TOP 20 Phân tích bài thơ Chợ Đồng 2025 SIÊU HAY

23

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Chợ Đồng hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Phân tích bài thơ Chợ Đồng

Đề bài: Phân tích bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến.

Chợ Đồng

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng.

Năm nay chợ họp có đông không?

Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu tường đền được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xao xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

(Nguyễn Khuyến)

TOP 20 Phân tích bài thơ Chợ Đồng 2025 SIÊU HAY (ảnh 1)

Dàn ý Phân tích bài thơ Chợ Đồng

1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài thơ và nêu vấn đề.

- Chợ Đồng là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ phản ánh tinh tế tâm hồn và tình yêu quê hương đất nước của tác giả.

2. Thân bài:

* Giới thiệu chung về bài thơ (tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ…)

- Nguyễn Khuyến viết nhiều về nông thôn, ông là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).

- Bài thơ Chợ Đồng miêu tả phiên chợ tết ở nông thôn Bắc bộ, qua đó, tác giả thể hiện niềm xúc động, thương xót trước cuộc sống đói kém, cơ cực của người dân.

* Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ.

- Nội dung:

+ Miêu tả phiên chợ Đồng: Thời gian “Tháng chạp hai mươi bốn”; Không gian “Dở trời, mưa bụi còn hơi rét”; Con người thưa vắng “được mấy ông”, tất bật “xáo xác” và túng thiếu, nợ nần “Nợ nần năm hết hỏi lung tung”

+ Cảm xúc của tác giả: Ngậm ngùi, buồn vì phiên chợ, một nét văn hóa đặc trưng của vùng quê nay thưa thớt người mua bán (…có đông không? …được mấy ông?); Thương cảm, xót xa trước cuộc sống túng thiếu, nợ nần của nhân dân (Hàng quán người về nghe xáo xác/ Nợ nần năm hết hỏi lung tung); Le lói một niềm ước mong tốt đẹp cho cuộc sống của dân nghèo khi “tin xuân tới”. Cảm xúc của tác giả thể hiện tấm lòng thương dân, lo đời đáng quí.

- Nghệ thuật:

+ Ngôn ngữ bình dị, đậm chất nông thôn Bắc bộ.

+ Giọng thơ trầm lặng, đượm buồn.

+ Sử dụng tinh tế và hiệu quả câu hỏi tu từ, từ láy…

* So sánh với các tác giả, tác phẩm khác cùng đề tài, chủ đề.

- Cùng đề tài viết về cuộc sống khốn khổ do thiên tai, loạn lạc của người nông dân trong xã hội cũ, Nguyễn Khuyến không chỉ có bài thơ Chợ Đồng mà còn có nhiều tác phẩm khác như: Nước lụt ở Hà Nam, Chốn quê…

- Với tấm lòng thương dân, lo đời sâu sắc, Nguyễn Khuyến đồng cảm, xót xa với nỗi đời cay cực, cùng quẫn của nhân dân đương thời, nạn nhân của thiên tai, loạn lạc… Qua đó, ta thấy lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của tác giả.

3. Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vẻ đẹp nội dung và hình thức của bài thơ; nêu suy nghĩ, đánh giá về bài thơ.

- Bằng ngôn từ mộc mạc, giọng thơ trầm buồn, bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến phác họa bức tranh cuộc sống với những phong tục làng quê xưa, bày tỏ lòng yêu nước, thương dân thâm trầm mà sâu sắc.

- Chợ Đồng thể hiện tinh tế hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, người đọc hiểu thêm về cuộc sống, những phong tục cũng như cuộc sống cơ cực của người xưa. Từ đó, biết trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cũng như trân trọng cuộc sống tự do, yên bình hiện tại.

Phân tích bài thơ Chợ Đồng - Mẫu 1

Nguyễn Khuyến, danh xưng là nhà thơ tài năng của dân tộc, là người trồng cây nghệ thuật thơ làng quê Việt Nam. Trong hơn 70 năm sống, ông dành hơn 40 năm gắn bó với làng quê, nơi mà những con trâu, ruộng đồng, củ khai củ sắn không phải ai cũng để ý. Ít nhà thơ nào có khả năng chuyển tả hình ảnh dân dã vào thơ như ông, tạo ra những tác phẩm tinh tế, sâu sắc. Bài thơ Chợ Đồng là minh chứng, là nơi Nguyễn Khuyến gửi gắm nỗi xúc cảm sâu xa và nỗi đau của một tâm hồn yêu quê hương đất nước tha thiết.

Sau khi rời bỏ cuộc sống nhiễu nhương, Nguyễn Khuyến quay về quê nhà, làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng ông có chợ Đồng, mỗi tháng họp chín phiên, đặc biệt trong những ngày tết lại có ba phiên chợ tết. Phiên chợ tết thường đông vui và náo nhiệt, nhưng đến những năm đói kém và thiên tai, chợ trở nên vắng vẻ. Thậm chí, sau sự xâm lược của thực dân Pháp, chợ Đồng ngừng hoạt động hoàn toàn, làm cho giá trị văn hóa lâu dài của nó bị lãng quên. Hai câu đầu của bài thơ như là lời tác giả tự hỏi về người làng đi chợ phiên về và đồng thời thể hiện sự lo lắng của bản thân:

'Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?'

Làm sao ông hỏi như vậy? Và từ 'Năm nay' lại làm thế nào? Cảm nhận từ ngữ dè dặt, giọng thơ chậm rãi, như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm, tất cả đều là dấu hiệu rằng năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui. Có thể là năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng gặp khó khăn, và chẳng ai quan tâm đến chợ Tết. Hai câu thơ chứa đựng nhiều nỗi buồn, thấu hiểu cho cuộc sống khó khăn, đau đớn của những người nông dân. Nó là biểu hiện của một nhà trí thức gắn bó với niềm vui và nỗi buồn của nhân dân trong làng quê khốn khổ.

Chuyển sang hai câu thơ thực, Nguyễn Khuyến lại đặt một câu hỏi ngập tràn tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, hình bóng vắng lặng của những ngày giáp Tết, nơi không khí thấp thoáng đìu hiu, buồn bã.

'Trời mưa bụi còn làn da rét,

Uống rượu tường đền được bao nhiêu ông?'

Xuân về, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương. Những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt, nhưng ai đã đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết rằng nó cũng không tầm thường, làm ướt áo người như thế nào. Thứ mưa bụi kèm theo gió đông nhẹ, khiến cho không khí trở nên 'hơi rét', đốt lửa lạnh ngay cả trong lòng người. Ngẫm lại khi đứng dưới cơn mưa bụi, ai còn nhớ được sắc đỏ của pháo Tết? Mọi người đều muốn trốn trong nhà, đường phố trở nên vắng vẻ, đặc biệt là đối với một cái Tết ở làng quê nghèo. Thế rồi, giữa tất cả, vẫn có một cụ già, với cái gậy cũ, từng bước đi kiếm lại những giá trị văn hóa quý báu. Ông quay về với những người bạn già, nhưng năm nào rượu cũng trở thành nỗi buồn vì chẳng còn những người bạn quen thuộc. Một nhà nho chân chính, giờ phải sống lưu vong với sự lạc lõng và cô đơn, cảm giác xót xa và cô quạnh đến lòng thi sĩ.

'Hàng quán vắng tanh, tiếng xáo xác,

Nợ nần năm hết, hỏi lung tung.'

Sau đó, nhà thơ già bỗng nghe thấy những âm thanh mới, hy vọng rằng đó là tiếng hân hoan, sự vui mừng của ngày Tết. Thế nhưng, âm thanh đó không phải là niềm vui mà là tiếng xáo xác hỗn loạn. Đó là âm thanh của chủ nợ đòi nợ, tiếng con nợ khát tiền, lời nói qua tiếng lại tạo nên bức tranh khổ sở, đau đớn của người dân tại chợ Đồng. Mỗi người đều mang theo nỗi đau riêng, người không đòi được tiền cay đắng, giận dữ, người mắc nợ lại đầy xấu hổ và đau đớn. Thấy vậy, Tết ở đây không còn là thời điểm để vui mừng, mà là dịp mọi người nhận thức sâu sắc về nghèo đói, khốn khó của những người nông dân xưa, phải đối mặt với nỗi lo âu từng ngày lo miệng ăn, không còn nói đến niềm vui của Tết.

'Dăm ba ngày nữa, tin xuân về.

Pháo trúc ở nhà nào cũng vang lên một tiếng động.'

Sau khi phiên chợ kết thúc, nhà thơ trong nỗi buồn sâu sắc, tính toán rằng chỉ còn vài ngày nữa là Tết lại về. Ông sống trong lo âu cho cuộc sống khó khăn của nhân dân, mong mọi người có một cái Tết ấm áp, hạnh phúc, không phải là cảnh tiêu điều và xáo xác như trước. Tiếng pháo nhà ai đột ngột vang lên 'đùng', đánh thức những người đang trong nỗi buồn, làm tan biến nghèo đói, làm tan biến cái lạnh của mưa bụi rét mướt. Tuy nhiên, không biết pháo đó thuộc về nhà nào, liệu âm thanh kỳ diệu đó có thực sự hay không, Nguyễn Khuyến không thể xác định. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc giữa không gian những ngày cuối năm càng khiến tăng thêm nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong tâm hồn của thi sĩ.

Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến không chỉ là một tác phẩm xuất sắc, với nguyên liệu làng quê dân dã mà còn là một tác phẩm thể hiện sâu sắc tâm hồn nồng thắm của nhà thơ. Khuyến đã khám phá sâu hơn vào những cảnh vật, những âm thanh vốn rất bình thường, mang đến nhiều tầng cảm xúc hơn, đó là sự buồn bã lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự đau đớn trước cảnh cơ hàn. Cuối cùng, hơn cả, đó là tấm lòng yêu thương nhân dân, yêu thương đất nước một cách sâu sắc, mong rằng toàn bộ dân tộc có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no hơn, đặc biệt là trong những ngày sắp đến Tết.

Phân tích bài thơ Chợ Đồng - Mẫu 2

Xuân Diệu từng nhận xét "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam". Thật vậy, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, bên cạnh những tác phẩm trữ tình, trào phúng xuất sắc, Nguyễn Khuyến có một số lượng lớn tác phẩm viết về làng quê. Sau khi cáo quan về quê, nhà thơ đã gắn bó cuộc đời mình với thôn quê nên ông có sự gắn bó, thấu hiểu với mảnh đất quê nhà, bởi vậy mà mỗi cảnh vật thôn quê hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến đều thực sinh động, gần gũi và gợi cảm xúc.

Nguyễn Khuyến sau khi rời chốn quan trường nhiễu nhương, lui về ở ẩn ở quê nhà, đó là làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng Vị Hạ có chợ họp ở trong làng, gọi là chợ Và. Hàng năm cứ đến phiên chợ cuối tháng Chạp (chợ sắm Tết) nhân dân lại dời chợ ra họp ở một cánh ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng. Từ năm 1949, quân Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. cụ Nguyễn Khuyến đã viết nên tác phẩm này nhờ cảm hứng ngôi chợ Và ở làng Vị Hạ quê ông.

Hai câu đầu của bài thơ là lời tác giả đang hỏi một người làng đi chợ phiên về, cũng là đang tự hỏi chính bản thân mình:

"Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?"

Khi đọc xong hai câu thơ trên chắc chắn người đọc sẽ thắc mắc vì sao ông hỏi thế? "Năm nay" lại là năm nào, có ý nghĩa gì chăng? Nhưng nhìn vào cái ngữ điệu, giọng thơ hơi chùng, lại chậm rãi, ta nghe như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm thì có lẽ năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui cho được. Liệu có phải vào năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng tiêu điều, khổ sở, người ta còn chẳng buồn đoái hoài đến chợ Tết? Tựu chung lại hai câu thơ chất chứa rất nhiều nỗi buồn, đó là nỗi xót xa cho cuộc sống cơ cực, khổ sở của một nhà trí thức có đến hơn nửa đời người gắn bó với từng niềm vui nỗi buồn của người dân nơi làng quê khốn khổ, lầm than.

Tiếp đến là hai câu thơ thực, Nguyến Khuyến lại tiếp tục đặt một câu hỏi ngỏ, thể hiện cái tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, vắng lặng của những ngày giáp Tết mà không khí thật đìu hiu, buồn bã.

"Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Uống rượu tường đền được mấy ông?"

Xuân đương đến, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương, những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt nhưng ai đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết nó cũng chẳng tầm thường, cũng làm ướt áo người như ai. Thứ mưa bụi hơi đương còn vấn chút gió đông nên "hơi rét", rét cả ngoài da, rét đến trong lòng người. Ngẫm lại nhìn cơn mưa bụi thế có ai còn thấy được sắc đỏ của pháo Tết, người người muốn núp trong nhà, đường được mấy ai, vắng vẻ lắm cho một cái Tết nơi làng nghèo. Thế rồi vẫn có một cụ già, đang tuổi thất thập cổ lai hi, chống cái gậy con lọ mọ ra đường, tìm lại những giá trị văn hóa thật đẹp. Tìm về với những ông bạn già, năm ngoái năm kia còn cùng thử rượu, nhưng buồn làm sao khi chẳng "được mấy ông". Một nhà nho chân chính, vì bất đắc chí mà lui về ở ẩn, cốt lánh sự đời, tìm về niềm vui dân dã, bầu bạn với người cùng trang lứa, nhưng nay còn lại ai, có lẽ đã đi xa hết cả rồi. Lòng thi sĩ thấy thật cô đơn, lẻ loi, một người già cả lại chịu nhiều nỗi đau cả chung cả riêng như thế, quả thật xót xa quá

"Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung."

Thế rồi nhà thơ già bỗng nghe được những âm thanh mới, những tưởng đấy là âm thanh hân hoan, vui mừng khi Tết đến. Nhưng không, âm thanh ấy nghe "xáo xác" lộn xộn lắm, đó là tiếng chủ nợ đòi con nợ, tiếng con nợ khất tiền, lời qua tiếng lại như thế càng làm tăng thêm cái vẻ khổ sở, nghèo túng của người dân nơi chợ Đồng. Ai cũng có nỗi khổ cho riêng mình, kẻ không đòi được tiền thì cay cú, bực dọc, người mắc nợ thì xấu hổ, xót xa. Cứ vậy, ta thấy Tết ở đây chẳng còn là lúc để vui mừng mà là lúc để người ta càng nhận rõ ra cái nghèo khó, cùng cực của những người nông dân xưa, phải chạy vạy từng ngày lo miếng ăn, chứ nói gì đến Tết nhất.

"Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng."

Thế rồi khi phiên chợ đã vắng hẳn, nhà thơ từ trong nỗi buồn mênh mang, nhẩm tính chỉ còn mấy hôm nữa thì xuân lại tới rồi. Ông quẩn quanh trong một nỗi lo lắng cho cuộc sống cơ cực của nhân dân, khi năm hết tết đến, càng mong cho nhân dân được đón một cái Tết mới được đầm ấm hạnh phúc, chứ chẳng phải cảnh tiêu điều, xáo xác kia. Tiếng pháo nhà ai bỗng nổ "đùng", đánh thức người trong buồn bã, xót xa, xua đi cái nghèo đói, xua đi cái lạnh lẽo của mưa bụi rét mướt. Nhưng pháo nhà ai, thì không biết nữa, rồi liệu pháo ấy có thật kỳ diệu vậy không, Nguyễn Khuyến không xác định được. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc trong không gian những ngày cuối năm lại càng làm tăng thêm cái nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong lòng người thi sĩ

Bài thơ thể hiện tâm trạng buồn của Nguyễn Khuyến khi chứng kiến nhịp sống của người dân qua cảnh chơ Đồng. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Năm cũ sắp qua, năm mới đang dần đến mà cái cái nghèo, cái túng đói vẫn ám ảnh đời sống dân quê. Nỗi buồn khiến nhà thơ chìm vào suy tư, vậy nên âm thanh của “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng” như khiến nhà thơ giật mình trở về với thực tại

Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’ ... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Chợ Đồng - Mẫu 3

Ý kiến "Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng" của Sóng Hồng gợi mở một khái niệm sâu sắc về nghệ thuật thơ ca. Theo đó, thơ không chỉ là những dòng chữ mộc mạc, mà còn chứa đựng vẻ đẹp của hình ảnh, âm thanh và cảm xúc đa dạng, giống như một tác phẩm nghệ thuật đa phương diện khác. Điều này thể hiện rõ qua bài thơ "Chợ đồng" của Nguyễn Khuyến.

Bài thơ "Chợ đồng" được sáng tác vào cuối thế kỷ 19, khắc họa một bức tranh sinh động về phiên chợ quê, nơi không chỉ diễn ra những giao dịch mua bán mà còn là nơi tụ họp của các mối quan hệ, các con người và cả những nét văn hóa đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ Việt Nam.

Bài thơ tạo nên một bức họa sinh động về không gian chợ quê. Những câu thơ đầu tiên đã khắc họa hình ảnh "Chợ phiên họp sắc thắm bừng", làm cho người đọc cảm nhận được sự tươi đẹp và nhộn nhịp của phiên chợ. Những âm thanh của “tiếng rao” hay “tiếng cười” tạo nên một bản nhạc đặc trưng, đầy sức sống của cuộc sống thường nhật.

Âm thanh trong bài thơ không chỉ là tiếng ồn ào của chợ búa mà còn là những tiếng rao, những câu chuyện rôm rả của người dân. Nhịp điệu của thơ cũng rất quan trọng, với cách ngắt nhịp và vần điệu tạo nên sự hài hòa, nhịp nhàng như một bài nhạc điệu.

Qua những hình ảnh và âm thanh của chợ phiên, Nguyễn Khuyến khéo léo đưa vào thơ những tâm tư, nỗi niềm của con người. Bên cạnh cảnh đẹp và sự nhộn nhịp của chợ, còn có sự quyến luyến, nhớ thương về quê hương, về những giá trị văn hóa truyền thống đang dần phai nhạt trong dòng chảy của thời gian.

Không chỉ dừng lại ở việc mô tả cảnh vật, bài thơ còn chạm khắc sâu sắc vào những giá trị văn hóa của người dân. Qua các hình ảnh sinh động, tác giả đã thể hiện được tình yêu quê hương, yêu cuộc sống giản dị và những giá trị nhân văn mà phiên chợ mang lại.

Từ việc phân tích bài thơ "Chợ đồng", chúng ta có thể thấy rằng thơ ca không chỉ đơn thuần là một hình thức nghệ thuật, mà là sự hòa quyện của nhiều yếu tố như hình ảnh (họa), âm thanh (nhạc) và cả những ý nghĩa sâu sắc được chạm khắc trong từng câu từ. Tác phẩm của Nguyễn Khuyến không chỉ mang đến cho người đọc những cảm xúc đơn thuần mà còn là một bức tranh đời sống tràn đầy sắc màu, âm thanh và tâm tư, thực sự làm nổi bật ý kiến của Sóng Hồng về thơ ca.

Phân tích bài thơ Chợ Đồng - Mẫu 4

Câu nói "Thơ là thơ đồng thời là họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng" (Sóng Hồng) thể hiện quan điểm rằng thơ không chỉ là một hình thức nghệ thuật độc lập mà còn là sự giao thoa giữa nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Thơ có thể mang trong mình vẻ đẹp của hội họa, giai điệu của âm nhạc và sự tinh tế của điêu khắc. Điều này cho thấy thơ có khả năng biểu đạt sâu sắc những cảm xúc, tâm tư và hình ảnh qua từ ngữ, khiến cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng lý trí mà còn bằng cảm xúc và thị giác.

Bài thơ "Chợ Đồng" của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự giao thoa giữa thơ và các loại hình nghệ thuật khác.

Bài thơ mở ra với hình ảnh chợ Đồng nhộn nhịp, sôi động. Câu thơ mô tả không khí tấp nập của phiên chợ, các sắc màu của hàng hóa và người mua, người bán. Hình ảnh thơ ở đây không chỉ đơn thuần là miêu tả mà còn gợi lên một bức tranh sinh động, gần gũi với cuộc sống:

"Chợ làng chiều tối / Người mua kẻ bán rộn ràng..."

Hình ảnh thơ gợi cảm, sống động này giống như một bức tranh hội họa, giúp người đọc cảm nhận được không khí chợ quê.

Nguyễn Khuyến sử dụng âm điệu trong câu thơ một cách hài hòa, tạo nên những vần điệu nhẹ nhàng, du dương. Âm thanh của tiếng nói, tiếng cười, và tiếng rao hàng hòa quyện lại với nhau, tạo nên một bản nhạc chợ quê:

"Người rao: ‘Gà đây, cá đây!’..."

Tiếng rao hàng vang vọng trong không gian, tạo ra một không khí nhộn nhịp, vui tươi, giống như âm nhạc rộn ràng của cuộc sống.

Ngoài việc miêu tả những hình ảnh và âm thanh sống động, bài thơ còn thể hiện những cảm xúc, tâm tư của tác giả về cuộc sống giản dị, gần gũi của người dân quê. Qua đó, Nguyễn Khuyến gửi gắm tình yêu quê hương, sự trân trọng đối với cuộc sống bình dị nhưng đầy ý nghĩa.

Cuối cùng, ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến không chỉ đơn thuần là những câu thơ mà còn thể hiện sự tinh tế trong cách chạm khắc những hình ảnh, tình cảm. Tác giả khéo léo sử dụng ngôn từ để khắc họa rõ nét hình ảnh người dân, hàng hóa, và không khí chợ. Qua đó, người đọc có thể "chạm" vào từng chi tiết, cảm nhận được hơi thở của cuộc sống.

Câu nói "Thơ là thơ đồng thời là họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng" được thể hiện rõ nét qua bài thơ "Chợ Đồng" của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm không chỉ là một bài thơ mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tổng hợp, nơi hội họa, âm nhạc, và điêu khắc hòa quyện để tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống và con người. Qua đó, bài thơ mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thật, sâu sắc về quê hương, cuộc sống bình dị mà đẹp đẽ.

Phân tích bài thơ Chợ Đồng - Mẫu 5

Nguyễn Khuyến, danh xưng là nhà thơ tài năng của dân tộc, là người trồng cây nghệ thuật thơ làng quê Việt Nam. Trong hơn 70 năm sống, ông dành hơn 40 năm gắn bó với làng quê, nơi mà những con trâu, ruộng đồng, củ khai củ sắn không phải ai cũng để ý. Ít nhà thơ nào có khả năng chuyển tả hình ảnh dân dã vào thơ như ông, tạo ra những tác phẩm tinh tế, sâu sắc. Bài thơ Chợ Đồng là minh chứng, là nơi Nguyễn Khuyến gửi gắm nỗi xúc cảm sâu xa và nỗi đau của một tâm hồn yêu quê hương đất nước tha thiết.

Sau khi rời bỏ cuộc sống nhiễu nhương, Nguyễn Khuyến quay về quê nhà, làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng ông có chợ Đồng, mỗi tháng họp chín phiên, đặc biệt trong những ngày tết lại có ba phiên chợ tết. Phiên chợ tết thường đông vui và náo nhiệt, nhưng đến những năm đói kém và thiên tai, chợ trở nên vắng vẻ. Thậm chí, sau sự xâm lược của thực dân Pháp, chợ Đồng ngừng hoạt động hoàn toàn, làm cho giá trị văn hóa lâu dài của nó bị lãng quên. Hai câu đầu của bài thơ như là lời tác giả tự hỏi về người làng đi chợ phiên về và đồng thời thể hiện sự lo lắng của bản thân:

'Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?'

Làm sao ông hỏi như vậy? Và từ 'Năm nay' lại làm thế nào? Cảm nhận từ ngữ dè dặt, giọng thơ chậm rãi, như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm, tất cả đều là dấu hiệu rằng năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui. Có thể là năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng gặp khó khăn, và chẳng ai quan tâm đến chợ Tết. Hai câu thơ chứa đựng nhiều nỗi buồn, thấu hiểu cho cuộc sống khó khăn, đau đớn của những người nông dân. Nó là biểu hiện của một nhà trí thức gắn bó với niềm vui và nỗi buồn của nhân dân trong làng quê khốn khổ.

Chuyển sang hai câu thơ thực, Nguyễn Khuyến lại đặt một câu hỏi ngập tràn tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, hình bóng vắng lặng của những ngày giáp Tết, nơi không khí thấp thoáng đìu hiu, buồn bã.

'Trời mưa bụi còn làn da rét,

Uống rượu tường đền được bao nhiêu ông?'

Xuân về, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương. Những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt, nhưng ai đã đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết rằng nó cũng không tầm thường, làm ướt áo người như thế nào. Thứ mưa bụi kèm theo gió đông nhẹ, khiến cho không khí trở nên 'hơi rét', đốt lửa lạnh ngay cả trong lòng người. Ngẫm lại khi đứng dưới cơn mưa bụi, ai còn nhớ được sắc đỏ của pháo Tết? Mọi người đều muốn trốn trong nhà, đường phố trở nên vắng vẻ, đặc biệt là đối với một cái Tết ở làng quê nghèo. Thế rồi, giữa tất cả, vẫn có một cụ già, với cái gậy cũ, từng bước đi kiếm lại những giá trị văn hóa quý báu. Ông quay về với những người bạn già, nhưng năm nào rượu cũng trở thành nỗi buồn vì chẳng còn những người bạn quen thuộc. Một nhà nho chân chính, giờ phải sống lưu vong với sự lạc lõng và cô đơn, cảm giác xót xa và cô quạnh đến lòng thi sĩ.

'Hàng quán vắng tanh, tiếng xáo xác,

Nợ nần năm hết, hỏi lung tung.'

Sau đó, nhà thơ già bỗng nghe thấy những âm thanh mới, hy vọng rằng đó là tiếng hân hoan, sự vui mừng của ngày Tết. Thế nhưng, âm thanh đó không phải là niềm vui mà là tiếng xáo xác hỗn loạn. Đó là âm thanh của chủ nợ đòi nợ, tiếng con nợ khát tiền, lời nói qua tiếng lại tạo nên bức tranh khổ sở, đau đớn của người dân tại chợ Đồng. Mỗi người đều mang theo nỗi đau riêng, người không đòi được tiền cay đắng, giận dữ, người mắc nợ lại đầy xấu hổ và đau đớn. Thấy vậy, Tết ở đây không còn là thời điểm để vui mừng, mà là dịp mọi người nhận thức sâu sắc về nghèo đói, khốn khó của những người nông dân xưa, phải đối mặt với nỗi lo âu từng ngày lo miệng ăn, không còn nói đến niềm vui của Tết.

'Dăm ba ngày nữa, tin xuân về.

Pháo trúc ở nhà nào cũng vang lên một tiếng động.'

Sau khi phiên chợ kết thúc, nhà thơ trong nỗi buồn sâu sắc, tính toán rằng chỉ còn vài ngày nữa là Tết lại về. Ông sống trong lo âu cho cuộc sống khó khăn của nhân dân, mong mọi người có một cái Tết ấm áp, hạnh phúc, không phải là cảnh tiêu điều và xáo xác như trước. Tiếng pháo nhà ai đột ngột vang lên 'đùng', đánh thức những người đang trong nỗi buồn, làm tan biến nghèo đói, làm tan biến cái lạnh của mưa bụi rét mướt. Tuy nhiên, không biết pháo đó thuộc về nhà nào, liệu âm thanh kỳ diệu đó có thực sự hay không, Nguyễn Khuyến không thể xác định. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc giữa không gian những ngày cuối năm càng khiến tăng thêm nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong tâm hồn của thi sĩ.

Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến không chỉ là một tác phẩm xuất sắc, với nguyên liệu làng quê dân dã mà còn là một tác phẩm thể hiện sâu sắc tâm hồn nồng thắm của nhà thơ. Khuyến đã khám phá sâu hơn vào những cảnh vật, những âm thanh vốn rất bình thường, mang đến nhiều tầng cảm xúc hơn, đó là sự buồn bã lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, sự đau đớn trước cảnh cơ hàn. Cuối cùng, hơn cả, đó là tấm lòng yêu thương nhân dân, yêu thương đất nước một cách sâu sắc, mong rằng toàn bộ dân tộc có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no hơn, đặc biệt là trong những ngày sắp đến Tết.

Bình giảng về bài thơ Chợ Đồng

Thi sĩ Xuân Diệu từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. Yên Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, một vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa thế kỷ, ông gắn bó với làng xóm quê hương đi “Vườn Bùi, chốn cũ”, với núi An Lão, chợ Đồng,... thân yêu.

     Nguyễn Khuyến đã mất non thế kỷ nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn sống, vẫn gắn bó với cảnh dân tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị như thấm vào câu chữ bài thơ Chợ Đồng này:

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

...

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng

     Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên - Gặp cô hàng xén kết duyên Châu - Trần; "Chợ Viềng năm có một phiên - Cái nón em đội cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam Nguyên Yên Đổ.

     Hai câu thơ đầu như một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và còn hỏi, tự hỏi mình hay còn hỏi bà con đi chợ về?

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

     Làng Vị Hạ, quê hương Nguyễn Khuyến có chợ. Và còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có chín phiên họp vào ngày chẵn: 4, 6 ,10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không họp trong làng nữa, chợ Tết nên họp ở cánh nương mạ, cạnh một ngôi đền cổ ba gian. Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên chợ Tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua hán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của quê hương. Tết đã đến, ngày hai mươi bốn tháng chạp, chợ Đồng vào phiên. Hai tiếng “năm nay" thời gian không xác định. Có phải đó là năm Quý Tị (1983), năm Ất Tị (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị trước Tị này chục lẻ ba - Thuận dòng nước cũ lại bao la..." (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Cầu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.

      Tiếp theo là hai câu thơ 3, 4 trong phần “thực” thêm một câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự hỏi:

Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

 Uống rượu tường đền được mấy ông

      Dở trời là thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh co" nơi làng quê lại bùn lầy, nhớp nháp, cả một miền quê năm hết Tết đến chỉ còn “hơi rét”. Cái rét trong lòng người rét rà, hơi rét của đất trời cùng với mưa bụi trắng trời như vây chặt lấy bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu thơ "Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong mưa rét.

     “Nếm rượu tường đền” là một nét đẹp, cổ truyền diễn ra trong ba phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu", xem thứ rượu nào ngon thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến nhắc đến với bao tình cảm mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?” vì còn có bao cụ già nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thơ thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài Gửi bạn:

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi

Hoặc:

Xuân về ngày loạn cùng lơ láo,

Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ

(Ngày xuân dặn các con)

     Hai câu 3, 4 chỉ một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh, không khí buồn tẻ của phiên chợ Đồng “năm nay" thưa thớt vắng vẻ, buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện thực phản ánh cảnh dân, tình trên miền Bắc nước ta một trăm năm về trước.

     Nguyễn Khuyến có tài ghi lại không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh chợ tan nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời ông nghe được:

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung

    Có người cho rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn nhịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này. Xuân Diệu đã hiểu ngược lại, thi sĩ nói: “người về” không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chợ, có cái huyên thuyên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ... Cái âm "xáo xác" đối với cái thanh “ lung tung”. Xao xác nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Cái nghèo túng đang đè nặng xóm làng quê.

      Cảnh hàng quán mua bán “nghe xáo xác". Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm hết Tết đến rồi. Hai câu trong phần thực nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn cái nỗi khổ cơ hàn? Vạn khổ bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột". Đó là ba cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã nghe được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, nên ông mới viết thâm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hồi lung tung”. Ông đã chỉ ra nguyên cớ của cái nghèo, cái rét ấy:

  Năm nay cày cấy vẫn chan thua,

              Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

    Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

     Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

        Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

    Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?

       Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho!

                           (Chốn quê)

      Trở lại bài Chợ Đồng hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà thơ đứng bơ vơ nhẩm tính. “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm mới dần sang. Cái nghèo, cái rét vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”. Tác giả vận dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa bên Trung Quốc để tạo ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai" nổ “một tiếng đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “Co cẳng đạp thằng bần ra cửa... Giơ tay bồng ông phúc vào nhà" (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây trong cảnh "Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng". “Nhà ai” - không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết được:

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng

   “Tin xuân tới” với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt “nhờ trời" để dân làng Vị Hạ “được bát cơm no". Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn lo, le lói một niềm ước mong cho dân nghèo khi “tin xuân tới”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời đáng quý.

   Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’ ... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.

Đánh giá

0

0 đánh giá