Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến
Đề bài: So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Tây Tiến (Quang Dũng)
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 1
Cảnh thiên nhiên con người đất nước là một chất liệu thi ca vô cùng quen thuộc theo đó thì mỗi chất liệu đều mang những ý nghĩa sâu sắc nhất định. Hình ảnh thơ quen thuộc nhưng lại lột tả được hết những nét đặc sắc vốn có của nó. Với Tây Tiến thì hình ảnh thiên nhiên được xuất hiện quen thuộc với hình ảnh sương của núi đồi tây bắc, với những bông lau quen thuộc còn Đây thôn Vĩ Dạ lại thoát lên một vẻ đẹp mơ mộng của xứ Huế.
Cụ thể khung cảnh thiên nhiên con người nơi đây được tái hiện lên có hồn và rất thơ như là hình ảnh "chiều sương ấy" mô tả cho không khí buổi chiều, nơi mà sương mỏng nhẹ đã xuất hiện. Sự sương chiều thường mang lại cảm giác êm đềm và mộng mơ, làm Hình ảnh "hồn lau nẻo bến bờ" có thể đề cập đến tinh thần thanh lịch, tao nhã và sáng tạo của lau nẻo, một loại cây cỏ mọc hoang dã. Có thể nhìn thấy cảnh sắc mềm mại, thanh nhã của cây cỏ nẻo nằm ven bờ hồn. "Dáng người trên độc mộc" có thể ám chỉ hình ảnh của những người dân nơi đây, sống gắn bó với tự nhiên, độc mộc, không ảnh hưởng nhiều bởi sự hiện đại. Có lẽ họ giữ nguyên nét tinh tế và mộc mạc trong cuộc sống. Bằng cách tận dụng hình ảnh của chiều sương, hồn lau nẻo, dáng người trên độc mộc và trôi dòng nước lũ hoa đong đưa, nhà thơ Quang Dũng đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên tinh tế, toát lên vẻ đẹp thanh khiết và yên bình của cảnh quan miền quê Châu Mộc.
Hình ảnh thiên nhiên xứ Huế hiện lên nhẹ nhàng với gió với mây nhẹ nhàng êm đềm mang một nét dịu dàng thân thương của những con người xứ huế. Đoạn thơ này mang đến hình ảnh một cảnh thiên nhiên dễ thương và tinh tế, thể hiện sự tương tác tinh tế giữa các yếu tố tự nhiên. Hình ảnh "gió theo lối gió mây đường mây" tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, êm đềm, với sự liên kết giữa gió và những đám mây trôi lơ lửng. Có vẻ như gió đang theo dõi và điều chỉnh hướng mây. Mô tả về "dòng nước buồn thiu" có thể ám chỉ sự buồn bã, lưu luyến của dòng nước, trong khi "hoa bắp lay" thì tạo ra hình ảnh của những bông hoa nhỏ đang rung lắc dưới cơn gió, tạo nên không khí tĩnh lặng và bi đạo. Bên cạnh đó thì hình ảnh "thuyền ai đậu bến sông trăng đó" tạo nên sự huyền bí và lãng mạn. Sông trăng thường được liên kết với vẻ đẹp tinh khôi và thoáng đãng, trong khi thuyền đậu bên bến mang đến cảm giác yên bình và chờ đợi.
Câu hỏi cuối cùng "Có chở trăng về kịp tối nay?" tăng thêm sự mơ hồ và trắc trở. Việc chở trăng về có thể tượng trưng cho việc truyền đạt vẻ đẹp của thiên nhiên đến mọi người và làm cho bức tranh cảnh đêm trở nên hoàn hảo. Bằng cách sử dụng hình ảnh của gió, mây, nước, hoa, thuyền và trăng, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một cảnh thiên nhiên tinh tế và lãng mạn, tăng thêm vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ trong đoạn thơ "Đây thôn Vĩ Dạ".Nhà thơ Hàn Mặc Tử thường xuyên thể hiện nỗi lòng sâu sắc và tình cảm buồn bã trong những bài thơ của mình, bao gồm cả khi ông miêu tả về cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử thường mang đến những tình cảm như nỗi buồn, hoài niệm, và sự hồi tưởng trong các tác phẩm của mình.
Hàn Mặc Tử thường sử dụng ngôn ngữ chất phác, đơn giản nhưng đầy chất nhân văn để thể hiện nỗi buồn của mình. Trước cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ, ông có thể đã cảm nhận được sự hòa mình vào với thiên nhiên, tạo ra một tâm trạng buồn và nỗi nhớ về những ký ức. Trong việc miêu tả về cảnh đẹp, Hàn Mặc Tử có thể thể hiện sự chấp nhận sự phai mờ của thời gian và sự đổi mới. Cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ có thể gợi lên những ký ức đẹp nhưng đồng thời cũng làm nổi bật sự thay đổi và mất mát. Câu hỏi cuối cùng trong bài thơ "Có chở trăng về kịp tối nay?" có thể phản ánh tình cảm thất vọng và sự chờ đợi không chắc chắn. Đây có thể là biểu hiện của lòng người, sự đau khổ hay hoài niệm về một thời kỳ đã qua. Những yếu tố này khi kết hợp với mô tả của cảnh đẹp thiên nhiên tinh tế của Hàn Mặc Tử, tạo ra những bức tranh thơ lãng mạn và sâu sắc, thể hiện tâm trạng và nỗi lòng đặc biệt của nhà thơ trước vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ.
Ngược lại thì Quang Dũng lại khắc họa trong lòng người đọc thông qua hình ảnh " dáng người trên độc mộc" đó là hình ảnh của những người con vùng Tây Bắc được hiện lên quen thuộc, sâu lắng và thiết tha tình cảm thân thương vô cùng. Hình ảnh này sẽ là những nét khắc họa vào trong lòng người đọc, những con người mà đã đến đây đã yêu và mến những con người thân thuộc chất phát ở vùng đất núi rừng này. Dù là hình ảnh thơ trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ dạ có những nét khác nhau, tuy nhiên hình ảnh thiên nhiên con người trong hai tác phẩm này đều toát lên được sự yêu mến và sự thương nhớ đối với người dân con người nơi đây. Từ việc yêu thương và gắn bó mới có thể lột tả và khắc họa được một cách chi tiết và cụ thể đến như vậy. Một cái thì rất thơ của xứ Huế một cái thì mộc mạc chân chất của người con của núi rừng.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 2
Kính thưa các thầy cô giáo, các bạn học sinh!
Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: "Đây thôn Vĩ Dạ" (Hàn Mặc Tử) và "Tây Tiến" (Quang Dũng) để tham gia buổi toạ đàm với chủ đề "Những sắc điệu phong phú của thi ca".
I. Giới thiệu:
- "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ ca "say đắm, nồng nàn" của ông. Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, khi tác giả đang phải điều trị bệnh phong tại Bệnh viện Quy Nhơn.
- "Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay nhất về người lính Tây Tiến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, khi tác giả đã rời đơn vị Tây Tiến để nhận nhiệm vụ mới.
II. So sánh:
1. Về nội dung:
- "Đây thôn Vĩ Dạ":
+ Bức tranh thơ mộng, huyền ảo của xứ Huế: dòng sông Hương êm đềm, những vầng trăng lung linh, những bông hoa khẽ khàng nở.
+ Nỗi niềm tâm sự của thi nhân trước cảnh đẹp quê hương: khát khao yêu thương, sự hòa hợp với thiên nhiên và con người, nỗi buồn sầu, cô đơn, u hoài.
- "Tây Tiến":
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của núi rừng Tây Bắc: những con dốc cao, những thác nước dữ dội, những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn.
+ Hình ảnh người lính Tây Tiến với khí phách anh hùng: dũng cảm, gan dạ, lạc quan, yêu đời, đồng chí, đồng đội gắn bó.
2. Về nghệ thuật:
- "Đây thôn Vĩ Dạ":
+ Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi cảm, sử dụng nhiều phép tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa.
+ Hình ảnh thơ tinh tế, sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
+ Giọng điệu thơ du dương, bâng khuâng, thể hiện tâm trạng của thi nhân.
- "Tây Tiến":
+ Ngôn ngữ thơ giàu sức biểu cảm, sử dụng nhiều phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
+ Hình ảnh thơ hùng tráng, khoáng đạt, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
+ Giọng điệu thơ hào hùng, bi tráng, thể hiện niềm tự hào và sự tiếc thương của tác giả.
III. Đánh giá:
- Hai tác phẩm đều là những bài thơ hay, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của hai tác giả.
- Mỗi tác phẩm đều mang vẻ đẹp riêng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước theo cách riêng của mình.
- "Đây thôn Vĩ Dạ" thể hiện tình yêu quê hương xứ Huế da diết, nồng nàn của Hàn Mặc Tử.
- "Tây Tiến" thể hiện tình yêu quê hương Tây Bắc và hình ảnh người lính Tây Tiến với khí phách anh hùng của Quang Dũng.
IV. Kết luận:
- Hai tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" và "Tây Tiến" là những viên ngọc quý trong kho tàng thi ca Việt Nam.
- Hai tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm những sắc điệu của thi ca Việt Nam.
Cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn học sinh đã lắng nghe!
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 3
Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Tây Tiến của Quang Dũng đều là những tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam thế kỷ 20, đặc biệt là trong việc thể hiện cảm nhận về vẻ đẹp của thiên nhiên. Mặc dù hai nhà thơ này có cách thể hiện khác nhau, nhưng lại chung điểm ở cảm hứng sáng tạo và điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo.
Trong Tây Tiến, Quang Dũng mô tả cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng và trữ tình. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng mà còn là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn tạo nên một khúc ca bi tráng về cuộc sống, chiến đấu, hy sinh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Ngược lại, trong Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử diễn đạt tình cảm trữ tình đối với vẻ đẹp của sông nước ở Huế. Thi nhân sử dụng những hình ảnh tưởng chừng như thực tế nhưng lại mang đầy ý nghĩa tượng trưng. Cảnh gió mây, dòng nước buồn thiu, và hoa bắp lay được sử dụng để thể hiện nỗi cô đơn và buồn bã trong trái tim của tác giả.
Cả hai bài thơ đều sử dụng nghệ thuật và ngôn ngữ một cách tinh tế để truyền đạt cảm xúc và tạo nên hình ảnh đẹp, lôi cuốn độc giả vào thế giới mà nhà thơ muốn diễn đạt. Hai đoạn thơ này tuy mô tả về sự chia cắt giữa hai bờ, hai vùng đất của những chàng trai, nhưng điểm chung quan trọng là tình cảm thủy chung, cháy bỏng và mãnh liệt vẫn được tác giả truyền đạt đến vùng đất và con người ở xa. Dù là những bài thơ tả cảnh, nhưng chúng đầy tình cảm, khiến người đọc cảm nhận sự rung động từng câu chữ. Đây không chỉ là những tác phẩm xuất sắc của Quang Dũng và Hàn Mặc Tử mà còn là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc để lại cho thơ ca Việt Nam.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 4
Cả hai đoạn thơ đều thể hiện tình cảm sâu sắc và yêu thương đặc biệt dành cho quê hương và cảnh thiên nhiên nơi mình sinh sống hoặc từng trải qua.Điều này là một điểm rất quan trọng và đặc biệt trong cả hai đoạn thơ. Tình cảm với quê hương thường được coi là một nguồn động viên lớn để sáng tác văn chương, và nó thường được thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh mô tả cảnh vật. Nếu không yêu quê hương thì không thể nhìn thấu được những hình ảnh thân quen và thân thiết của người dân nơi đây. Yêu thì mới thương thì mới thấu hiểu được. Hình ảnh của sông, gió, và hoa bắp lay tạo nên một sự kết nối mạnh mẽ với đất đai của xứ Huế. Sông trở thành một phần không thể thiếu, kết nối tâm hồn với bản địa.
Hàn Mặc Tử hay Quang Dũng đều sử dụng ngôn ngữ lãng mạn và huyền bí để tô điểm cho cảnh thiên nhiên, làm cho đọc giả cảm thấy như đang bước vào một thế giới mộng mơ. Quang Dũng thường sử dụng ngôn ngữ lãng mạn để mô tả những chi tiết nhỏ của cảnh vật, như hồn lau nẻo và dòng nước lũ hoa đong đưa. Cảnh vật trở nên như một bức tranh tinh tế, tô điểm bởi tình cảm sâu sắc. Hàn Mặc Tử cũng tận dụng ngôn ngữ lãng mạn để miêu tả hình ảnh như gió mây, dòng nước buồn thiu, và hoa bắp lay. Các yếu tố này được chọn lọc một cách tinh tế để tạo ra không khí lãng mạn và bí ẩn. Quang Dũng thường sử dụng những từ ngữ và hình ảnh mang tính huyền bí để diễn đạt những tình cảm sâu sắc, như "hồn lau nẻo" hay "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa." Những biểu cảm này tạo ra sự kỳ bí trong tâm trạng của nhà thơ.
Tác phẩm đều phản ánh sự tài năng và nghệ thuật của những nhà thơ. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ hình ảnh và biểu cảm tốt, họ tạo ra những bức tranh sống động trong tâm trí người đọc.
Tuy nhiên thì trong "Đây Thôn Vĩ Dạ," Hàn Mặc Tử tập trung vào những hình ảnh tâm lý, như gió mây, thuyền, và sông trăng, tạo ra một không khí tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Ngược lại, "Tây Tiến" của Quang Dũng có vẻ tập trung hơn vào những chi tiết cụ thể như lau nẻo, độc mộc, và nước lũ, tạo ra một bức tranh thiên nhiên sống động và bản địa.
Nếu như tâm trạng trong "Đây Thôn Vĩ Dạ" thường là sâu sắc và chìm đắm trong nỗi nhớ, trong khi "Tây Tiến" thường mang đến nét buồn của kí ức và tình cảm đối với mảnh đất miền Tây trong thời kỳ kháng chiến.
Mỗi tác phẩm phản ánh bối cảnh và thời đại mà tác giả sống. "Tây Tiến" của Quang Dũng có thể nối liền với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong khi "Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử có thể mang đến hình ảnh của thời kỳ hòa bình sau đó.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 5
Hàn Mặc Tử và Quang Dũng là những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Tây Tiến (Quang Dũng) là hai thi phẩm xuất sắc, mang dấu ấn đậm nét của người nghệ sĩ sáng tạo. Đặc biệt, trong cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên, hai nhà thơ đã có cách thể hiện khác biệt nhưng thống nhất ở cảm hứng sáng tạo và điểm nhìn nghệ thuật hết sức sắc sảo. Cả Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ đều đã vẽ nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, mang dáng nét, mang cái hôn xứ sở.
Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến” là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. “Tây Tiến” cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng lãng mạn thường tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản, đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Cảm hứng bi tráng là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến.
Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ, vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,… thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình. Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy”- khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm thương trong tâm trí nhà thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Hình ảnh “người đi” trong “chiều sương ấy” là một ý thơ độc đáo vô cùng. Độc đáo bởi chiều sương ấy cho ta hiểu là khung cảnh của quá khứ. Cùng cảnh sông nước, tưởng như, người đi ấy đang chèo thuyền ngược dòng ký ức để trở về bờ Châu Mộc hoài niệm. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên)
Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Khi sương nhòa vào dòng nước khiến sương thêm bồng bềnh, khiến dòng nước càng bảng lảng. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.
Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyền hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”. “Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”.
Điệp ngữ “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm của một thời đã xa, nhữ khắc vào ấn tượng về miền Tây Bắc. Trước hết là thấy lau ở nẻo bến bờ. Hồn lau là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối. Nơi ấy cảnh vật vô tri đã hoá tâm hồn trong những người lính.
Trong chia phôi còn có nhớ, nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây lau tưởng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Có lẽ là cả hai, cả thiên nhiên và con người đều là những bông hoa kỷ niệm tuyệt đẹp, luôn bung nở hương sắc trong trí nhớ người lính ấy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa.
Thiên nhiên mang “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây còn vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm chứa chan xúc cảm. Có thể thấy, cảnh vật hiện lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm chất lãng mạn của người lính Hà thành.
Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của Quang Dũng. “trên độc mộc” – chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng?.
“Dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người. Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng, tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết đắt nhất mà Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế?
Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao nguyên đến như vậy! Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã quyện hoà với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về đồng đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. Xin nhắc mãi vần thơ của ông trong nỗi nhớ chơi vơi da diết!
Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng. Khác với bài thơ Tây Tiến, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử sáng tác dựa trên cảm hứng lãng mạn thuần túy. Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ phát triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ.
Nếu khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên” … thì đến khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”. Cũng có mây, nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường, đôi ngả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. “Dòng nước buồn thiu” trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết. Đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ “lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng.
“Thuyền, ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3 bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo.
Cả hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Những chi tiết thực (thuyền sông, trăng) đã góp phần tạo lên cảnh ảo: một con thuyền một dòng sông bọc trong trăng, vạn vật như rũ bỏ hết màu sắc đường nét phàm trần để thấm đẫm ánh trăng. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải “về kịp tối nay” vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”: Con thuyền vô định. Phiếm chỉ – là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm kiều, e ấp, mà chơ vơ còn lại con thuyền mồ côi khắc khoải đợi chờ trăng!
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Người đọc cũng không quên trong thơ Hàn Mặc Tử, trang là hình tượng luôn trở đi trở lại, là máu thịt là tài sản của thi nhân. Thi sĩ chẳng đã từng rao bán:
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Tuy nhiên bên trong bức tranh phong cảnh rất mộng ảo lại chứa đựng những từ ngữ cụ thể, mộc mạc: kịp- tối nay. “Tối nay” như thu bớt quỹ thời gian cho thấy một thực tại ngắn ngủi. Chữ “kịp” gợi cảm giác khắc khoải âu lo vì sợ muộn. Câu thơ thẫm đẫm cảm giác mong manh, chứa đầy linh cảm về sự mất mát lỡ làng.
Khổ thơ cho thấy cảnh chuyển từ rất xa rất nhanh – một đặc điểm của thơ Hàn Mặc Tử. Dẫu cuộc đời lìa bỏ phũ phàng, vẫn níu kéo tha thiết cuộc đời, đó chính là thông điệp nhân văn của khổ thơ này. Chính vì lẽ đó mà gần 80 năm qua, “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn xanh tươi trong vườn thơ Việt Nam. Nó góp phần đưa Hàn Mặc Tử vào vị trí là một trong những đỉnh cao của Thơ mới. Với bài thơ này, ta hiểu vì sao Chế Lan Viên lại nhận xét: “Tôi dám chắc với các người rằng, sau này những gì tầm thường mực thiết kia sẽ tan biến đi, còn lại một chút gì của thời này đó là Hàn Mặc Tử”.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 6
Hàn Mặc Tử và Quang Dũng đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một phong cách riêng, điều đó thể hiện cụ thể qua việc xây dựng vẻ đẹp thiên nhiên trong trong hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử được sáng tác năm 1938. Bài thơ được in trong tập Thơ Điên (về sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương). Còn Tây Tiến của Quang Dũng được sáng tác vào cuối năm 1948, khi nhà thơ chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ nên đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh (một làng cũ thuộc tỉnh Hà Đông Cũ). Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, lấy tên là “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”.
Trong Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử khắc họa một bức tranh thiên nhiên sông nước đượm buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cảnh vật trong bức tranh này đều nhuốm màu buồn bã, chia lìa. Với một tâm hồn tràn đầy mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh đẹp đấy nhưng cũng buồn đấy. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, “gió và mây” luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở trong thơ Hàn, gió và mây lại chia lìa đôi ngả. Gió theo lối gió, mây theo đường mây. Không có bất kì mối liên hệ nào. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, con sông cũng nhuốm màu bi thương “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, làm cho dòng sông cũng trở nên buồn bã, không buồn vận động. Bức tranh sông nước đêm trăng không thể thiếu được hình ảnh ánh trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu hỏi toát lên niềm hy vọng đầy khắc khoải. Đó là khát khao, là ước vọng được giao duyên, được hội ngộ của nhà thơ gửi gắm qua từ“kịp”.
Còn đến với Tây Tiến, Quang Dũng đã khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đầy thơ mộng:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Cảnh vật dường như trở nên có hồn hơn. Hình ảnh những bông hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Trên dòng nước đó xuất hiện dáng người trên thuyền độc mộc. “Hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc. Các cô như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng.
Hai đoạn thơ trên có sự tương đồng đều là sự cảm nhận của cái tôi trữ tình về khung cảnh sông nước quê hương. Chính cái tôi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung linh. Không chỉ vậy, cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai thi sĩ. Bên cạnh điểm tương đồng, hai đoạn thơ cũng có sự khác biệt. Trong đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trạng chia li, mong nhớ khắc khoải. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về kỉ niệm kháng chiến.
Sự tương đồng và khác biệt trên là do cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sông nước. Hoàn cảnh sáng tác khác nhau, cảnh ngộ riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ.
Hàn Mặc Tử và Quang Dũng đều là những nhà thơ tài hoa. Có thể thấy, hai tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến đã thể hiện được phong cách sáng tác của hai nhà thơ, đặc biệt qua hai đoạn thơ đã phân tích trên.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 7
Những bài thơ xuất sắc của văn học Việt Nam thường có những câu thơ miêu tả thiên nhiên cảnh vật nhưng qua đó nói lên tâm trạng chủ thể. Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ chính là hai bài thơ như thế.
Nhà thơ Quang Dũng viết Tây Tiến với dòng hồi tưởng và những tình cảm về đoàn quân Tây Tiến của mình. Ở đó không chỉ vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc mà cả tình cảm của những người lính cũng đều được khắc họa. Nhà thơ đã miêu tả nỗi nhớ về những bóng hình con người trên vùng đất Tây Bắc, đó là dáng người tha thướt, uyển chuyển và đầy dịu dàng trên con thuyền độc mộc. Dáng người ấy liệu có phải là dáng người con gái đã từng e ấp trong điệu múa Viêng Chăn khiến nhà thơ khi về xuôi vẫn ấn tượng mãi không quên. Dáng người ấy cũng được miêu tả trong làn sương mờ ảo, trong cảnh vật nên thơ lãng mạn của một buổi chiều buồn. Thực tại đã không thể quay lại, đó là những hình ảnh mà nhà thơ chỉ có thể lưu giữ trong tâm trí vì vậy những tình cảm và cảnh tượng ấy càng trở nên đặc sắc nhưng cũng rất xa vời.
Với Hàn Mặc Tử, nhà thơ viết về nỗi nhớ và khát khao được về bên người thương của mình. Sống ở Bình Định xa xôi với căn bệnh hiểm nghèo, nhà thơ đã gửi nỗi nhớ thương và tình cảm tha thiết của mình với người con gái xứ Huế qua những giấc mơ và lời tự hỏi. Cảnh vật trong khổ thơ này được miêu tả với một nét buồn cô quạnh, trầm mặc, chia lìa: “Gió theo lối gió mây đường mây / Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Có thể vì người buồn cảnh có vui đâu bao giờ cho nên cảnh vật trong thơ Hàn Mặc Tử cũng bị ngăn cách, xa vời đầy cách trở. Chỉ có nhà thơ với nỗi nhớ bồi hồi, da diết cháy bỏng, khao khát được ngay lập tức về bên người mình thương. Cũng giống như Quang Dũng, nhà thơ Hàn Mặc Tử đang mơ về một giấc mơ xa vời và khó thành sự thực. Những con người ấy chỉ có thể xuất hiện trong giấc mơ ảo ảnh của chàng trai mà thôi.
Cả hai khổ thơ trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ đều sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, đều mượn cảnh mà tả tình. Ở Tây Tiến là những hình ảnh thuyền độc mộc, dòng nước, nhành hoa thường thấy trong thơ Đường khi miêu tả sự chảy trôi, buông xuôi theo dòng đời thì ở Đây thôn Vĩ Dạ, đó là hình ảnh gió mây, sông, dòng nước, bóng trăng; cũng là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc ấy nhưng cảnh vật dường như tâm trạng hơn, day dứt hơn. Qua đó, người đọc có thể thấy được tình cảm chân thành của người viết. Hẳn họ phải rất bứt rứt, rất trăn trở trong nỗi cô đơn và tâm trạng khi nhớ về cảnh vật và con người của vùng đất nơi mình từng gắn bó.
Qua hai đoạn thơ, người đọc đều có thể thấy được sự chia cắt giữa hai bờ, hai vùng đất của các chàng trai. Thế nhưng ở họ có một điểm chung đó là tình cảm thủy chung không thay đổi, là tình cảm cháy bỏng và mãnh liệt mà tác giả gửi đến vùng đất và con người nơi xa. Dù là một bài thơ tả cảnh mà đong đầy tình cảm, khiến người đọc rung động trong từng câu chữ. Đây quả là những tác phẩm đặc sắc không chỉ đối với hai tác giả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử mà còn là những dòng thơ xuất sắc để lại cho thơ ca Việt Nam.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 8
Cảnh thiên nhiên và con người là những yếu tố thi ca quen thuộc, mỗi yếu tố đều mang ý nghĩa sâu sắc riêng. Tây Tiến nổi bật với hình ảnh núi đồi Tây Bắc và những bông lau, trong khi Đây thôn Vĩ Dạ lại gợi lên vẻ đẹp mơ màng của xứ Huế.
Khung cảnh thiên nhiên trong bài thơ được tái hiện với hình ảnh tinh tế như 'chiều sương ấy', gợi cảm giác nhẹ nhàng và mơ màng. Hình ảnh 'hồn lau nẻo bến bờ' phản ánh sự thanh nhã của cây cỏ ven bờ. 'Dáng người trên độc mộc' biểu thị cuộc sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên. Qua hình ảnh sương chiều, lau nẻo, dáng người và dòng nước lũ, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên thanh bình và tinh tế của miền quê Châu Mộc.
Thiên nhiên xứ Huế hiện lên nhẹ nhàng với gió và mây, tạo nên một vẻ đẹp dịu dàng, thân thiện. Đoạn thơ miêu tả một cảnh thiên nhiên tinh tế với sự kết hợp hài hòa giữa gió, mây, nước và hoa. Hình ảnh 'gió theo lối gió mây đường mây' mang đến cảm giác êm ái, còn 'dòng nước buồn thiu' gợi lên sự buồn bã. Hình ảnh 'thuyền ai đậu bến sông trăng đó' tạo sự huyền bí và lãng mạn, làm nổi bật vẻ đẹp tinh khôi của cảnh sông trăng.
Câu hỏi 'Có chở trăng về kịp tối nay?' thêm vào sự mơ hồ và cảm giác trắc trở. Việc chở trăng có thể tượng trưng cho việc mang vẻ đẹp thiên nhiên đến mọi người, làm hoàn thiện bức tranh đêm. Hàn Mặc Tử đã khéo léo dùng hình ảnh gió, mây, nước, hoa, thuyền và trăng để tạo ra một cảnh thiên nhiên tinh tế và lãng mạn trong 'Đây thôn Vĩ Dạ', thể hiện nỗi lòng và sự buồn bã trong thơ của ông.
Hàn Mặc Tử thường sử dụng ngôn từ đơn giản nhưng đầy cảm xúc để bày tỏ nỗi buồn của mình. Trước vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ, ông cảm nhận sự hòa quyện với thiên nhiên, gợi nỗi nhớ và sự hoài niệm về quá khứ. Cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ không chỉ gợi nhớ mà còn làm nổi bật sự thay đổi và mất mát. Câu hỏi 'Có chở trăng về kịp tối nay?' phản ánh sự thất vọng và chờ đợi không chắc chắn, tạo nên những bức tranh thơ lãng mạn và sâu sắc về thôn Vĩ Dạ.
Ngược lại, Quang Dũng khắc họa hình ảnh 'dáng người trên độc mộc' với sự sâu lắng và tình cảm chân thành của người dân Tây Bắc. Hình ảnh này gợi nhớ về những con người thân thiện và mộc mạc của vùng núi. Dù thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ có khác biệt, nhưng cả hai đều thể hiện tình yêu và sự gắn bó với con người nơi đây. Một bên là vẻ thơ mộng của xứ Huế, còn bên kia là sự mộc mạc, chân chất của núi rừng.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 9
Thiên nhiên thơ mộng mà hùng vĩ tự bao giờ đã khác xa qua lăng kính của những thi nhân để rồi mang theo một nét đẹp có hồn mà các nhà thơ đã thổi vào. Nếu Quang Dũng với bút pháp lãng mạn đã phác họa nên bức tranh thiên nhiên và con người Châu Mộc thật thơ mộng, mơ hồ qua khổ thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
của thi phẩm Tây Tiến thì với Hàn Mạc Tử, tài thơ đã đưa độc giả đến với bức tranh “nguyệt giang sầu” thật đẹp nhưng thấm đượm một nỗi sầu từ nội tại ở khổ thơ thứ hai của thi phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Có thể nói, cả Quang Dũng và Hàn Mạc Tử với cặp mắt tinh tế vẽ ngòi bút điêu luyện đã cho độc giả những góc nhìn về thiên nhiên rất đỗi mới mẻ mà nghệ thuật.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Khi đó nhà thơ vừa rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Thi Phẩm được viết bởi những hồi tưởng sâu đậm một thời của Quang Dũng.
Đoạn thơ thuộc phần hai khổ thứ hai của bài thơ với cảm hứng là nỗi nhớ về buổi chia tay đi Châu Mộc. Nỗi nhớ bao trùm lên bài thơ và đoạn thơ, Quang Dũng liên tục đưa độc giả đến với hàng loạt bức tranh chạy dọc theo dòng hồi tưởng của tác giả. Nếu ở những câu thơ trước, thi nhân cho ta bước vào cảnh liên hoan rực rỡ, vui tươi thì đến với những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng lại cho ta thả hồn mình vào cái mờ ảo, mênh mang của cảnh sông nước miền Tây.
Cả không gian lúc chiều xuống được giăng mắc bởi màn sương mờ ảo cho ta thấy nét đặc trưng của núi rừng nơi đây. Sâu vào bên trong lớp vỏ ngôn từ, đâu đó đọc giả cảm nhận được một cảm giác bâng khuâng, man mác một nỗi niềm hoài cổ. Với câu thơ “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” đã tạo nên một màu sắc hoang vắng, hiu hắt và tĩnh lặng cho không gian. Những cây lau vô tri vô giác bỗng chốc trở nên có linh hồn. Những trần lau xăm lạc phất phơ theo chiều gió đưa đẩy, qua cảm nhận của người ra đi có chất chứa nỗi lòng thật quyến luyến, như có hồn phảng phất trong gió trong cây.
Mặc dù Quang Dũng thổi vào thiên nhiên một nỗi nhớ, một nỗi buồn man mác, lưu luyến pha chút tiếc nuối nhưng ông không để cho bức tranh thiên nhiên của mình hiu hắt không bóng người – một cảnh tượng mang dáng dấp của nỗi sầu trong thơ mới. Quang Dũng đã khắc họa thêm những nét trong bức tranh hoài niệm còn đang dang dở. Giữa thiên nhiên hoang vu, tĩnh lặng của núi rừng Tây Bắc chợt xuất hiện hình ảnh của con người khỏe khoắn, rắn rỏi.
Thi nhân không tả mà chỉ gợi hình ảnh, dáng vóc của chàng trai hay cô gái chèo con thuyền độc mộc trên sông thượng nguồn. “Độc mộc” là con thuyền làm bằng cây gỗ to, khoét trũng dùng để vượt thác leo ghềnh. Chính vì hình ảnh đó đã làm cho “dáng người” lại càng mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, cứng cáp. Dáng người ấy có thể là cô gái Thái Mèo đã từng đưa các chiến sĩ vượt sông. Hình ảnh ấy đã để lại cho tâm hồn nhạy cảm của những người lính vốn dĩ xuất thân từ những chàng thanh niên trí thức đô thành Hà Nội một ấn tượng khó phai nhòa. Hòa vào khung cảnh nên thơ ấy là hình ảnh những cánh hoa rừng đong đưa trên dòng nước lã, gợi một cảm giác mềm mại, nhẹ nhàng làm cho lòng người thêm say đắm bâng khuâng, vừa tạo cho độc giả một góc nhìn về sự khỏe khoắn, dẻo dai của bông hoa rừng hay cũng chính là người dân nơi đây.
Có thể nói, Quang Dũng với ngòi bút tinh tế cùng nỗi nhớ đã tạo nên một bức tranh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đồng thời ta cũng có thể cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc của tác giả và hơn cả là của những người lính Tây Tiến, dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, tận hưởng từng khoảnh khắc đẹp của cuộc sống. Đến đây, người lính Tây Tiến như được sống trong một khung cảnh thanh bình mà họ như được tẩy rửa bụi đường mệt nhọc sau những trận hành quân dài.
Để độc giả có thể thấy được khung cảnh của một thời đã xa, cuộc thi nhân phải phác họa lại bức tranh với chất liệu là ngôn từ. Không giống như hội họa có thể tái hiện một cách tường tận và chân thật viễn cảnh thời chiến, thời gian của đoàn binh Tây Tiến, với thi ca, nhà thơ phải phác họa bức tranh ấy với ngòi bút điêu luyện của mình hòa vào trong một loại mực đặc biệt được pha chế bởi hồi tưởng, cảm xúc, nghệ thuật ngôn từ. Ở đây Quang Dũng cũng vậy, nhà thơ đã vận dụng một cách điêu nghệ bút pháp lãng mạn, trữ tình để cho những người lính Tây Tiến vừa rất đỗi anh hùng của một bậc chinh phu tráng sĩ mà cũng rất con người, hào hoa, lãng mạn, với những ước muốn bình dị. Nếu không có sự kết hợp giữa nghệ thuật miêu tả hết sức độc đáo cùng tính nhạc đặc sắc trong thi phẩm thì có lẽ độc giả đã không thể thấy một cách sắc nét khung cảnh mà Quang Dũng đã gợi nên. Tất cả nghệ thuật đã được thi nhân kết hợp nhuần nhuyễn để gợi được sự “điệu hồn” giữa thi nhân và độc giả. Đó chính là ranh giới mà nhà thơ phải vượt qua để đạt đến sự hoàn thiện trong thi phẩm.
Và Hàn Mạc Tử cũng không ngoại lệ để tạo nên một hồn thơ, cùng những tác phẩm nghệ thuật có thể tỏa sáng trên thi đàn. Thi nhân là một hồn thơ mãnh liệt có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông cũng có một bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường” viết về thiên nhiên đất nước và con người… Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được viết khi ông nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo, vì vậy bài thơ là bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng, nhất là khổ thơ:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bước vào thế giới của Hàn Mạc Tử, độc giả cảm nhận rõ nét một nỗi buồn da diết, nhà thơ lấy cái sầu để phủ lên vạn vật. Tất cả đều chìm sâu vào dòng chảy cảm xúc của nhà thơ – nỗi buồn. Câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” không chỉ tả cảnh, từ tính nhạc đến tính họa của thơ đều toát lên một cảm giác buồn bã, hiu hắt. Nhịp ngắt 3/4 với những chữ gió, chữ mây riêng rẽ ở từng vế câu đã tạo ra cảm giác có một sự ngăn cách, chia lìa thật quyết liệt. Từ sự phi lý về hiện tượng tự nhiên, Hàn Mạc Tử đã thể hiện sự hợp lý của tâm trạng trong cảnh ngộ của một con người gắn bó thiết tha với đời lại phải vĩnh viễn cách xa với đời. Thiên nhiên đã nhuốm màu tâm trạng con người, hay đúng hơn, thiên nhiên chỉ là những hình ảnh được nhà thơ nhắc đến để gửi gắm tâm trạng và thể hiện cảnh ngộ của chính bản thân mình. Như ý thơ của Nguyễn Du:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Nỗi sầu không dừng lại ở đây, nó đã phải lấy cả những câu thơ sau:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Phép nhân hóa trong hình ảnh dòng nước của con sông Hương buồn thiu vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như ngưng trệ, không trôi chảy, vừa gợi tả nỗi buồn. Và có phải chăng dòng sông ấy hay cũng chính là dòng cảm xúc của thi nhân, cứ mãi đọng lại một nỗi sầu nặng trĩu không sao tan biến.
Thử hòa hợp giữa xúc cảm và nghệ thuật để đắm chìm một cảnh tượng thật sầu. Không gian hoang vắng, chia lìa trong một thời gian ngưng trệ, cảnh vật hờ hững, lạnh lẽo với con người. Bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm cảnh mà ở đó, thiên nhiên chính là phương tiện để thể hiện cõi lòng u ám, buồn bã khi con người trở về với cõi thực của bi kịch riêng mình trong hiện tại.
Hàn Mặc Tử tiếp tục xoay lăng kính sang một cảnh vật mới – “nguyệt giang sầu”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Vạn vật dường như trở nên mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như thực, như mơ bởi ánh trăng. Lại tiếp tục một sự nghịch lý xuất hiện ngay trong đoạn thơ. Nếu theo quy luật của tự nhiên ánh trăng soi sáng mọi ngóc ngách của cảnh vật đêm tối thì ở đây, Hàn Mặc Tử lại hóa ánh trăng đi ngược với quy luật tạo hóa. Có lẽ đây là thế giới của cõi mộng. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành hình ai thấp thoáng, nhòa mờ trong trăng…Hình ảnh sông trăng có thể hiểu là ánh trăng lai láng khắp thế gian…Dù hiểu theo cách nào thì sông Hương thực của xứ Huế cũng từ cõi thực chảy trôi vào cõi mộng để bồi đắp vào dòng chảy xúc cảm đang dâng trào của thi nhân. Hai câu thơ đựng trong đó ít nhất hai câu hỏi da diết, đau đáu về một cõi mơ đẹp huyền ảo ngập tràn sắc trắng cứu rỗi vốn luôn xuất hiện trong thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ khao khát sống, khao khát yêu đời lại phải chia lìa cách biệt với cuộc sống thực tại, cách biệt với thế giới của những vẻ đẹp thực mà giờ đây đã là dĩ vãng đối với Hàn Mặc Tử nên ông chỉ có thể bám víu vào bóng ai trong ánh trăng huyền ảo, miên man vào cõi mộng để hình dung như được trở lại với đời. Cách diễn đạt phiếm chỉ trong câu hỏi “thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra một cảm giác tội nghiệp, dường như nhà thơ đang bị vây bọc bởi thế giới tăm tối, lạnh lẽo, chới với vọng hỏi một ai đó ở thế giới bên ngoài. Khát khao thoát khỏi ranh giới thực tại chỉ có thể để hồn thơ vượt qua ranh giới đó, nhưng đổi lại, nó đã nhuốm màu của nỗi sầu tăm tối.
Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều có một cặp mắt tinh tế để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên được chính tâm hồn lãng mạn của các nhà thơ thể hiện rất sinh động giàu sức gợi hình, gợi cảm.
Nhưng với mỗi hồn thơ, mỗi lăng kính khai thác và hoàn cảnh riêng thì nét đẹp của thiên nhiên lại được thể hiện một cách khác nhau. Đối với Hàn Mạc Tử, cái nhìn thiên nhiên gợi cảm xúc buồn da diết, cảnh vật tuy đẹp nhưng u sầu, đau đớn. Bởi lẽ vì chính nỗi sầu thế hệ, chính tâm trạng lúc này của Hàn Mặc Tử khi đang chịu những cơn đau của căn bệnh quái ác và hơn cả là phải đối diện với cái chết, nhà thơ của chúng ta đã treo ngay trước cặp mắt của mình một lăng kính mang tên nỗi sầu.
Còn Quang Dũng, cái nhìn thiên nhiên được thể hiện một cách đầy thơ mộng, trữ tình với một hồn thơ đầy tinh tế và nhạy cảm, tạo cho độc giả một cảm giác bâng khuâng và nao lòng trước cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Bằng chính cái tôi lãng mạn, hào hoa của mình, nhà thơ muốn thể hiện sự quyến luyến, nhớ nhung khi phải chia tay thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hàn Mặc Tử và Quang Dũng với mỗi hồn thơ đặc trưng đã hóa những trang viết từ ngôn từ trở thành những bức tâm cảnh đầy sôi động. Ở đó, độc giả như chìm đắm vào dòng chảy xúc cảm của thi nhân. Phải là một con người giàu tình yêu thiên nhiên thì mới có thể dễ dàng hóa vật nên tình, tạo cảnh thành tình của hai thi nhân.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 10
Cả hai đoạn thơ đều thể hiện tình cảm sâu đậm và sự yêu mến đặc biệt dành cho quê hương và cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống hoặc từng trải qua. Đây là điểm nổi bật và quan trọng trong cả hai tác phẩm. Tình yêu quê hương thường là nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác văn chương, thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh cảnh vật. Yêu quê hương giúp ta hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp và sự thân thuộc của nơi mình gắn bó. Hình ảnh sông, gió và hoa bắp lay tạo nên mối liên kết chặt chẽ với đất đai xứ Huế.
Cả Hàn Mặc Tử và Quang Dũng đều sử dụng ngôn từ lãng mạn và huyền bí để làm phong phú cảnh thiên nhiên, khiến người đọc cảm nhận được một thế giới mộng mơ. Quang Dũng thường miêu tả các chi tiết nhỏ như hồn lau nẻo và dòng nước lũ hoa đong đưa bằng ngôn ngữ lãng mạn, tạo nên bức tranh tinh tế với tình cảm sâu sắc. Hàn Mặc Tử cũng sử dụng ngôn ngữ lãng mạn để mô tả gió mây, dòng nước buồn thiu, và hoa bắp lay, tạo không khí bí ẩn và lãng mạn. Quang Dũng thêm vào các yếu tố huyền bí như 'hồn lau nẻo' để thể hiện cảm xúc sâu lắng của mình.
Cả hai tác phẩm đều thể hiện sự tài năng và nghệ thuật của các nhà thơ. Họ sử dụng ngôn ngữ hình ảnh và biểu cảm tinh tế để tạo ra những bức tranh sống động trong tâm trí người đọc.
Trong 'Đây Thôn Vĩ Dạ,' Hàn Mặc Tử tập trung vào các hình ảnh tâm lý như gió mây, thuyền, và sông trăng, tạo ra không khí tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Ngược lại, 'Tây Tiến' của Quang Dũng chú trọng vào các chi tiết cụ thể như lau nẻo, độc mộc, và nước lũ, dựng lên bức tranh thiên nhiên sống động và đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Tâm trạng trong 'Đây Thôn Vĩ Dạ' thường mang đậm cảm xúc sâu sắc và nỗi nhớ, trong khi 'Tây Tiến' thường gợi lên nỗi buồn và tình cảm về mảnh đất miền Tây trong thời kỳ kháng chiến.
Mỗi tác phẩm phản ánh bối cảnh và thời đại mà tác giả trải qua. 'Tây Tiến' của Quang Dũng gắn liền với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong khi 'Đây Thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử lại mô tả hình ảnh của thời kỳ hòa bình sau đó, thể hiện sự chuyển mình của đất nước qua thời gian.
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến - mẫu 11
Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Tây Tiến của Quang Dũng đều là những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ 20, nổi bật với cách thể hiện sự cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên. Dù hai nhà thơ có cách thể hiện khác biệt, họ đều chia sẻ cảm hứng sáng tạo và cái nhìn nghệ thuật tinh tế.
Trong 'Tây Tiến,' Quang Dũng miêu tả cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng và trữ tình. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu của Quang Dũng mà còn là một trong những bài thơ xuất sắc về người lính kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn tạo nên một khúc ca bi tráng về cuộc sống, chiến đấu, và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Ngược lại, 'Đây Thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử thể hiện tình cảm trữ tình đối với vẻ đẹp sông nước ở Huế, sử dụng hình ảnh thực tế nhưng giàu ý nghĩa tượng trưng để bày tỏ nỗi cô đơn và buồn bã trong tâm hồn tác giả.
Cả hai bài thơ đều thể hiện nghệ thuật và ngôn ngữ tinh tế để truyền tải cảm xúc và tạo ra những hình ảnh đẹp, cuốn hút người đọc vào thế giới của nhà thơ. Mặc dù hai đoạn thơ mô tả sự chia cách giữa các vùng đất, nhưng điểm chung quan trọng là tình cảm sâu sắc, chân thành và mãnh liệt mà tác giả gửi gắm đến vùng đất và con người xa xôi. Những tác phẩm này không chỉ là những bài thơ xuất sắc của Quang Dũng và Hàn Mặc Tử mà còn là những tác phẩm nghệ thuật đáng giá của thơ ca Việt Nam.