Nhân vật trữ tình là gì? Các xác định nhân vật trữ tình

1.8 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Nhân vật trữ tình là gì? Các xác định nhân vật trữ tình giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Nhân vật trữ tình là gì? Các xác định nhân vật trữ tình

1. Nhân vật trữ tình là gì?

Nhân vật trữ tình (tiếng Nga: liricheskyi geroi) là hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức tác giả. Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả – nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, toàn bộ trường ca hay toàn bộ sáng tác thơ) như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể, đôi khi có cả nét vẽ chân dung (mặc dù không bao giờ đạt tới đặc điểm của một nhân vật như trong tác phẩm tự sự hay kịch).

Hiện có những tranh cãi về khái niệm nhân vật trữ tình. Thông thường, người ta xem nhân vật trữ tình là hình tượng khái quát như một tính cách văn học được xây dựng trên cơ sở lấy các sự thật của tiểu sử tác giả làm nguyên mẫu. Đó là một “cái tôi” đã được sáng tạo ra. Ý kiến khác nhấn mạnh rằng cùng với hình tượng ấy, nhà thơ cũng thổ lộ tình cảm thật chân thành của mình trong những tình huống trữ tình, và người đọc không lầm khi tin những tình cảm ấy là thật. Tuy vậy, không được đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tĩnh với tác giả, bởi trong thơ trữ tình nhà thơ xuất hiện như “người đại diện cho xã hội, thời đại và nhân loại” (Bê-lin-xki), nhà thơ đã tự nâng mình lên trên đời thường cá biệt.

Ví dụ về nhân vật trữ tình:

Dưới đây là một số ví dụ về nhân vật trữ tình trong văn học:

- Nhân vật trong bài thơ "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ":

Câu ca dao này thể hiện tâm trạng nhớ nhung, tương tư của một người đang yêu. Nhân vật trữ tình có thể là một cô gái hay một chàng trai đang nhớ người yêu.

- Nhân vật trong bài thơ "Tôi yêu em" của Puskin:

Nhân vật trữ tình trong bài thơ này là một người đàn ông đang bày tỏ tình yêu sâu sắc và chân thành của mình, dù biết rằng tình yêu đó có thể không được đáp lại.

- Nhân vật trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử:

Nhân vật trữ tình là một người đang nhớ về cảnh đẹp và con người ở thôn Vĩ Dạ, với những cảm xúc buồn bã và tiếc nuối.

- Nhân vật trong bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận:

Nhân vật trữ tình thể hiện nỗi buồn man mác và sự cô đơn trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn.

2. Cách xác định nhân vật trữ tình

a. Đối tượng trữ tình

Đối tượng trữ tình chính là nhân vật, thường là những người phụ nữ, được nhân vật trữ tình dành trọn tâm hồn; yêu thương một cách mãnh liệt và sâu sắc. Đối tượng trữ tình thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm thơ ca, truyện ngắn hay trong các cuốn tiểu thuyết tình cảm.

Đối tượng trữ tình thường được miêu tả là người dịu dàng, tinh khiết và hoàn hảo trong mắt các nhân vật trữ tình. Họ thường là nguồn cảm hứng cho nhân vật trữ tình để thể hiện tình yêu cũng như sự lãng mạn của mình.

b. Đặc điểm của nhân vật trữ tình

Tình cảm sâu sắc, chân thành: Nhân vật trữ tình thường thể hiện tình cảm một cách trọn vẹn; không hời hợt hay ích kỷ. Họ thể hiện sự yêu, ghét, trân trọng hoặc là căm thù một cách rất mãnh liệt.

Tâm hồn thi sĩ, yêu thơ ca: Nhân vật trữ tình thường có tâm hồn nghệ sĩ; là người đam mê nghệ thuật, đặc biệt đó là thơ ca. Họ có khả năng diễn đạt những cảm xúc hay suy tư của mình thông qua các ngôn ngữ nghệ thuật.

Cảm xúc phức tạp, mâu thuẫn: Nhân vật trữ tình có tâm hồn phức tạp; thường chịu ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn hay khó khăn trong cuộc sống. Điều này khiến cho họ dễ dàng thấu hiểu cũng như là đồng cảm với những nỗi đau hoặc niềm vui của người khác.

Nhân vật trữ tình thường gặp khó khăn, thử thách trong cuộc sống: Họ thường phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Từ đó rèn luyện lên tính cách cũng như trí tuệ của họ.

c. Vai trò của nhân vật trữ tình

Nhân vật trữ tình đóng vai trò quan trọng trong văn học; đặc biệt là trong thể loại văn học trữ tình. Cụ thể như sau:

Thể hiện tình cảm và suy nghĩ sâu sắc: Nhân vật trữ tình cũng chính là người biểu đạt những cảm xúc, tình cảm hoặc là những suy nghĩ sâu sắc của tác giả hay chính bản thân nhân vật. Họ giúp cho người đọc có thể tiếp cận được với những giá trị nhân văn; suy ngẫm về tình yêu, hy vọng hoặc là sự đau khổ của cuộc sống.

Tạo động lực cho người đọc: Nhân vật trữ tình có sức ảnh hưởng lớn đối với người đọc; đặc biệt là với những người có cùng suy nghĩ và tình cảm. Họ có thể giúp cho người đọc cảm nhận được những cảm xúc và tình cảm đầy chân thành của mình; tình yêu cuồng nhiệt hoặc là động viên tinh thần của người đọc.

Tạo nên giá trị văn học: Nhân vật trữ tình giúp cho các tác phẩm trở nên phong phú, đầy cảm hứng và gợi cảm hơn. Họ giúp cho tác giả thể hiện được một cách trọn vẹn và sâu sắc những tình cảm, tâm trạng cũng như suy nghĩ của mình.

Tạo ra sự đa dạng cho văn học: Nhân vật trữ tình góp phần làm cho văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn.

3. Bài văn mẫu về nhân vật trữ tình trong thơ

 "Sang thu" - Hữu Thỉnh

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" được ông sáng tác cuối năm 1977.

Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.

Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se"

"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. "Phả" là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: "hương ổi", một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

"Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về"

Từ láy tượng hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. "Chùng chình" là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. "Hình như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.

Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội và

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuồn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vừa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ được nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:

"Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng "vắt nửa mình sang thu". Đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm.

Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

"Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi "sang thu", con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Xưa nay, mùa thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc... Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với "Sang thu" của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của "Sang thu".

Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ - thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một chút gì đó thâm trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Đề bài: Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang

Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông nổi danh từ phong trào Thơ mới với tập thơ đầu tay Lửa thiêng. Tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ trong tập thơ này đó là Tràng giang. Qua bài thơ, Huy Cận đã khắc hoạ cảnh thiên nhiên trời rộng sông dài mênh mang, rợn ngợp và biểu hiện một cái tôi thi sĩ mang đậm nỗi sầu nhân thế và tình yêu quê hương thiết tha, thầm kín.

Trước hết, Tràng giang là một không gian mênh mông, vô tận làm cho thi sĩ thấm thìa một nỗi buồn sông nước. Không phải ngẫu nhiên mà Huy Cận đã viết đề từ cho bài thơ là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Ngay cái tên bài thơ cũng gợi cảm giác mênh mông, hoang vắng: Tràng giang. Vì sao không phải là “Trường giang” mà lại là “Tràng giang1? Bởi ‘Tràng giang” không chỉ nói độ dài mà âm “ang” rộng mở còn gợi cảm giác về chiều rộng. Vậy là ngay từ nhan đề bài thơ, nhà thơ đã lưu ý người đọc về thiên nhiên mênh mông, hùng vĩ cùng với cái tôi thi sĩ “bâng khuâng” trước trời rộng sông dài.

Khổ đầu bài thơ mở ra một bức tranh sông nước mênh mang:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ thứ nhất đặc tả mặt nước và những con sóng của tràng giang với hình ảnh “sóng gợn”. Câu thơ thứ hai đặc tả những luồng nước trên sông. Nếu câu trên, sự vô biên được mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau, xô đuổi nhau “điệp điệp”, thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyền buông mái chèo trôi mãi về phía cuối trời. Huy Cận thật tài tình khi đẩy hai từ láy “điệp điệp” và “song song” xuống cuối câu khiến cho lời thơ đã hết mà âm hưởng của nó vẫn còn đọng lại. Hai câu thơ tiếp chứa đựng hai hình ảnh đối lập rõ nét:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Ở đây có sự đối lập giữa cái động và cái tĩnh, giữa vật đi xa và vật ở lại: thuyền thì trôi xuôi, nước thì ở lại. Ngoài ra còn một hình ảnh đối lập nữa - đổi lập giữa cái nhỏ và cái lớn: “củi một cành khô” - “mấy dòng”. Ở đây, cái nhỏ nhoi của con thuyền, cành củi khô càng làm nổi bật cái rộng dài vô tận của dòng sông. Không chỉ sử dụng nghệ thuật đối lập, Huy Cận còn dùng đảo ngữ ấn tượng, không viết “một cành củi khô” mà tách “củi một cành khô” khiến cho ấn tượng về cành củi khô khốc, tàn tạ bị nhấn mạnh. Đồng thời hình ảnh ấy còn ẩn dụ cho những kiếp người bơ vơ, trôi dạt giữa vũ trụ bao la, trong bức tranh thiên nhiên và trong cuộc đời bây giờ, trong đó có chính nhà thơ. Từ những nét thiên nhiên tạo vật mênh mông, rợn ngợp, đẹp mà buồn ấy, nhà thơ bày tỏ cảm xúc buồn man mác, một cái tôi bơ vơ, lạc lõng để rồi dấy lên nỗi xót thương kiếp người nhỏ bé, phiêu dạt giữa vũ trụ bao la vô định.

Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh “Tràng giang” có thêm âm thanh sự sống con người những nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Dường như điểm nhìn của nhà thơ đã mở rộng, ôm trùm khoảng không gian lớn hơn, xa hơn bao gồm cả làng xóm, bờ bãi, dòng sông. Nhưng ở đây tất cả dường như đều vắng lặng, yên ả, chỉ có mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, cồn cỏ lơ thơ heo hút. Lắng nghe đâu đây từ làng xa vẳng lại tiếng “chợ chiều” đã “vãn”. Tuy có chút âm thanh cuộc sống nhưng âm thanh ấy thật yếu ớt, mơ hồ. Khung cảnh hoang vắng ấy gợi nhớ đến những vần thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong Qua Đèo Ngang:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

Cùng là cảnh buồn, đìu hiu, vắng lặng nhưng ở Qua Đèo Ngang nữ sĩ còn thấy thấp thoáng bóng dáng con người “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” thì ở đây, con người chỉ được cảm nhận bằng âm thanh và âm thanh đó cũng thật mơ hồ. Trong ánh chiều tắt dần, bóng tối xuống dần, nỗi buồn cô đơn của thi sĩ dường như lan toả, thấm vào không gian cảnh vật, dâng cao mãi hun hút đến tận đỉnh trời. Câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” thật độc đáo. Tác giả không viết “sâu thăm thẳm”, “cao chót vót” mà viết “sâu chót vót” có lẽ nhằm tả cảnh ánh chiều in bóng xuống dòng sông rồi lại hắt lên bầu trời. Đây là hình ảnh của một không gian ba chiều rợn ngợp. Với nghệ thuật sử dụng từ cổ điển, phép chuyển đổi cảm giác mới lạ, cảnh thiên nhiên trở nên mênh mông hơn, sông thêm dài, trời thêm rộng và cái tôi trữ tình thêm cô đơn, nhỏ bé giữa vũ trụ bao la.

Nét cảnh bờ bãi đìu hiu ấy tiếp tục được thể hiện qua khổ thơ thứ ba:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” một lần nữa gợi sự liên tưởng về kiếp người nhỏ nhoi, trôi dạt. Không gian “tràng giang” tiếp tục được mở rộng mênh mang, hiu quạnh. Sự mênh mông, vắng lặng ây được nhấn mạnh bằng hai lần phủ định: không một chuyến đò ngang / không cầu gợi chút niềm thân mật”. Tác giả còn đưa vào bài thơ nhiều thanh bằng khiến cho người dọc có cảm giác “tràng giang” tiếp tục trôi xuôi với âm điệu trầm buồn. Cảnh thấm đẫm nỗi sầu của lòng người.

Nỗi buồn “điệp điệp” triền miên trong lòng người lan toả vào cảnh vật trở nên khắc khoải, day dứt nhất ở khổ thơ cuối với những nét thiên nhiên nổi bật sự đối lập.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dạn dạn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng vẫn mang nét cô đơn. Mây cao đùn “lớp lớp” như che phủ “núi bạc” đối lập với hình ảnh một cánh nhỏ nhoi, nghiêng ngả vừa gợi bức tranh hoàng hôn trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Rặng liễu sương sa khách bước dồn.”

Vừa tiếp tục ẩn dụ về kiếp nhân sinh. Do đó, niềm cảm thương nhân thế của Huy Cận càng đậm nét: thương người rồi thương mình cũng đang trong cảnh cô đơn. Bởi thế, đến cuối bài thơ, thi sĩ trực tiếp bày tỏ thân phận riêng của mình:

“Lòng quê dạn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Huy Cận đã học tập và sáng tạo hình ảnh thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng hạc lâu: Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.”

Điều khác biệt ở Huy Cận là sự đối lập giữa ngoại cảnh và tâm cảnh: Người lữ khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng mà nhớ quê hương còn nhân vật trữ tình trong “tràng giang” đứng trước cảnh sông nước “không khói hoàng hôn” mà vẫn rưng rưng “nhớ nhà”. Điều đó chứng tỏ cảm xúc nhớ thương của nhà thơ luôn thường trực, đã xuất hiện từ câu thơ đầu, nôi tiếp, nâng cao và xoáy sâu để đến đây tất cả lên thành đỉnh cao nỗi nhớ: thương mình, thương nhà cũng là thương đời thương nước.

Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn, âm điệu trầm lắng, nhẹ nhàng và ngôn từ hình ảnh vừa hiện đại, vừa cổ điển, trang trọng, Tràng giang vừa là tiếng thơ tả cảnh thiên nhiên, đất nước thơ mộng, đẹp mà buồn, vừa thể hiện cảm hứng nhân sinh, nỗi buồn nhân thế, yêu quê hương tha thiết của Huy Cận. Tràng giang không chỉ đơn thuần là bài thơ tả cảnh thiên nhiên mà đúng như Xuân Diệu nhận xét: “Đó là tiếng thơ mở lòng cho tình yêu Tổ quốc”.

Vậy là, với Tràng giang, nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho đời, cho người yêu thơ bức tranh thiên nhiên “tràng giang” mênh mông, rợn ngợp cùng hình ảnh về cái tôi trữ tình yêu nước, thương nhà, thương người sâu lắng, tha thiết. Bài thơ xứng đáng và tiêu biểu cho dòng thơ lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 và thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Nó sẽ sống mãi trong lòng tôi và trong lòng bạn đọc nhiều thời như một áng thơ bất hủ.

Đánh giá

0

0 đánh giá