Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến
Đề bài: Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến
Dàn ý Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến
1, Mở bài.
- Giới thiệu bài thơ, tác giả và hoàn cảnh sáng tác.
- Khái quát chung về bài thơ: miêu tả cuộc sống khó nhọc của người làng quê dưới thời quan Tây, gián tiếp tố cáo hiện thực xã hội bòn rút, bóc lột nhân dân đến tận xương tuỷ.
2, Thân bài.
- Phân tích đề tài, chủ đề, cảm hứng của bài thơ.
- Phân tích bài thơ theo khổ để làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật.
- Đánh giá tình cảm, tấm lòng của nhà thơ.
3, Kết bài.
- Khẳng định giá trị của bài thơ.
- Mở rộng, liên hệ.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 1
Nguyễn Khuyến đã có một thời gian dài gắn bó với chốn quan trường, phục vụ cho dân cho nước. Song ông sớm từ bỏ chốn danh lợi thị phi do bất mãn với chính quyền để về quê ở ẩn. Với tư cách là một người trong cuộc ông thấu hiểu với nỗi vất vả, khốn khó của người dân dưới ách áp bức của thực dân phong kiến. Bài thơ Chốn quê được sáng tác với cảm hứng như thế. Toàn bài thơ là nỗi lòng của ông về cuộc sống khốn khổ trăm đường của nhân dân, ông thương cảm, xót xa cho những cảnh bất hạnh quần quật quanh năm mà đói nghèo vẫn đeo bám.
Thật ra đề tài về cuộc sống khốn khó của người nông dân trước cách mạng tháng tám không hiếm. Phải nói rất nhiều, những tác phẩm truyện ngắn hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn, những bài thơ của nhiều tác giả khác cùng thời với Nguyễn Khuyến đều đã phản ánh rất nhiều. Song đến với bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến chúng ta thấy một màu sắc rất riêng. Ông khai thác trên nền đề tài vốn đã cũ để thổi vào đó luồng gió mới. Cũng là cảnh khổ, cái đói nghèo, cái sự khốn cùng của nhân dân nhưng lại được Nguyễn Khuyến diễn tả một cách nhẹ nhàng, thấm thía. Với những thi liệu rất gần gũi, quen thuộc bài thơ đã mở ra một không khí của chốn làng quê, tuy đói nghèo nhưng vẫn không túng quẫn. Đó là cái nhìn trân trọng của nhà thơ với số phận của những người nông dân trước cách mạng:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Những câu thơ như là ông đang nói hộ nỗi niềm của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Họ như đang ngồi lại với nhau để bộc bạch sự khốn khó của mình. Đó là những cảnh nghèo vất vả trong nhiều năm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn chẳng ăn thua nghĩa là công cốc, chả bỏ ra được gì. Bởi đâu do như vậy? Chẳng phải do người lao động không cố gắng mà vì rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác. Thứ nhất là do mùa màng thất bát, thời tiết không ủng hộ. Thứ hai là do thuế sưu quá nặng, thuế để nộp quan tây, thuế để nộp địa chủ. Thứ ba là công thuê mướn người làm nửa công cho đứa ở, nửa công thuê bò làm ruộng… thành thử trừ tất cả đi người nông dân chẳng còn lại là bao. Cả một mùa vất vả một nắng hai sương ngoài ruộng đồng, thứ họ nhận lại được chẳng đáng với công sức đã bỏ ra. Phép đối và liệt kê đã được sử dụng rất chuẩn chỉnh thể hiện những khó khăn chồng chất khó khăn của người lao động. Đồng thời cũng thể hiện thái độ trân trọng, cảm thông của nhà thơ với những lo toan của người nông dân.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Bốn câu thơ cuối là tiếng thở dài của người lao động. Vì cuộc sống vất vả, khốn khó nên họ đã tằn tiện tiết kiệm từng đồng hào. Bữa ăn đạm bạc chẳng có gì “sớm trưa dưa muối” để cho qua bữa, những thú vui giản dị như trầu chè cũng chẳng dám mua. Mọi thứ đã tiết kiệm hết mức có thể ấy thế mà đời sống vẫn chẳng thay đổi, chẳng khấm khá hơn được.
Câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một câu hỏi tu từ “Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” đầy tâm trạng của người lao động. Bao giờ cho hết đường lo đây, nếu xã hội vẫn bất công, chế độ thực dân phong kiến vẫn đàn áp như bây giờ thì đời sống của người nông dân sẽ chẳng bao giờ tốt hơn được.
Bài thơ miêu tả cảnh sống khốn khó của người nông dân bằng ngòi bút chân thực. Nhà thơ như sống cùng với họ, thấu hiểu tâm trạng và nỗi niềm của họ, nói thay nỗi lòng của họ bằng một giọng thơ ngậm ngùi, chua xót. Qua đó chúng ta cũng hiểu thêm về con người Nguyễn Khuyến, một nhà thơ của làng quê Việt Nam, luôn sống và thấu hiểu người dân bằng tất cả tấm lòng của mình.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 2
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn thời kỳ trung đại, các tác phẩm của ông thường phản ánh cuộc sống của những mảnh đời khổ cực, thuần hậu, chất phác và châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước. Bài thơ “Chốn quê” cũng là một trong những thí dụ điển hình trong phong cách thơ Nguyễn Khuyến.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, miêu tả cuộc sống khốn khó của những người nông dân trong thời kỳ đầu thế kỷ 19. Trong hai khổ thơ đều sử dụng những từ ngữ miêu tả tình cảnh bạc bẽo, khốn đốn, vất vả của người nông dân khi luôn phải suy nghĩ về công việc ruộng nương, bữa ăn hôm nay, bởi tình trạng mất mùa, làm ăn thua, không kiếm được bao nhiêu, đã vậy còn phải nộp những thứ thuế hết sức vô lý cho bọn quan lại phong kiến, thực dân “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ/Nửa công đứa ở, nửa thuê bò”. Vậy nên trong bữa ăn dưỡng sức để tiếp tục công việc bán mặt cho đất, bán lưng cho trời chỉ vỏn vẹn có món “dưa muối” hết sức giản đơn. Cần kiệm, vất vả mưu sinh là thế, đến chợ chả dám mua gì, tiết kiệm chi ly từng tí một, nhưng có tích góp bao nhiêu đi chăng nữa vẫn không khá lên, thế nên trong bài thơ, Nguyễn Khuyến có viết “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ/ Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” hai câu thơ như là tiếng nói cất lên trong tâm của những người nông dân. Ai cũng muốn mình có một cuộc sống ấm êm không lo toan bất cứ điều gì, song cuộc sống, thời kỳ bị đô hộ, cướp bóc, tra tấn, những người nông dân thấp cổ bé họng, không có tiếng nói, phải bị cam chịu, làm việc cực nhọc từng ngày một, gánh vác trên lưng là bữa ăn của cả giả đình, cả đống thứ thuế tàn ác, vô lý.
Điều đó cho thấy được những bất công mà nhân dân ta thế kỷ trước đã phải hứng chịu. Một mặt, Nguyễn Khuyến dùng từ ngữ sinh động, giản đơn, khắc họa nên bức tranh với những xúc cảm tha thiết, đồng cảm, thương yêu sự vất vả, khổ nhọc trong cuộc sống của người nông dân. Mặt khác nhà thơ lại vạch trần nên tội ác tàn bạo của bọn quan lại bán nước, bọn thực dân luôn ban hành những thứ thuế vô lý, tàn nhẫn, đàn áp những người dân vô tội, chất phác.
Qua bài thơ “Chốn quê”, Nguyễn Khuyễn đã thành công tái hiện lại sự khó khăn, lo lắng của người nông dân cho thế hệ sau qua ngôn từ sinh động giản đơn, giàu hình ảnh, giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng chứa đựng những xúc cảm thương xót, cảm thán, đau buồn và đồng thời bài thơ chính là minh chứng cho việc xã hội phải đối mặt với công bằng, những người nông dân phải cần được ủng hộ, bảo vệ quyền lợi và hy vọng trong tương lai xã hội sẽ ngày càng văn minh, tốt đẹp, người người vui vẻ, hạnh phúc, ấm no.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 3
Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của họ.
Dân quê ta đa số là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chẳng khá?
Nhờ trời rồi cũng mất gian kho!
Chỉ với 4 câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên một bức tranh hiện thực của xã hội thời bấy giờ:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Bằng 1 từ “vẫn”, nhà thơ đã chỉ ra thực tế Người dân bị mất mùa liên tiếp “Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa”. Sự thất bát về mùa vụ, gánh nặng “thuế quan Tây”, gánh nặng trả nợ cho cuộc sống đã đẩy người dân vào đường cùng cực, đói kém.
Ngay cả nhu cầu đơn giản về cuộc sống cũng chẳng đáp ứng nổi:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chẳng khá?
Dù đã cố gắng ăn uống đạm bạc, không dám chi tiêu bất cứ nhu cầu gì của bản thân, thế nhưng, cuộc sống vẫn khó khăn, chẳng có đồng ra đồng vào.
Chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã vạch trần được sự tàn ác của thực dân Pháp, phơi bày cuộc sống khốn cùng, khổ cực của người nông dân thời bấy giờ. Mặc dù nhà thơ đồng cảm với người dân nhưng lại bất lực trước hiện thực, những câu hỏi đặt ra chỉ để lửng mà chẳng có lời đáp.
Có thể nói, nhà thơ Nguyễn Khuyến sống giữa một thời kỳ mà các phong trào đấu tranh yêu nước thời bấy giờ, phần lớn các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị thực dân, đế quốc dập tắt.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến thời gian này cảm thấy bất lực vì không thể làm được gì để có thể thời đổi được thời cuộc lúc bấy giờ nên ông xin cáo quan về ở ẩn.
Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.
Ông là một trong những nhà thờ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, nhưng ông càng đau đớn hơn khi nhìn thấy cảnh đất nước bị dày xéo và cảm thấy day dứt nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 4
Trong những năm đầu khi phong kiến vẫn còn tồn tại, cuộc sống của những người nông dân vô cùng vất vả. Họ phải chịu hoàn cảnh 1 cổ nhiều tròng, chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Chốn quê của Nguyễn Khuyến thể hiện rõ hoàn cảnh trớ trêu đó.
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Bài thơ miêu tả cuộc sống khó khăn của người dân nông thôn, được thể hiện qua những từ ngữ như “mấy năm làm ruộng vẫn chân thua”, “phần thuế quan Tây, phần trả nợ”, “nửa công đứa ở, nửa thuê bò”. Bài thơ cho thấy cuộc sống của người nông dân đầy gian khổ, phải đối mặt với nhiều khó khăn về mặt kinh tế, phải chịu cảnh đói khổ, thiếu thốn và không có tiền để mua thực phẩm, đồ dùng cần thiết.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Bài thơ đặt ra câu hỏi “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” để phản ánh sự mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn, khi họ phải sống kiệm kẹm, tiết kiệm nhưng vẫn không có đủ để khỏi đường lo. Điều này cho thấy sự bất công và khó khăn trong cuộc sống của người nông dân, khi công lao lao đầu đều không đủ để cải thiện đời sống.
“Chốn Quê” là một tác phẩm thơ ca đầy cảm xúc, thể hiện cái nhìn sâu sắc và góc nhìn chân thực của tác giả về cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Đồng thời, nó cũng là lời hồi chuông cảnh tỉnh về những bất công và khó khăn mà người dân nông thôn phải đối mặt, gửi gắm thông điệp về sự cần thiết của sự công bằng xã hội và quan tâm đến cuộc sống của những người làm ruộng, đồng bào nông dân – những người góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, trong bài thơ “Chốn Quê”, Nguyễn Khuyến cũng thể hiện sự đối diện và chấp nhận thực tế cuộc sống của người dân nông thôn. Họ chấp nhận số phận, không dám mua những món đồ xa xỉ như dưa muối, trầu chè, chỉ cần đủ qua bữa là đủ:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tuy nhiên, tác giả cũng lên tiếng về sự bất công và khó khăn trong việc kiếm sống của họ, với việc công việc làm ruộng vẫn chưa đủ để giúp họ thoát khỏi đường lo khốn khổ.
Tóm lại, bài thơ “Chốn Quê” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca sâu sắc và đầy cảm xúc, thể hiện cái nhìn chân thực về cuộc sống nông thôn và những bất công xã hội. Đồng thời, nó cũng là lời kêu gọi sự quan tâm và quan tâm đến cuộc sống của người dân nông thôn, và hy vọng vào một tương lai công bằng hơn cho xã hội.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 5
Bài thơ “Chốn Quê” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca về cuộc sống của người nông dân miền quê Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Bức tranh về nỗi khổ khó, tính kiệm kẹm và mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn được tác giả khắc họa một cách chân thực, đem đến sự đồng cảm và suy ngẫm sâu sắc về hoàn cảnh của họ.
Bài thơ bắt đầu với những dòng chữ đầy cay đắng:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Điều này cho thấy cuộc sống làm ruộng của người dân nông thôn là một chuỗi thất bại, vất vả và đầy nhọc nhằn. Nỗi khổ khó trong cuộc sống được thể hiện qua việc phải đối mặt với nợ nần, thuế quan, phải dùng nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tác giả cũng miêu tả cảnh đời sống thiếu thốn của người dân nông thôn khi phải sớm trưa dưa muối để qua bữa, không dám mua búa trầu chè tại chợ, cho thấy tính kiệm kẹm và khó khăn trong việc chi tiêu.
Tuy nhiên, điều đáng suy ngẫm là dù đã sống kiệm kẹm, cần cù làm việc nhưng người dân nông thôn vẫn chưa có khả năng khá hơn trong cuộc sống. Tác giả đặt câu hỏi “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” để thể hiện sự mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn.
Họ đã nỗ lực, làm việc cật lực nhưng vẫn không thoát khỏi đường đời khốn khổ, vất vả. Đó là sự bóc lột của biết bao nhiêu tầng lớp lên đầu những người dân nghèo khổ và yếu đuối. Không có ai ra mặt giúp những người thấp cổ bé họng đó cả, vậy nên họ luôn phải chịu những ách áp bức nặng nề.
Bài thơ “Chốn Quê” là một lời ca tụng và gửi gắm nỗi niềm của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Đó là cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, nơi mà họ phải sống tích cực, đương đầu với khó khăn và bất công của xã hội.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 6
Là một nhà thơ gần gũi với quần chúng nhân dân, dường như Nguyễn Khuyến sinh ra là để nói lên những nguyện vọng, những tâm tư tình cảm và kể cả nỗi khổ cực của những con người đầu tắt mặt tôi mà suốt đời vẫn lầm lụi đi trong bóng đêm của sự nghèo nàn, túng quẫn.
Nhịp thơ ấy cũng đều đặn gõ vào thiên nhiên làng cảnh tạo nên những bức tranh thần tình có sức sông mãnh liệt và lay động lòng người. Những bài thơ của ông viết về cuộc sống đồng ruộng của những người dân chân lấm tay bùn cứ như là một cuốn nhật ký sống, một bức tranh hiện thực sinh động vô cùng mà cũng xót xa vô cùng: “Thơ Nguyễn Khuyến là nỗi lòng đồng cảm đối với cảnh sống khó khăn khổ cực của người dân, thơ ông thấm đượm cái vị chua mặn của mồ hôi, vị cay đắng của sự cơ cực, và cả cái bề bộn, bức bối của công việc đồng áng quanh năm” (Nguyễn Khuyến).
Người nông dân trong thơ ông hiện lên thật tất bật. Ây vậy mà cuộc đời cũng có khá lên được đâu, hỏa hoạn này đến hỏa hoạn khác cứ kéo nhau ập lên đôi vai đã quá mệt nhọc, vất vả của họ. Cụ thể, trong bài Chốn quê (làm ruộng), tác giả viết:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Cả bài thơ là một bức tranh hiện thực, trần trụi đến não lòng. Quanh năm, cứ năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác nôi nhau, người dân phải “bán mặt cho đất”, “bán lưng cho trời” thế mà vẫn không thể nào ngóc đầu, khấm khá lên được. Họ cật lực lao động đâu phải chỉ để có miếng cơm nuôi miệng, mà còn phải trang trải bao nhiêu thứ nữa, nào là thuế quan, nào là đứa ở, trả nợ.
Tằn tiện quá rồi, không dám ăn thế mà vẫn đói, vẫn khổ. Cuộc sông của họ cứ quẩn quanh mùa này qua mùa khác và rất có thể là cả cuộc đời như thế, một cuộc đời chỉ lo miếng cơm manh áo mà đủ mệt. Không đủ ăn chẳng phải là họ lười biếng, bê trễ công việc mà là bởi:
Tị trước tị này chục lẻ ba
Thuận dòng nước cũ lại bao la
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong lượn khắp nhà.
(Lụt)
Đói kém thiếu ăn còn vì cả:
Quan mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi
Vùng ta nay cũng lụt mà thôi
Gạo năm ba bát cơ còn két
Thuế một hai nguyên dáng chửi đời.
(Lụt Hà Nam)
Không biết rằng từ lúc Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn thì đã có bao nhiêu năm đói kém, mất mùa mà lúc nào trong thơ ồng cũng thấy vọng lại cái âm thanh lo sợ, cay đắng của những hình ảnh ấy. Những hình ảnh thật thương tâm và đau lòng. Có thấm thìa, thông cảm và hiểu được một cách cặn kẽ sâu sắc cuộc sông đó thì ông mới có thể nói lên được những điều tâm huyết như vậy.
Cái khổ sở của người nông dân nếu chỉ do thiên tai gây ra thì không đến nỗi, đằng này lại còn phải nộp thuế cho quan Tây. Bọn thực dân kiếm ăn trên mồ hôi nước mắt, vơ vét đến kiệt cùng sức lao động của nhân dân. Chúng cưỡi lên đầu lên cổ của kẻ khác để kiếm lợi lộc mà không một chút thương tâm, không một chút chạnh lòng nghĩ tới số phận nông nổi của những con người hiền lành, chất phác.
Đáng quý biết bao khi cuộc sống của chính nhà thơ cũng có tươi sáng gì cho cam, vẫn là “sớm trưa dưa muối cho qua bữa”, vậy nhưng trong hoàn cảnh ấy cái nhìn của ông vẫn hướng những điều lạc quan, lạc quan cho mình và cho tất cả mọi người. Phải chăng cuộc sống dù là trăm đắng ngàn cay như thế đấy nhưng nó vẫn đẹp, vẫn có ý nghĩa nếu như ta biết yêu mến cuộc sống và quý trọng những thành quả lao động.
Với nghệ thuật sử dụng hình ảnh giản dị, gần như thoát khỏi hệ thông tượng trưng ước lệ của thi pháp trung đại cùng với tâm lòng nhân hậu bao dung của ông, Nguyễn Khuyến đã dựng nên những bức tranh chân thực về cuộc sống khổ cực của người nông dân, chân quê. Ông xứng đáng với danh hiệu là “nhà thơ của dân tình làng cảnh”.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 7
Nguyễn Khuyến được đánh giá là một trong những hồn thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Những vần thơ của ông luôn rất bình dị mà ẩn chứa nhiều điều tâm đắc, ý nghĩa về cuộc sống. Có nhiều bài thơ được sáng tác với đề tài, cảm hứng quen thuộc nhưng gợi lên những giá trị, ý nghĩa sâu sắc tiêu biểu như bài thơ Làm ruộng.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, luật vần bằng vì có tiếng thứ hai ở câu thơ đầu tiên “năm” là thanh ngang, gieo vần chân ở các từ “thua”, “mùa”, “mua”, “bữa”, niêm luật tuân thủ khá chặt chẽ của những đặc trưng trong thơ ca Đường luật.
Cụ thể tiếng thứ hai trong câu hai và câu ba, trong câu bốn và câu năm, câu sáu và câu bảy, câu một và câu tám đều cùng thanh với nhau, đối chuẩn chỉnh ở hai cặp câu thực và câu luận.
Điểm đổi mới ở bài thơ chính là đề tài sáng tác không phải từ những thi liệu quen thuộc, mang tính khuôn sáo mà là cuộc sống bình dị ở xung quanh nhà thơ. Cảm hứng sáng tác được khơi nguồn từ chính cuộc sống của nhà thơ, từ tình cảm dành cho những người nông dân nghèo dưới chế độ thực dân và phong kiến.
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Hai câu thơ gợi ra hoàn cảnh khốn khó của người nông dân trước cách mạng. Mấy năm tức là trong nhiều năm liền, người nông dân làm ruộng vẫn vất vả như vậy nhưng chẳng ăn thua, tức là chẳng thể đủ ăn, chẳng bỏ ra được đồng nào. Bởi vì chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa, khốn khó cứ chồng chất khốn khó.
Dẫu chịu khó cày cuốc, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thế nhưng người nông dân vẫn chẳng khấm khá lên được, nguyên nhân do thời tiết không thuận nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là do:
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Chúng ta đều biết những năm dưới chính quyền thực dân phong kiến người nông dân phải chịu hai loại xiềng xích, một là chính quyền phong kiến, hai là thực dân. Hai chế độ áp bức hà khắc này liên kết với nhau để bòn rút tới tận xương tuỷ của người nông dân.
Chính sách thuế má nặng nề, tô thuế các loại như thuế đất, thuế gạo, thuế thuốc… khiến người nông dân không còn thứ gì để bấu víu. Thành thử cuối năm dẫu mùa màng có thuận lợi thì công sá còn lại chẳng bao nhiêu.
Phép liệt kê nào thuế quan, nào trả nợ ruộng, nào cho đứa ở, nào thuê trâu bò làm ruộng… ngần đấy thứ đổ lên đầu người nông dân đã cho thấy tình cảnh khốn khó ấy
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Vì đời sống khốn khó, vì trăm thứ nợ, thuế đổ dồn lên đầu nên cảnh sinh hoạt của người nông dân cũng thật đạm bạc “sớm trưa dưa muối” để tạm qua bữa, những thú vui điền viên dù rất đơn sơ cũng đành gác lại “trầu chè chẳng dám mua”.
Phép đối khá chỉnh ở cặp câu luận, đối trong các cặp “Sớm trưa dưa muối”, “chợ búa trầu chè”, “cho qua bữa”, “chẳng dám mua” đối trong hai câu “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa” với “Chợ búa trầu chè chẳng dám mua” khiến cho câu thơ vừa có tính chất phơi bày hiện thực cảnh sống đạm bạc, khốn khó của người nông dân, vừa thể hiện sự ngậm ngùi, xót xa của nhà thơ dành cho họ.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Bài thơ khép lại bằng một lời nhận xét của nhà thơ và một câu hỏi tu từ chưa có lời giải đáp. Nhà thơ tự hỏi thay những người nông dân sống cần kiệm quanh năm dưa muối như thế mà cuộc sống cũng chẳng khấm khá được lên chút nào. Trăm thứ phải lo đổ dồn lên đầu người nông dân không biết đến bao giờ mới hết cảnh phải lo nghĩ.
Chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi, tác giả Nguyễn Khuyến đã vạch trần được sự tàn ác của thực dân Pháp với đủ các thứ thuế, mưu mô bóc lột đến tận xương tủy của người lao động. Đồng thời phơi bày cuộc sống khốn cùng, khổ cực của người nông dân thời bấy giờ. Đó là cuộc sống đói nghèo, tăm tối không có lối thoát, không biết ngày nào mới ngóc lên được.
Mặc dù nhà thơ đồng cảm với người dân nhưng lại bất lực trước hiện thực, những câu hỏi đặt ra chỉ để lửng mà chẳng có lời đáp. Đó là lý do vì sao sau một thời gian làm quan dưới triều Nguyễn nhà thơ đã cáo quan về ở ẩn để tỏ thái độ bất mãn với chính quyền.
Làm ruộng đã phản ánh thật chân thật cảnh sống của người nông dân, qua đó tố cáo thâm trầm nhưng sâu cay chế độ tàn ác của thực dân phong kiến. Đồng thời thể hiện nỗi day dứt, khát vọng thay đổi chính quyền của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến - mẫu 8
Bài thơ “Chốn quê” (Làm ruộng) của tác giả Nguyễn Khuyến là một bức tranh hiện thực về sự khốn khó của người nông dân nghèo dưới thời quan Tây. Bằng những lời thơ hóm hỉnh, tác giả đã thể hiện sự bất mãn hiện thực một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn sâu cay.
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú đường luật. Hình ảnh người nông dân trong bài được hiện lên qua từ ngữ và hình ảnh: làm ruộng, chân thua, thuế quan Tây, trả nợ, nửa công đứa ở, nửa thuê bò, sớm trưa dưa muối, chợ búa trầu chè chẳng dám mua, cần kiệm, không khá, đường lo.
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Hai câu thơ này diễn tả những khó khăn, vất vả mà người nông dân phải đối mặt trong những năm tháng làm lụng. Dù cho có làm ruộng mà họ vẫn nghèo túng, chẳng ăn thua, lại còn phải đối mặt với mất mùa, đói kém.
Bài thơ được tác giả Nguyễn Khuyến sử dụng phép nghệ thuật đặc trưng nhất mà người đọc có thể nhận thấy là phép điệp ngữ. Các từ “phần” và “mất” được lặp lại trong các câu thơ chính là nét đặc trưng khi mới vào đầu bài thơ. Pháp nghệ thuật điệp ngữ giúp thể hiện tâm trạng của nhà thơ về cuộc sống nông dân khó khăn, đặc biệt là trong việc bày tỏ sự đau khổ, sự mất mát, sự chịu đựng và sự bất công của đời sống nông thôn.
Những câu hỏi đối thoại như “Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa” giúp nhà thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn rầu, và tạo nên một không khí u ám và đầy bi thương trong bài thơ.
Nó còn giúp nhà thơ tạo nên một sự gần gũi, dễ tiếp cận với độc giả khi gợi được những suy ngẫm và đặt độc giả vào hoàn cảnh của nhà thơ, gợi lên lòng đồng cảm và thấu hiểu về hoàn cảnh khó khăn của người nông dân, tạo nên một tác dụng gợi cảm, chân thật trong lòng độc giả. Nhờ vậy, người đọc càng dễ dàng đón nhận và thấu hiểu hơn về con người tác giả.