Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Luận điểm là gì? Trình bày luận điểm trong văn nghị luận giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Luận điểm là gì? Trình bày luận điểm trong văn nghị luận
1. Luận điểm là gì?
- Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức câu khẳng định (hay phủ định). Luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế, mới có sức thuyết phục.
Ví dụ, trong Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, một luận điểm nổi bật là: "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào."
2. Phân loại Luận điểm
- Luận điểm chính: Làm kết luận, cái đích của bài viết
- Luận điểm phụ: Dùng làm luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng
3. Yêu cầu về Luận điểm
- Luận điểm phải chính xác, rõ ràng, phù hợp và phải làm sáng tỏ vấn đề đặt ra
- Các luận điểm trong bài văn phải liên kết chặt chẽ, sắp xếp theo một trình tự hợp lí:
+ Luận điểm nêu trước chuẩn bị cơ sở cho luận điểm nêu sau
+ Luận điểm nêu sau dẫn đến luận điểm kết luận
4. Vai trò của luận điểm
- Luận điểm có vai trò quan trọng và ý nghĩa lớn, nó được coi như là xương sống của việc lập luân. Bởi vì, không chỉ trong văn nghị luận mà bình thường trong tranh luận cũng cần phải quan tâm đến luận điểm là gì, và đưa ra luận cứ như thế nào. Để bài văn trở nên hấp dẫn và cuốn hút những luận điểm phải thực sự sắc bén và có tính chắc chắn cao. Đồng thời cũng cần có “sức nặng” để khi đọc vào người khác thấy bản thân bị thuyết phục bởi luận điểm này.
- Luận điểm đưa ra có chính xác, có tính thuyết phục thì mới có thể tạo nên một bài nghị luận hay. Luận điểm có thể nói là quan trọng nhất. Bởi nếu xác định không đúng luận điểm thì bài văn nghị luận của bạn dù có đưa ra những dẫn chứng xuất sắc đến đâu cũng trở nên vô nghĩa.
- Các luận điểm phải có tính đúng đắn, bao quát, đặt ra các câu hỏi cần tranh luận và trả lời thuyết phục cho những câu hỏi đó. Bên cạnh đó là phản biện về những lập luận đối lập và những phần chưa làm rõ trong lập luận của bản thân.......
5. Cách xác định luận điểm trong văn nghị luận
- Cách xác định luận điểm trong một bài văn nghị luận hoặc một cuộc tranh luận, bạn có thể áp dụng các phương pháp sau:
+ Dựa trên đề bài: Xem xét kỹ đề bài để hiểu rõ yêu cầu và chủ đề chính. Từ đó, xác định những quan điểm hoặc ý kiến chính mà bạn muốn trình bày.
+ Đặt câu hỏi: Đặt các câu hỏi liên quan đến chủ đề để tìm ra những điểm quan trọng cần thảo luận. Ví dụ: "Tại sao vấn đề này quan trọng?" hoặc "Những yếu tố nào ảnh hưởng đến vấn đề này?"
+ Phương thức nghị luận:Xác định phương thức nghị luận mà bạn sẽ sử dụng, chẳng hạn như so sánh, phân tích, chứng minh, hoặc phản biện. Điều này giúp bạn xác định các luận điểm phù hợp với cách tiếp cận của mình.
+ Dựa trên dữ liệu và thông tin: Sử dụng các dữ liệu, thông tin và dẫn chứng có sẵn để hỗ trợ cho luận điểm của bạn. Điều này giúp luận điểm trở nên thuyết phục và có cơ sở hơn.
+ Tập trung vào vấn đề chính: Luận điểm cần phải rõ ràng, chính xác và tập trung vào vấn đề chính mà bạn muốn thảo luận. Tránh lan man hoặc đưa ra quá nhiều ý kiến phụ không liên quan.
6. Trình bày luận điểm trong văn nghị luận
Trình bày luận điểm chính là lập luận, là cách trình bày lí lẽ, trình bày luận chứng, cách nêu dẫn chứng. Có nhiều cách trình bày luận điểm.
6.1. Trình bày luận điểm theo phương pháp diễn dịch
Luận điểm chính là câu chủ đề, đứng đầu đoạn văn.
Ví dụ:
a. “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay”. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử”.
(Sự giàu đẹp của tiếng Việt - Đặng Thai Mai)
b. "Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa".
(Gửi đồng bào Nam Bộ - Hồ Chí Minh)
c. "Phải biết hỏi trong khi học thì mới tích cực và sâu sắc. Hỏi để hiểu sâu hiểu rộng nội dung đang học, để đi tới cùng chân lí. Kiến thức về xã hội nhân văn. về tự nhiên, về khoa học và kĩ thuật là vô cùng rộng lớn bao la. Nhờ biết hỏi mà ta vươn lên không ngừng, mở rộng tầm mắt, tích luỹ được nhiều tri thức mới mẻ. Không thể học một cách thụ động, chỉ biết thầy đọc trò chép, mà phải biết hỏi, đào sâu suy nghĩ về mọi ngóc ngách của vấn đề đang học. Học đâu chỉ giới hạn ở lớp ở trường, trong mấy quyển sách giáo khoa? Hỏi để học ở thầy, ở bạn, ở trong cuộc sống. Biết hỏi mới tiến bộ, tránh giấu dốt!".
(Học và hỏi - Lê Phan Quỳnh)
6.2. Trình bày luận điểm theo phương pháp quy nạp
- Luận điểm là câu chủ đề đặt ở cuối đoạn văn:
Ví dụ.
a. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
(Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh)
b. “Ở Việt Nam ta có câu tục ngữ “Có thực mới vực được đạo”. Trung Quốc cũng có câu tục ngữ “Dân dĩ thực vi thiên”. Hai câu ấy tuy đơn giản, nhưng rất đúng lẽ.
Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kì quan trọng”.
(Hồ Chí Minh - Tháng 4 năm 1962)
6.3. Các luận điểm, luận cứ trong một bài văn nghị luận phải được trình bày theo một trật tự, trình tự hợp lí; liên kết với nhau, hô ứng nhau một cách chặt chẽ.
Cách diễn đạt cần trong sáng, mạch lạc. Câu văn cần ngắn gọn, tránh dài dòng lê thê. Giọng văn là điều cần quan tâm đặc biệt. Hoa hoè hoa sói, ngụy biện, suy diễn một chiều, công thức cứng nhắc... sẽ làm cho bài nghị luận nhạt nhẽo. Hiện tượng nói dài, nói dai, nói nhảm, trống rỗng... ta luôn bắt gặp đó đây. Tính thuyết phục của văn nghị luận cần ghi nhớ và coi trọng.
Ví dụ:
“Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
(Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh)
Tội ác lớn nhất về kinh tế của thực dân Pháp đối với đất nước ta trong suốt 80 năm trời là luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên.
Luận điểm được trình bày bằng 5 luận cứ (mỗi tội ác là một luận cứ) theo một hệ thống, một trật tự rất chặt chẽ. Lí lẽ đanh thép, giọng văn hùng hồn, gây ấn tượng mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục.
Ví dụ:
a. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh; nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy. Vậy nên các đấng thánh đế, minh vương không ai không coi việc bồi dưỡng nhân tài, tin dùng kẻ sĩ, vun đắp nguyên khí là việc làm trước tiên...”
(Trích Bia Tiến sĩ, Văn miếu Thăng Long)
b. "Khi sống sung túc, phẩm hạnh lớn nhất là sự điều độ, còn khi gặp tai họa, phẩm hạnh lớn nhất là sự kiên cường.
c. Có ba điều dạt tới hạnh phúc: thân xác khỏe mạnh, tinh thần thoải mái, và trái tim trong sạch"...
(Đô-mát)
7. Bài tập vận dụng
Bài 1: Hãy cho biết những câu sau đâu là luận điểm và giải thích vì sao?
a) Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
b) Đẹp thay Tổ quốc Việt Nam!
c) Chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu và sản xuất.
d) Tiếng cười là vũ khí của kẻ mạnh.
Lời giải:
- Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức cau khẳng định (hay phủ định). Luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế, mới có sức thuyết phục.
Câu a và câu d là luận điểm.
Câu b là câu cảm thán.
Câu c là một luận đề, chưa phải là luận điểm.
- Luận điểm thường có hình thức câu trần thuật với từ là hoặc có (phẩm chất, tính chất... nào đó)
Bài 2: Hãy cho biết đoạn văn sau nói về chủ đề gì?
Với khói từ điếu thuốc mình hút, người hút đã hít vào hơn một nghìn chất. Phần lớn các chất trong đó như khí a-mô-ni-ắc, ô-xít các-bon và hắc ín, đều rất nguy hiểm đối với sức khoẻ. Chất ni-cô-tin trong là thuốc còn độc hại hơn . Đó là một thứ ma tuý. Nhiều người hút đã quen nó tới mức không thể nào nhịn nổi. Bởi vậy, họ lại tiếp tục hút […]Cơ thể được cấu tạo bằng hàng tỉ tế bào, tất cả những tế bào ấy đều cần ô xi. Nhờ không khí ta thở, ô xi xuyên thấm vào phổi. Máu tiếp nhận ô xi và chuyển tới toàn bộ cơ thể. Ở những người hút thuốc lá, một số chất có thể ngăn cản phổi thực hiện chức năng của nó. Bồ hóng và hắc ín của khói thuốc lá làm phổi và các ống dẫn của nó đọng cáu ghét. Điều đó thường dẫn đến các bệnh đường họng và những cơn ho. Nếu những tế bào bị công kích, chúng sẽ phắt triển nhanh và điều đó cuối cùng có thể gây nên ung thư.Ô-xít các-bon và ni-cô-tin của khói thuốc làm hại đến sự vận chuyển của ô xi trong toàn bộ cơ thể. Chúng tới khắp nơi cùng với máu. Chúng có thể làm cho máu đặc thêm rất nhiều. Đôi khi, máu trở nền quá đặc khiến cho sự vận chuyển máu nghẽn tắc hoàn toàn. Đó là nguyên nhân tạo nên một cơn ho nhồi máu cơ tim [...]. Khi bắt đầu hút, người ta không hiểu rằng ni-cô-tin là một chất ma tuý và (khi đã dùng) sẽ khó từ bỏ nó. Vậy thì tốt nhất là phải chống lại thói tò mò và tuyệt không bao giờ bắt đầu hút.
(C. Luy-xác-đô - H. Pô-tơ-lê, Tiếng Pháp lớp đệ ngũ,NXB Ha-chi-ê, Pa-ri, 1998)
Hướng dẫn làm bài
Chủ đề: tác hại của thuốc lá
Bài 3: Chỉ ra các luận điểm trong đoạn trích sau:
Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ…”. Nguyễn Trãi không phải là một ông tiên. Nguyễn Trãi là người chân đạp đất Việt Nam, đầu đội trời Việt Nam, tâm hồn lộng gió của thời đại lúc bấy giờ, thông cảm sâu xa với nỗi lòng dân lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy cho một lí tưởng cao quý. Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Nguyễn Trãi rấy xứng đáng với lòng khâm phục và quý trọng của chúng ta. Ca ngợi người anh hùng dân tộc, chúng ta đã rửa mối “hận nghìn năm” của Nguyễn Trãi!
(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc)
Hướng dẫn làm bài
Trong đoạn văn sau nêu lên luận điểm "Nguyễn Trãi là người anh hùng dân tộc":
Luận điểm chính trong bài nằm ở câu mở đầu: " Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi… chưa có bao giờ"
Các luận điểm sau làm cơ sở:
+ Nguyễn Trãi không phải là ông tiên mà là người Việt Nam tận tụy cho tâm hồn cao quý, thấu hiểu nỗi lòng người dân.
+ Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, tinh hoa của dân tộc.
+ Nguyễn Trãi xứng đáng với lòng khâm phục và quý trọng của chúng ta.
Bài 4: Nối kết nghĩa của hai câu tục ngữ sau đây để đưa ra một luận điểm:
- Không thầy đố mày làm nên
- Học thầy không tày học bạn
Gợi ý:
Hai câu tục ngữ có những nét nghĩa trái ngược nhau, mỗi câu nhấn mạnh một khía cạnh trong việc học. Để đưa ra được luận điểm bao quát nghĩa của cả hai câu này, cần kết hợp được những điểm nhấn khác nhau ấy trong một nhận định chung. Có thể tham khảo luận điểm: Học không thể thiếu thầy, nhưng học cũng rất cần bạn; hoặc: Học thì phải có thầy, song học ở bạn cũng rất bổ ích.
Bài 5: Từ các câu danh ngôn dưới đây, hãy rút ra những luận điểm đúng đắn về việc đọc sách.
(1) Đọc sách là cách học tốt nhất, theo dõi những tư tưởng vĩ đại của vĩ nhân, là cách học thú vị nhất.
(A. Pu-skin)
(2) Người nào chỉ đọc đôi chút cũng đã có trình độ cao hơn nhiều so với người không đọc gì cả.
(V. Bi-ê-lin-xki)
(3) Đọc sách mà không suy nghĩ khác nào ăn mà không tiêu.
(E. Bur-ke)
(4) Đọc cuốn sách hay cũng như được trò chuyện với người bạn thông minh.
(L. Tôn-xtôi)
(5) Không có quyển sách nào hay đối với người dốt, không có tác phẩm nào dở đối với người thông minh.
(Đ. Đi-đơ-rô)
(6) Nền văn hoá ở một nước cao hay thấp không phải chỉ ở các nhà văn mà chính là ở độc giả.
(Nhất Linh)
Tham khảo các luận điểm:
- Đọc sách là một cách học tích cực nhất.
- Việc đọc sách chỉ có ích khi người đọc biết suy ngẫm, đọc đúng cách.
- Trong việc đọc, sách là quan trọng nhưng người đọc còn quan trọng hơn.
- Trình độ đọc cho thấy trình độ văn hoá.
…
Bài 6: Đọc lại truyện ngụ ngôn Việt Nam Thầy bói xem voi và tự rút ra một số luận điểm về cách suy nghĩ, đánh giá và việc tiếp thu ý kiến của người khác.
Gợi ý:
Tham khảo:
- Phải xem xét sự vật, hiện tượng dưới nhiều góc độ thì mới có thể đưa ra được nhận định đúng đắn, toàn diện.
- Không nên chỉ dựa vào sự nhìn nhận của mình, cần biết lắng nghe nhiều ý kiến khác để có được nhận định toàn diện, khách quan về một đối tượng nào đó.
- Cần biết tôn trọng ý kiến của người khác, không nên bảo thủ, biến tranh luận thành cãi vã, xung đột gây mất đoàn kết.
…
Bài 7: Hoạ sĩ Trung Quốc nổi tiếng thời Đường là Diêm Lập Bản lần thứ nhất xem tranh Trương Tăng Do đời nhà Lương chê là không có gì. Lần thứ hai xem tranh họ Trương lại khen là tranh khá. Lần thứ ba xem kĩ thì khen là tranh có chỗ kì diệu. Từ mẩu chuyện trên, có thể rút ra những luận điểm nào về cách xem tranh, cách thưởng thức nghệ thuật?
Gợi ý:
- Thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi đi từ nông đến sâu.
- Thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi trải nghiệm của người thưởng thức.
- Người tiếp nhận có vai trò rất quan trọng trong thưởng thức nghệ thuật.
- Vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật do người thưởng thức đánh giá, khám phá.