thanh mà ngay hình ảnh cũng kích thích, cũng hấp dẫn thị giác của người nhìn, đó là hình ảnh của bóng trăng lồng vào bóng của cây cổ thụ, bóng của cây cổ thụ lại lồng vào hoa, một sự kết hợp thật độc đáo.
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Trong không gian thanh vắng của đêm khuya, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên với những nỗi trăn trở, suy tư. Đó là những suy tư về vận nước, về tương lai của một dân tộc, hình ảnh ấy làm cho người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đẹp, thật đáng trân trọng. Trong bài “Rằm tháng Giêng” lại khác, khung cảnh thiên nhiên mà chủ tịch Hồ Chí Minh gợi ra đó chính là khung cảnh của trời đất, sông nước khi có ánh trăng Rằm soi chiếu, cũng là ánh trăng đêm nhưng giữa hai bài thơ lại mang đến những sắc thái khác biệt, máu sắc và cảm xúc hoàn toàn khác biệt
“ Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Bài thơ Rằm tháng Giêng là khung cảnh đêm xuân thật rực rõ, đó là cái bát ngát, rợn ngợp mà không kém phần sinh động, thi vị. Chỉ một từ láy “lồng lộng” thôi nhưng Hồ Chí Minh đã gợi ra giới hạn vô tận của không gian. Trong không gian rộng lớn ấy, ánh trăng Rằm không chỉ soi chiếu lên vạn vật làm cho chúng trở lên sáng rõ, tươi sắc hơn. Mà trên dòng sông, ánh trăng dường như đã hòa vào làm một với dòng nước, làm cho dòng nước ấy trở nên lộng lấy bởi sự kết hợp màu sắc giữa bầu trời, ánh trăng và không khí của mùa xuân, làm cho dòng sông mùa xuân vốn tươi đẹp lại tràn ngập sắc “xuân”, làm cho không sáng đêm khuya sáng bừng lên bởi vẻ đẹp của đất trời, của vạn vật.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng không phải bơi thuyền trên sông để ngắm cảnh mà nhằm một mục đích cao cả hơn, to lớn hơn, đó là “bàn việc quân”. Câu thơ gợi hình dung ra hình ảnh của Bác với những người cộng sự của mình đang luận bàn việc nước, những công việc có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của một dân tộc. Không khí họp bàn khá nghiêm tức nhưng lại không bị lên gân, cường điệu một cách thái quá, điều này thể hiện được một tâm hồn tư thái, tinh thần bản lĩnh của những người làm chủ. Đặc biệt trong câu thơ này còn có sự kết hợp giữa cảnh vật với lòng người “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh ánh trăng ngân như báo hiệu một tương lai tươi sáng, rực rỡ của cách mạng, của đất nước.
Như vậy, ở trong cả hai bài thơ, Hồ Chí Minh đều thể hiện được tình yêu đối với thiên nhiên, vạn vật và phương tiện để truyền tải tình yêu ấy chính là ánh trăng, và trong cả hai bài thơ thì hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng cũng hiện lên thật đẹp, dù có trăn trở suy tư hay thư thái, tự tin thì đều rất đáng trân trọng, vì con người ấy dành trọn vẹn tình cảm, tâm hồn mình cho đất nước, cho quê hương.
Làm sáng tỏ nhận định Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người - mẫu 2
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại nhưng người nghệ sĩ không sao chép y nguyên hiện thực ấy. Tác phẩm nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng là kết quả của quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén để tạo ra một thế giới sinh động, hấp dẫn. Thơ mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo, chứa đựng tình cảm, cảm xúc riêng nhất. Bởi thế Atona Phrăng xơ đã nhận xét "Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người"
“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục” (J Paul. Sartre). Sự đọc đơn giản là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm nhưng chính là máu để biến một thể xác vật chất thành một sinh thể có cảm xúc, có vui buồn, có trăn trở. “Câu thơ hay” là câu thơ có giá trị về cả nội dung và hình thức, có thể tạo nên những rung động trong trái tim người đọc. Khi “đọc một câu thơ hay”, chúng ta sẽ “bắt gặp”, tức là phát hiện, gặp gỡ, đồng cảm với những suy nghĩ và cảm xúc của người nghệ sĩ.
Nhận định của Atona Phrăng xơ đã bàn đến đặc trưng của thơ ca vốn là tiếng nói trữ tình, tiếng nói của trái tim mang tính cá thể sáng tạo của chủ thể trữ tình. Nhà thơ những con ong hút nhụy từ bông hoa đời sống. Không có sự tái tạo tài tình của những con ong thì phấn hoa cũng không trở thành mật ngọt. Nhưng không có những chuyến bay xa để đem về hương phấn cho đời thì ong cũng không tự mình làm nên mật ngọt…Nhà thơ đã lao động nghệ thuật hăng say, đã thực sự nhập tâm vào cuộc sống để bật ra từ trong tim những vần thơ hay nhất.
Thơ là cuộc đời cũng là trái tim. Tình cảm trong thơ là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sức rung động của thi ca. "Thơ muốn làm cho người ta khóc trước hết mình phải khóc. Thơ muốn làm cho người ta cười trước hết mình phải cười." Bởi vậy để có được một câu thơ hay, để truyền tải được sợi dây tình cảm người nghệ sĩ mang trong lòng, câu thơ phải xuất phát từ cái tâm và cái tài của người cầm bút. Và cái tâm, cái tài ấy đã có trong "Độc Tiểu Thanh kí" và "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du.
Sống trong thời đại nhiều biến cố với những trải nghiệm trong môi trường quý tộc và cuộc sống phong trần đã đem đến cho Nguyễn Du vốn sống thực tế phong phú, thôi thúc ông suy ngẫm về xã hội, về thân phận con người. Các tác phẩm của ông xuất hiện khá đậm nét hình tượng những người ca nhi, kĩ nữ với tiếng đàn, giọng hát và thân phận đau khổ, bất hạnh. Tất cả được Nguyễn Du yêu thương, trân trọng, đồng cảm…
Tâm hồn của Nguyễn Du trong tác phẩm "Độc Tiểu Thanh kí" và "Truyện Kiều được thể hiện đầu tiên là ở sự ngợi ca, trân trọng, tin vào khả năng, phẩm chất của con người. Trong "Độc Tiểu Thanh kí", nhà thơ xây dựng hình ảnh một nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn:
"Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương vô mệnh lụy phần dư"
"Son phấn" và " văn chương" là hai hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho vẻ đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh, một người con gái trẻ xinh đẹp lại có tài thơ ca, đàn hát là những giá trị tinh thần cao đẹp.
Trong thi phẩm "Truyện Kiều", Nguyễn Du cũng xây dựng một nàng Kiều tài sắc nhưng thủy chung, tình nghĩa. Phần mở đầu của tác phẩm, nhà thơ đã ngợi ca:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai."
Sắc đẹp của Kiều không ai có thể sánh nổi. Đó là vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, là vẻ đẹp hoàn hảo khiến "hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh". Tài năng của Kiều là đủ loại "cung thương làu bậc ngũ âm" họa hay còn có người thứ hai. Đã đẹp, đã tài, Kiều còn là một người con hiếu thảo:''Làm con trước phải đền ơn sinh thành." Khi gia đình gặp tai biến, nàng đã quyết hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha. Thậm chí, khi phải sống trong cảnh đầm lầy nhơ nhớp ở lầu xanh, nàng vẫn một lòng nghĩ về mẹ cha:
''Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà"
Không chỉ hiếu thảo mà Thúy Kiều còn là một người hết mực chung tình:
''Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Mặc dù đã tìm người trả nghĩa, trả tình cho chàng Kim nhưng Kiều vẫn đau xót, dằng xé tâm can cho rằng mình đã phụ bạc người yêu. Nàng đã cất lên tiếng khóc, tiếng nấc cho mối tình dang dở nhưng cũng là cất lên khát khao tự do, hạnh phúc:
"Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa"
Là một người con gái sống trong thời đại "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" nhưng Kiều rất chủ động đi tìm tình yêu của mình "xăm xăm lăng lối vườn khuya một mình" đến thề nguyền với Kim Trọng. Kiều mang dáng dấp của người phụ nữ hiện đại, chủ động, kiên quyết và hơn cả luôn ý thức về giá trị của bản thân, luôn đau đớn về nhân phẩm bị chà đạp:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?"
Thúy Kiều xinh đẹp là thế, tài năng là thế, hiếu nghĩa đủ đường là thế; Tiểu Thanh tài sắc, trẻ trung là thế nhưng cả hai cũng chỉ là người phụ nữ sống trong chế độ xã hội "trời xanh quen thói má hồng đánh ghen." Nguyễn Du ca ngợi, trân trọng cũng đồng thời là đồng cảm, xót thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh:
"Đau đớn thay phận đàn đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Viết "Độc Tiểu Thanh kí", Nguyễn Du cất tiếng khóc cho cuộc đời, số phận nàng Tiều Thanh. Tiểu Thanh, một người con gái tài sắc nhưng mới mười sáu tuổi đã phải làm vợ lẽ, mười tám tuổi đã chết trong cô độc ở vườn hoa Tây Hồ. Sau khi chết, những bài thơ, những nỗi lòng chất chứa trong thơ của nàng cũng bị người vợ cả đốt thành tro. Cái chết ấy, nỗi đau ấy của Tiểu Thanh không nhận được sự đồng cảm, xót thương của người đời mà phải đến ba trăm năm sau ngày nàng mất, Nguyễn Du mới ngậm ngùi:
"Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi vấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư"
Còn Thúy Kiều, Nguyễn Du đã hóa thân vào nàng để cảm nhận tận cùng nỗi đau, nỗi xót của một tiểu thư khuê các "êm đềm trướng rủ màn che" nhưng phải gặp bất hạnh mười lăm năm đoạn trường lưu lạc, nhân phẩm bị chà đạp. Kiều, một người con gái xinh đẹp, đủ tài cầm kì thi họa tấm lòng lại hiếu nghĩa, son sắt thoắt cái đã bị đẩy xuống lớp bùn nhơ nhớp "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần". Kiều cất tiếng khóc, tiếng than cho phận mình hay cũng chính cõi lòng Nguyễn Du đang tan nát:
"Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạng sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân"
Những câu hỏi"sao…", "sao…" cứ xoáy vào cõi lòng đến đau buốt, nhức nhối ngàn năm không có lời đáp. Là Nguyễn Du đang tự hỏi mình, hỏi người, hỏi cả lịch sử những câu đau xé đó ư? Những lần Kiều bị đánh, bị hành hạ về thể xác, phải chăng mỗi ngọn roi đánh lên người nàng cũng là ngọn roi vô hình giáng lên trái tim Nguyễn Du?
"Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm nào chẳng đau"
Cuộc đời Kiều, nỗi đau của Kiều không còn là một bi kịch mà một chuỗi những bi kịch cứ nối tiếp nhau. Mỗi lần nàng cố ngoi lên, muốn vươn lên để gọi là được sống thì là một lần bị dìm xuống sâu hơn nữa. Thúc Sinh rồi Từ Hải đến và cho cuộc đời Kiều ánh sáng nhưng rồi sớm đi, để lại bóng đêm ngày càng đen tối cho đời nàng. Cuối cùng, nàng đã tự tử nhưng không thành, đã đoàn tụ cùng gia đình nhưng tất cả đã lỡ làng, hạnh phúc không còn được trọn vẹn…
"Độc Tiểu Thanh kí" hay "Truyện Kiều", cả hai đều là máu của Nguyễn Du chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên từng trang giấy. Nhà thơ rung cảm trước những con người tài sắc vẹn toàn nhưng cũng xót thương trước số phận, kiếp người tài hoa bạc mệnh. Có một thế lực đằng sau đang cố tình bẻ ngang cuộc đời của những người con gái ấy:
"Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân"
Các thế lực tàn ác trong xã hội phong kiến là tư tưởng trọng nam khinh nữ, là quy luật vạn sự bất biến "có tài mà cậy chi tài- chữ tài liền với chữ tai một vần" đã vùi dập lên quyền sống của người phụ nữ nói chung và Tiểu Thanh, Thúy Kiều nói riêng. Càng thương cảm cho nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều, cho những vẻ đẹp nhân sinh bị vùi đập, Nguyễn Du càng căm ghét những thế lực ấy. Là một con người đã trải qua trường đời, đã thấm hết vị mặn chát đắng cay, nhà thơ thấu hiểu nỗi hận vì cái đẹp, cái tài bị vùi dập, bị đối xử bất công, phũ phàng. Ông thấu hiểu nỗi đau của nàng Tiểu Thanh, của một kiếp làm lẽ, cô độc bị đày đọa " chém cha cái kiếp lấy chồng chung" nhưng chỉ có thể đóng kín trong tim, cho dù có cất lên thành lời, suốt đời chỉ là câu hỏi không lời đáp:
"Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư"
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Số phận của Tiểu Thanh cũng là số phận của Kiều. Những thế lực gây ra bi kịch của cuộc đời Tiều Thanh cũng chính là thế lực gây ra bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Tuy nhiên với cuộc đời Kiều, những thế lực ấy đều chịu ảnh hưởng, chịu điều khiển của thế lực tàn bạo nhất: thế lực của đồng tiền:
"Trong tay có sẵn đồng tiền
Dẫu làm đổi trắng thay đen khó gì?"
Đồng tiền đen tối trong tay kẻ tham lam đã gián tiếp gây nên tấn bi kịch cho không chỉ cuộc đời Kiều mà còn của những người không quyền lực, không tiền tài trong xã hội đầy bất công. Chỉ vì một lời tố cáo vu vơ của tên bán tơ mà bọn quan lại, sai nha bắt bớ Vương Ông và Vương Quan hành hạ đòi đút lót:
"Tính bài lót đó luồn dây
Có ba trăm lạng việc này mới xong"
Cũng chỉ vì tiền để chuộc cha và em, Kiều cũng bán rẻ đi sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của mình:
"Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm"
Vì chạy theo đồng tiền, cuộc đời Kiều chìm xuống đáy vực sâu của xã hội. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền, chịu sự điều khiển của đồng tiền mà ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời của người khác. Con người, đặc biệt là người phụ nữ sống trong xã hội trị vị bởi đồng tiền mà ngay cả quyền tự do, được sống, được yêu thương cũng bị tước đoạt.
Từ cảm thương sâu sắc cho bi kịch nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều, từ thái độ lên án, vạch trần xã hội bất công, Nguyễn Du bắc nhịp cầu giao cảm để thấy mình là người cùng hội cùng thuyền với các nàng, cũng là những phận tài hoa bất hạnh:
"Phong vận kì oan nhã tự cư"
(Ta tự cho mình là người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã)
Nỗi oan tài hoa bạc mệnh không chỉ riêng Tiểu Thanh hay Kiều mà còn kết cục chung của những kẻ có tài từ cổ chí kim, trong đó có Nguyễn Du. Nhà thơ như "mượn chén rượu người để xót rượu mình", tự nhận mình giống Tiểu Thanh, giống Kiều, giống bao con người tài hoa khác "mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã." Có tài, có sắc là lẽ thường tình, nhưng thói đời là thế thường ghen ghét với kẻ tài và không chấp nhận sự hoàn hảo nên hễ cho ai đủ cái này lại lấy bớt đi cái kia. Bởi vậy, cả Nguyễn Du, cả người tài hoa đều mắc án "kì oan", đều mang trong lòng mối hận cổ kim khó lòng mà hỏi trời được. Bế tắc, tuyệt vọng không lời giả đáp, cô đơn hiu quạnh không ai sẻ chia. Chỉ đành đợi đến " ba trăm năm lẽ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?"
"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"
Chủ nghĩa nhân đạo đã thấm nhuần và đạt đến đỉnh cao trong trang thơ của đại thi hào: thương người gắn liền với thương thân. Từ nỗi thương người, từ tiếng khóc thương đời, Nguyễn Du cất lên tiếng khóc thương mình. Cô độc trước thực tại, nhà thơ khao khát tìm được sự đồng cảm, tri ân từ hậu thế. Khóc nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du mong muốn tìm được dù chỉ là một tiếng khóc cất lên thương cảm cho số phận mình…
Nhưng, không cần đợi đến ba trăm năm nữa, hậu thế đã có rất nhiều tiếng nói đồng cảm dành cho đại thi hào dân tộc. Khát vọng của Nguyễn Du là khát vọng chung cho cả nhân loại đi tìm sự tự do, hạnh phúc. Bởi thế, tiếng nói tri âm gắn kết thành mạch nguồn đồng điệu muôn đời của văn học vượt cả không gian và thời gian.
Nguyễn Du đã sống trong thời đại chao đảo, nhiều biến động, đã đứng trước cái vô hạn của cuộc đời tuần hoàn biến chuyển, trước cái lạnh lẽ của lòng người vô thủy vô chung. Chính thời đại ấy đã hình thành nên ở Người một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cùng một trái tim nhân đạo lớn dành cho con người, cho những kiếp má đào, cũng là cho chính mình. Từ một người con gái tài hoa bị cuộc đời vùi dập trong cơn thương hải tang điền trong "Đoạn trường tân thanh" đến một kiếp làm lẽ trong "Độc Tiểu Thanh kí" đều được Nguyễn Du yêu thương, xót xa. Đó vừa là lời tố cáo xã hội, vừa chứa đựng tư tưởng xã hội nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
Đọc một bài thơ nghĩa là ta nhận thức được tâm hồn của nhà thơ, của chính mình để hồn được phong phú. Chúng ta đồng cảm, chúng ta tri âm, chúng ta rung động trước ngòi bút, trước tài năng, trước tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy xuất phát từ trái tim nhà thơ chính là yếu tố cốt lõi tạo nên mối quan hệ vô hình, sự đồng điệu giữa nhà thơ và độc giả. Chẳng vậy mà nhà văn Bùi Hiển cho rằng: "Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông, sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết". Trái tim trong nhà thơ và tình cảm nhân đạo cao cả cũng chính là yếu tố làm nên sức sống lâu bền cho thơ ca, nghệ thuật.
Tiếng khóc thương người, thương thân của Nguyễn Du cất lên từ ba thế kỉ trước đã lặng lẽ chảy theo thời gian, theo những phận người đau khổ ấy đến tận ngàu nay để làm nhức nhối vạn triệu người về một vết thương đã lành nhưng chưa hết đau. Ánh sáng của thời đại mới đã chiếu rọi và trả lại giá trị cho tên tuổi Nguyễn Du trong lòng dân tộc. Trái tim luôn âm ỉ, trăn trở với nỗi đau thờ thế đã chạm đến và lay động trái tim của chúng ta ngày hôm nay tựa như một chân lí bền vững theo thời gian.