TOP 30 Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng

38

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng

Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về hình tượng “sóng” và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

TOP 30 Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng (ảnh 1)

Dàn ý Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng

1. Mở bài

Giới thiệu nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng.

2. Thân bài

“Dữ dội và dịu êm
….………………
Sóng tìm ra tận bể”

Tính từ trái nghĩa “dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ” thể hiện những thái cực đối lập của con sóng. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu.

Mượn hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời để bóng gió nói về tâm tư của người con gái trong tình yêu luôn trăn trở nhiều điều và có ước muốn lớn lao là khám phá được những băn khoăn đó.

“Ôi con sóng ngày xưa
….…………………
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Con sóng: ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi.

Người con gái: khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực; bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.

“Trước muôn trùng sóng bể
….……………………..
Từ nơi nào sóng lên?”

Trước biển lớn, người con gái suy tư về tình yêu của mình.

Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” là suy nghĩ của cô gái về cội nguồn của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió
….…………………
Khi nào ta yêu nhau”

Tự vấn về nguồn gốc của con sóng: sóng bắt đầu từ gió còn gió bắt đầu từ đâu thì không lí giải được.

Sự lí giải, cắt nghĩa về cội nguồn của sóng dẫn đến cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tình yêu đầy bí ẩn không thể giải thích được cội nguồn của nó, thời điểm mà nó bắt đầu.

→ Cách cắt nghĩa mới mẻ, phóng khoáng.

“Con sóng dưới lòng sâu
….……………………
Cả trong mơ còn thức”

Tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải của con sóng, dù con sóng ở bất cứ nơi nào vẫn chỉ nhớ về bờ, hướng về ngày ngày đêm đêm cho đến khi vào được đến bờ.

Người con gái luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương, nhấn mạnh nỗi nhớ triền miên luôn thường trực. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

“Dẫu xuôi về phương bắc
….………………………
Hướng về anh - một phương”

“Dẫu…” lặp cấu trúc khẳng định dứt khoát nỗi nhớ và niềm tin tuyệt đối vào tình yêu.

Dù cho đi đến bất cứ nơi nào thì trong lòng người con gái ấy cũng luôn hướng về người yêu vì trong tim cô người yêu là phương hướng duy nhất dẫn lối cho cô vượt qua mọi khoảng cách, mọi khó khăn.

“Ở ngoài kia đại dương
….……………………..
Dù muôn vời cách trở”

Con sóng dù ở ngoài khơi xa thế nào, dù khó khăn thế nào cũng vẫn tìm được đến bến bờ.

Người con gái dù đa sầu đa cảm, suy tư trăn trở thế nào cuối cùng rồi cũng sẽ được hạnh phúc.

“Cuộc đời tuy dài thế
….……………………
Mây vẫn bay về xa”

Người con gái ấy còn nhiều lo lắng, trăn trở: năm tháng còn rất dài, biển kia bao la đến đâu nhưng liệu có đủ sức để giữ những đám mây ở lại bên mình mãi mãi?

Người con gái dù có yêu nhiều đến đâu, có khao khát nhiều đến đâu nhưng liệu có giữ được người yêu, được tình yêu này ở lại cùng mình và vẫn vẹn nguyên như lúc đầu?

“Làm sao được tan ra
….…………………..
Để ngàn năm còn vỗ”

Khi con sóng tan ra thành những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ không còn những đau khổ, những lo lắng. Đó cũng là ước muốn của người con gái, khao khát được sống với tình yêu, với người mình yêu thương trọn đời trọn kiếp.

→ Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ: mượn nét tương đồng của con sóng để diễn tả nội tâm của người con gái trong tình yêu giúp bạn đọc dễ hình dung ra và có những liên tưởng thú vị.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm: Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu.

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 1

Xuân Quỳnh, thơ ca Việt Nam hiện đại mới có được tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu vừa hôn nhiên vừa chân thật, vừa sôi nổi mãnh liệt của một trái tim phụ nữ. Sóng là một bài thơ khá tiêu biểu của hồn thơ ấy, được sáng tác vào năm 1967, khi thi sĩ vừa tròn 25 tuổi. Bài thơ là lời tác giả tự nói với mình và nói với mọi người về tình yêu và khát vọng hạnh phúc muôn đời của con người. Qua đó thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ Việt Nam, trong thời đại mới – sôi nổi, trẻ trung, chân thực và giàu hi vọng tin tưởng.

Tình yêu và biển cả không phải là một nét mới trong thơ ca. Nhưng Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng đẻ nói về tình yêu, hình dung và so sánh với tình yêu. Sóng có đặc trưng động, và đặc trưng này rất thích hợp biểu tượng cho những trạng thái tình cảm mãnh liệt, thiết tha say đắm, day dứt khôn nguôi.

Chẳng hề giấu giếm, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để nói về mình, với người về tình yêu trẻ trung, nồng nhiệt gắn với hanh phúc muôn đời của con người. Tuy nhiên, khi cảm xúc dâng chào mãnh liệt thì hình tượng sóng dương như chưa đủ để diễn ta vì vậy tác giả đã dùng hình tượng “em” bởi vậy bài thơ có hai hình tượng hai lối biểu đạt song hành nhau. Sóng là hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi chữ tình của nhà thơ. Sóng và em tuy hai mà một, chúng soi chiếu vào nhau để làm nổi bật cái tương đồng có lúc lại hòa làm một để cộng hưởng âm vang. Có thể nói rằng, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ tình yêu dạt gào mênh mông và khát vọng trường cửu.

Bài thơ mở đầu bằng khát vọng về một tình yêu rộng lớn, cao đẹp đang rạo rực trong trái tim tuổi trẻ. Tuổi trẻ thì luôn khao khát yêu thương với những đam mê bất tận. Những ở đây Xuân Quỳnh lại muốn có một tình yêu chân chính, rộng lớn. Để nói về điều này tác giả đã dùng đến hình tượng những con sóng từ bỏ những con sông nhỏ bé mà vươn mình ra biển lớn

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Đây chính là một nét mới trong quan niệm tình yêu của người phụ nữ Việt Nam. Người con giái trong thơ đã không con cam chịu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà đã như con sóng biết dứt khoát từ bỏ dong sông chật hẹp để tìm ra biển rộng, đến với chân trời rộng lớn đầy bao dung. Thật là minh và cũng thật là quyết liệt. Và theo Xuân Quỳnh, đó mới đích thực là khát vọng chân chính, mãnh liệt của tuổi trẻ. Hanh trinh ra bể rộng cảu sóng cũng chính là hành trình người phụ nữ giải phóng, quyết từ bỏ những giới hạn chật hẹp của tình yêu vị kur đế với chân trời bao la của tình yêu rộng lớn. Ra bể rộng con sóng tìm thấy chính minh, thấy sức mạnh cũng như mọi khao khay của nó. Và điều ấy cũng giống như tuổi trẻ của muôn đời, tình yêu chân chính, đẹp đẽ và cao thượng bao giờ cũng là một khát vọng bồi hồi:“Nỗi khát vọng tình yêu. Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Nhà thơ có một con mắt quan sát rất tinh tế, cảm nhận sóng ở nhiều tầng, nhiều lớp và liên hệ đến bản chất của tình yêu – sôi nổi, mãnh liệt với nỗi nhớ da diết đến cháy bỏng:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.”

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách, khổ thơ bỗng nhiên thêm hai câu thơ nữa để thể hiện trạng đang trao dâng, mãnh liệt không nguôi. Tình yêu có khi lãng sâu vào hồn con người, có khi được thể hiện tất cả ra bề mặt. và chỉ có những người thật nhạy cảm, có chiều sâu mới có thể hiểu được nó. Nhịp thơ vẫn dào dạt nhưng có chút náo nữ, mãnh liệt hơn: “Em nhớ đến anh” là một lời thú nhận n bấy ngờ và tóa bạo nhưng chân thành và thiết em. Em nhớ anh như sóng nhớ bờ, nỗi nhớ ấy trờ thành trong tiềm thức chứ không còn là ý thức nữa. Nó ngực trị trong sâu thẳm của tâm hồn, không chỉ nhờ ngày đêm mà con cả trong cơn mơ nỗi nhớ ấy vẫn bao trùm, rồi tràn về như con sóng tức tưởi tìm bờ trong đêm tối.

Từ nỗi nhớ da diết trong tình yêu, Xuân Quỳnh đã khẳng định tấm long son sắt thủy chung của mình đối với người yêu. Dẫu anh ở phương nào thì lòng em chỉ hướng đến anh mà thôi:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh- một phương”

Vân hình tượng song hành của song và em đẻ nói lên lòng thủy chung và niềm tin son sắt của tinh yêu đôi lứa. Hình ảnh đối lập “phương bắc” và “phương nam” “ngược” và “xuôi” đã gợi cho ta không gian xa xôi cách trở. Các nói tượng trưng cho sự xáo trộn bất thường có thể xẩy ra. Nhưng có thể khẳng định một điều bất biến không thể thay đổi được đó là tình cảm em dành cho anh không hề thay đổi dù em có ở nơi nào em vẫn luôn hướng về phương anh.

Không gian cho tình yêu cũng thật rộng lớn và thênh thang nhưng phương tình yêu của em thì luôn hướng về phương anh. Sắc thái tình yêu thì nhiều nhưng sự thủy chung của người phụ nữ thì chỉ cso một phương không bao giờ chia lìa, bởi vì đó là tình yêu vĩnh cư:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Ðể ngàn năm còn vỗ”

Tác giả đã ý thức đượ sự mong manh của tình yêu trong cuộc đời này nên giữa bao nhiều khát khao có thể danh được tình yêu thì Xuân Quỳnh chỉ khát khao một điều đó là sự trường tồn. Cuộc đời còn tình yêu thì cuộc đời còn tươi đẹp, đáng sống và sống trong tình yêu là một điều hạnh phúc. Xuân Quỳnh mong ước được sống mãi mãi tỏng tình yêu bất tử.

Qua hình tượng sóng bài thơ đã bộc lỗ tất cả những cung bậc trong tình yêu cũng những thể hiện tình cảm sắc son, tha thiết, thủy chung cao thường cũng nỗi nhớ của một tình yêu cao thượng và vĩnh cửu. Sóng cũng là tâm hồn của phụ nữ trong tình yêu một tình yêu hiện đại mới mẻ nhưng không tách rời truyền thống. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.

TOP 30 Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng (ảnh 2)

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 2

Thơ tình là một mảng đặc sắc và tiêu biểu nhất của thơ Xuân Quỳnh. Tình yêu vốn là một đề tài rất quen thuộc của thơ ca, thế nhưng đến Xuân Quỳnh, chúng vẫn mang một vẻ rất riêng, không quá thật thà nhưng xa lạ với những uốn éo điệu đàng, những sự "réo rắt" quá độ. Thơ tình của chị là tiếng nói bày tỏ nỗi khát khao tình yêu vừa hồn nhiên, tha thiết, vừa sôi nổi, say đắm, mãnh liệt của một trái tim người phụ nữ. “Sóng” là một trong những bài thơ hay của Xuân Quỳnh, ở đó, khát vọng tình yêu đã được thể hiện theo một cách riêng rất chân thực, rất dễ yêu, dù hình tượng sóng mà Xuân Quỳnh mượn làm ẩn dụ vốn chẳng xa lạ gì với các nhà thơ viết về tình yêu trước đó. Bài thơ “Sóng” được rút từ tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968).

Trước Xuân Quỳnh đã có rất nhiều nhà thơ viết về tình yêu. Nhưng với thơ tình Xuân Quỳnh, dường như đó chỉ là những dòng tự sự về chính cuộc đời và những câu chuyện tình của chị:

“Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Chỉ với hai câu thơ thôi, ta hiểu rằng chị đang nói về chính mình, người phụ nữ trẻ với những khát khao yêu đương mãnh liệt của tuổi trẻ, với những mong ước bình dị, gần gũi của một người phụ nữ, hồn thơ sôi nổi, trẻ trung nhưng vẫn nồng thắm, thiết tha, đó là một tâm hồn gắn liền với cuộc sống, với con người, tâm hồn luôn trăn trở lo âu, khao khát tình yêu và trân trọng chăm chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường. Nổi bật nhất trong thơ Xuân Quỳnh chính là sự dung dị đằm thắm và rất mực chân thành, chính vì thế mà thơ Xuân Quỳnh có sức rung cảm mãnh liệt với tâm hồn người đọc.

Hình tượng “sóng” trong bài thơ Xuân Quỳnh có nét đặc sắc rất mới, rất riêng, một sáng tạo nghệ thuật rất độc đáo làm nổi rõ sức sống và vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu. “Sóng” là nhan đề của bài thơ nhưng cũng là hình ảnh chủ đạo của toàn bài, đó là một hình tượng ẩn dụ mang tính chất biểu tượng cho trái tim người phụ nữ đang yêu. Gắn liền với hình tượng “Sóng” là hình tượng nhân vật trữ tình “em”. Sóng chính là sự hoá thân của em, “sóng” và “em” tuy hai mà một. Nhờ vào “sóng”, người phụ nữ trong bài thơ có thể soi rõ tâm hồn mình khi đang yêu, là những đợt sóng lòng, là những trạng thái phong phú và phức tạp của tâm hồn người con gái khi yêu.

Mở đầu, “sóng” tự bộc bạch về những phẩm chất, trạng' thái khác thường của mình. Chúng vừa phong phú, đa dạng, vừa phức tạp, thậm chí là đôi lập nhau:

“Dữ dội và dịu êm

Ôn ào và lặng lẽ”

Con sóng ấy cũng như trái tim của người con gái đang yêu, cồn cào, khát khao tình yêu da diết, các trạng thái tâm lý ấy dường như muôn màu và thật nhiều biến đổi, chuyển hoá cho nhau thật lý thú và bí ẩn. Con sóng ấy mang một khát vọng lớn lao, khát vọng tìm hiểu đến tận cùng, vì “sông không hiểu nổi mình” nên “sóng tìm ra tận bể”, con sóng ấy như tâm hồn người con gái muốn thoát khỏi cái khuôn khổ chật hẹp, tìm đến chân trời cao rộng của tâm hồn. Ra nơi bể rộng, con sông mới thực sự tìm thấy bản thân mình.

Sóng cũng như tình yêu, là sự vĩnh hằng của thời gian. Sóng vỗ suốt ngày đêm không ngừng nghỉ, từ ngày xưa cho đến ngàn năm sau cũng như nỗi khát khao tình yêu ngàn đời của nhân loại thật mãnh liệt, vẫn cứ xôn xao, vẫn cứ rạo rực dù bao năm tháng trôi qua:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Tâm hồn của “tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên” luôn muốn cắt nghĩa, giải thích về cái quy luật bí ẩn của tình yêu. Nhưng làm sao con người ta có thể trả lời rạch ròi về cái thời điểm bắt đầu của một tình yêu, làm sao người ta có thể đưa ra một lý giải chính xác về thời điểm mà con người ta “phải lòng” nhau:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gỉ đâu, một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhẹ nhẹ, gió xôn xao”

(Xuân Diệu)

Xuân Quỳnh cũng chỉ có thể giải thích được tình yêu bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình như một lời thú nhận thành thực, hồn nhiên nhưng cũng không kém sâu sắc “tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao mà hiểu hết được” (Trần Đăng Xuyền)

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau"

Nhà thơ vẫn để nguyên vẹn lòng mình với các lắc đầu thật dễ động lòng của người con gái “Em cũng không biết nữa”, chỉ biết ta đang yêu nhau, thế là đủ. Một chút thắc mắc, một chút nghĩ suy, chỉ là để yên tâm hơn với hạnh phúc mà mình đang có. Tình yêu muôn đời vẫn vậy, vẫn động, song vẫn muốn vỗ suốt hai chiều không gian và thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Tình yêu luôn đồng hành vơi nỗi nhớ như tương tư là căn bệnh phổ biến với tất cả những người đang yêu. Nguyễn Bính cũng đã từng viết:

“Nắng mưa là bệnh của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Nỗi nhớ, niềm thương của người con gái trong bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ ấy như bao trùm cả không gian bao la, chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn và khắc khoải da diết trong mọi không gian, thời gian.

Hai câu thơ “Lòng em nhớ tới anh / Cả trong mơ còn thức” như “bồi đắp” thêm nỗi nhớ làm nó trở nên chân thực tới mức rung động. Em nhớ anh từ cõi thực cho đến cõi mơ, nỗi nhớ đã chạm đến nơi sâu thẳm nhất của cõi lòng. Khi ẩn mình trong sóng, khi đứng hẳn ra xưng “em”, cái “tôi” Xuân Quỳnh luôn thao thức, trăn trở, luôn khắc khoải bởi tình yêu, luôn khát khao tìm kiếm được một tình yêu chân chính, chung thuỷ:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Lời khẳng định sự chung thuỷ của tình yêu thật da diết, cháy bỏng nhưng cũng chứa đựng thật nhiều thách thức. Với người phụ nữ khi yêu thì có lẽ khoảng cách chỉ là con số không, không có phương Bắc, cũng chẳng có phương Nam, tất cả chỉ là anh - phương Anh. Thành thực và cháy bỏng đến da diết, táo bạo nhưng sự sâu sắc của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa cho thơ tình Xuân Quỳnh cất cánh.

Có lẽ, tình yêu chân chính là vậy, sôi nổi thiết tha, mãnh liệt nhưng vẫn trong sáng và thuỷ chung:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sống vỗ

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Một lần nữa, hình tượng sóng lại được mượn để diễn đạt khát vọng vươn lên trong tình yêu. Thông qua hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh đã hiện thực hoá tính thuỷ chung, trước sau như một của người con gái khi yêu. Vượt qua những khó khăn, trắc trở, những giông gió, bão bùng của đại dương, sóng vẫn dồn dập tiến về bờ. Bờ là hiện thân của hạnh phúc, của bình yên, của sự bình an mà con người ta vẫn muôn đời tìm kiếm. Sau tất cả những khó khăn, gian khổ ngoài đại dương, sóng lại tìm về với bờ, tìm về chốn bình yên của lòng mình.

Tình yêu tuy da diết thế, cháy bỏng thế, nhưng vẫn thoáng đâu đó một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian và cái hữu hạn của đời người:

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Biển dù có rộng đến mấy rồi cũng có bờ, có giới hạn, như những đám mây không thể cứ mãi dừng trên biển, chúng còn phải tiếp tục cuộc hành trình của mình trên bầu trời xanh để đi về cõi vô tận. Cuộc đời con người ta cũng thế, năm tháng vẫn bình thản trôi qua theo quy luật khắc nghiệt của thời gian, không gian thời gian là vô hạn; thế nhưng cuộc đời con người thì hữu hạn lắm. Có lẽ, vì đứng trước biển nên người con gái trong bài thơ luôn có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người và cái vĩnh hằng của vũ trụ. Con người luôn có khát vọng sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi bên người mình yêu thương

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển Lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

Cuối bài thơ là sự khao khát được hoá thân, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu sẽ còn mãi, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc đời.

Bài thơ là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu, là sức sống của tình yêu bất diệt. Người phụ nữ khi yêu luôn có một tâm hồn khát khao, luôn muốn vươn tới một tình yêu đắm say, thuỷ chung, quên mình. Một tình yêu dù rất táo bạo nhưng vẫn giàu nữ tính, hiện đại nhưng vẫn đậm chất truyền thống, tình yêu vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Hình tượng "sóng” tượng trưng cho nhân vật “em” vô cùng độc đáo, “giữa biển lớn tình yêu” con sóng ấy vẫn dào dạt vỗ.

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 3

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:

Dữ dội / và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” - “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…

cứ thế:

- Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

- Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam ...

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm

… tận bể

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

TOP 30 Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng (ảnh 3)

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 4

Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: "Hoa cúc xanh", "Sóng", "Thuyền và biển", "Nói cùng anh", "Mùa hoa doi",...

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là "nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng", làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người "thực sự Người hơn". Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng "sóng" là ẩn dụ về "em", về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì "dữ dội", lúc thì "dịu êm", có lúc lại "ồn ào", có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ".

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ "Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào" (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

"Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ".

Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng "Những cô gái da mịn màng như lụa - Những chàng trai đang độ hai mươi" (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động "bồi hồi" như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, "Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần" (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, "em nghĩ về anh, em", và tự hỏi: "Từ khi nào sóng lên". Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:

"Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau".

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Xuân Diệu). Câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đầu lưu luyến" vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?".

Sóng được nhân hóa, "sóng nhớ bờ", sóng "ngày đêm không ngủ được", dù ở "dưới lòng sâu", hay "ở trên mặt nước". Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, "thôn Đoài thì nhớ thôn Đông..." người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức".

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm "cả trong mơ" và cả trong lúc "còn thức". Một chữ "nhớ" tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua", chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược... nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

"Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

Cấu trúc đoạn thơ: "dẫu ... cũng...", chữ "dẫu" được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: "cũng nghĩ", "hướng về" liên kết với số từ "một" (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong "Thề non nước":

"Dù cho sông cạn đá mòn,

Còn non còn nước hãy còn thề xưa".

Tình yêu đẹp đem đến cho "em" một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có "muôn vời cách trở". Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở"

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

"Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa".

"Tuy... vẫn...", "dẫu... vẫn", cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. "Năm tháng" và "mây" là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được "tan ra", muốn được hóa thân thành "Trăm sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ". Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống "giữa biển lớn tình yêu" để ngàn năm "còn vỗ"... Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

"Sóng" cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái "được yêu" như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là "sóng" ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình "Biển"của thi sĩ Xuân Diệu "sóng" lại là hình ảnh người con trai đa tình:

"Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi hôn lại

Hôn mãi đến muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt...".

Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao "bồi hồi trong ngực trẻ" về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 5

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít thi sĩ viết về tình yêu – đề tài muôn thuở và không bao giờ vơi cạn của thi ca – thế nhưng, cũng với đề tài này, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã thực sự để lại dấu ấn trên thi đàn Việt Nam. Từ những năm khói lửa chiến tranh, những vần thơ của Xuân Quỳnh đã làm bổi hồi bao trái tim người đọc. Thi sĩ đã đem đến cảm nhận về một tình yêu thuần khiết, dung dị và hết sức dạt dào, tha thiết. Sóng có thế coi là một trong số những bài thơ về tình yêu hay nhất của nữ sĩ. Có người đã từng nói Sóng của Xuân Quỳnh là một bài ca về một tình yêu giản dị mà đẹp đến mê lòng. Tình yêu luôn có nhu cầu được chia sẻ và giãi bày. Xuân Quỳnh đã mượn “sóng” – một hình ảnh đặc biệt – để bộc lộ tình yêu của mình. Ngay từ khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã có những phát hiện mới mẻ về “tính cách” của “sóng”:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Thi sĩ đã khám phá ra những trạng thái đôi lập trong con sóng: dữ dợi, ổn ào, mạnh mẽ đến cuồng nhiệt và “dịu êm”, “lặng lẽ”, sâu lắng đến dịu dàng. Bản tính của sóng thật thất thường như tâm hồn người con gái đang yêu. Đây là hai câu thơ tự bạch, tự thú táo bạo mà dịu dàng. Táo bạo vì nó quá mãnh liệt và chân thực. Dịu dàng vì sau những dữ dội, ồn ào, tình yêu vẫn đổ về phía cuối câu thơ để lắng vào dịu êm lặng lẽ – đó là cái dịu dàng con gái làm nên chất nữ tính của hình tượng sóng. Xuân Quỳnh đã tinh tế biết bao khi nhận ra hai trạng thái tưởng chừng như đối lập của con sóng để khám phá về tình yêu. Tinh yêu đâu phải dễ lí giải, nó cũng “nắng mưa thất thường”, cũng đầy mâu thuẫn. Trước trạng thái ấy, Xuân Quỳnh đã thổi vào con sóng một niềm khao khát:

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ngay từ đầu, con sóng tâm trạng đã ùn vào, vỗ sóng trong tâm hồn người đọc. Ta bỗng nhận ra trong bản thân mình sự đồng cảm với thi sĩ và với chính con sóng kia. Con người đâu phải lúc nào cũng hiếu rõ về mình. Chính vì thế trong khổ tiếp theo, tứ thơ chuyên từ hình tượng sóng sang những suy nghĩ về tình cảm con người, vừa đột ngột vừa tự nhiên:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Từ ngày xưa đến ngày sau, liên tưởng thơ đã vươn tới cái muôn đời. Ta cảm nhận sâu sắc về một tình yêu thủy chung, cháy bỏng lúc nào cũng phập phồng “trong ngực trẻ”. Từ sóng cho tới tình yêu vốn là tứ thơ quen thuộc xưa nay. Người xưa từng mượn sóng mà hạ lời thề:

Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh,

Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em.

(Ca dao)

Con sóng si tình của Xuân Diệu từng khát khao:

Cho anh làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn ôm đềm mãi mãi

(Biển)

Nét riêng của Xuân Quỳnh là tạo cho con sóng sự nữ tính đấy sức sống qua các trạng thái khác nhau: Có cái bồi hồi rất trẻ trung; có cái dữ dội, mãnh liệt nhưng còn có cá cái dịu đàng sâu lắng. Xuân Quỳnh xoay trở con sóng yêu đầy lo âu để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu trên cả hai mặt cảm xúc và nhận thức.

Những khổ thơ tiếp theo, sóng từ đối tượng cảm nhận được chuyển thành đối tượng để suy tư. “Trước muốn trùng sóng bể, dòng suy tư cuộn lên như sóng không cùng, những câu hỏi hóa thành cuộc đối thoại lớn với vũ trụ về tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Vói những câu hỏi, Xuân Quỳnh đang muốn truy tìm nguyên nhân, truy tìm ngọn nguồn của tình yêu. Song dường như những câu hỏi ấy chẳng bao giò có thể tìm được một câu trả lời thích đáng. Thiên nhiên bí ấn còn có thể cắt nghĩa nhưng “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” (Xuân Diệu), Xuân Quỳnh đã diễn đạt sâu sắc cái mà người ta gọi là “Trái tim có những quỵ luật riêng mà lí trí không thể hiểu được”. Tình yêu cần có lí trí nhưng trước hết đó là câu chuyện của trái tim, cho nên không thể dùng lí trí tính táo để xác định sự bắt đầu của tình yêu. Chính sự tưởng chừng như bất lực trong những câu trả lời đã đưa tình yêu trở về với bản chất của nó. Đặc biệt, câu thơ: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau” có một giọng điệu hết sức đáng yêu. Nếu đảo lại trật tự; “Khi nào ta yêu nhau – Em cũng không biết nữa”, ý thơ sẽ lăn về phía lí trí tỉnh táo. Bằng sự khéo léo tài tình của Xuân Quỳnh trong cách sử dụng ngôn ngữ, ta thấy những vần thơ dường như diễn tả rất chính xác nỗi choáng váng của cô gái khi vừa chạm vào cái vùng chói sáng của trái tim con người – tình yêu. Hai câu thơ không chỉ nói về tình yêu mà ta có cảm giác những câu chữ cũng đang rung động theo trái tím thiếu nữ, nó giống như cái lắc đầu đầy yêu thương và bối rối của một cô gái đáng yêu. Nỗi thổn thức ấy tiếp tục lăn mình cùng sóng nước, vươn dài theo thời gian, mênh mang cùng những câu thơ của Xuân Quỳnh:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Tình yêu von gắn liền với nỗi nhớ. Đến đây mỗi câu thơ dường như đểu chan chứa một nỗi nhớ – nỗi nhớ da diết, khắc khoải. Đoạn thơ có hai cặp hình ảnh so sánh song song, khá đắc địa: sóng vỗ bờ cả ngày lần đêm, em nhớ anh ” cả trong mơ còn thức”. Hai cặp hình ảnh song hành, cộng hưởng nhằm diễn tả tình yêu sâu sắc hơn. “Cả trong mơ còn thức” – câu thơ là một phát hiện đầy tinh tế về quy luật của tình yêu: sinh hoạt thường ngày của con người còn có giới hạn bởi thức và ngủ nhưng tình yêu phá vỡ mọi giới hạn, thông trị cả tiềm thức, giấc mơ, thao thức đến khôn cùng. Chỉ có những trái tim yêu hết mình mới thống trị cả thời gian, cả ý thức lẫn tiềm thức như vậy. Tình yêu quả là một sự “bất thường” giữa đời thường. Xuân Quỳnh đã thực sự thông suốt mọi ngỏ ngách của tình yêu vì bà chính là một con người có trái tim yêu không bao giờ mệt mỏi, luôn khát yêu, khát sống bằng cả trái tim. Tình yêu có mặt trong thơ, lên ngôi và tỏa sáng trong phần lớn các tác phẩm của bà. Ta đã bắt gặp không ít những tình yêu vượt qua mọi giới hạn của không gian, của thời gian để hướng tới cái vĩnh cửu trong thơ Xuân Quỳnh:

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió

Nếu phải cách xa anh

Em chi còn bão tố

(Thuyền và biển)

Thời gian chật chội bởi giới hạn, suy tư lại mở ra không gian:

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương

Hai chữ xuôi, ngược thấp thỏm một linh cảm lo âu trước cuộc đòi bất trắc. Vì thế câu thơ “Hướng về anh- một phương” nôm na mà chắc nịch như một sự khẳng định tuyệt vời cho một tình yêu mãnh liệt. Người ta thường nói ngược vẽ phương bắc và xuôi về phương Nam nhưng có lẽ trong tình yêu luôn có những thứ trái ngang, những điều đi ngược lại cái bình thường nhưng suy cho cùng, điều quan trọng nhất của tinh yêu phải chăng chính là sự nhung nhớ, sự gặp gỡ của những trái tim yêu? Và đối với người con gái đang yêu, trái tim họ luôn chỉ hướng về một phương “anh” duy nhất. Những suy tư lấy hình ảnh “sóng” làm trung tâm là sự kết hợp tuyệt vời giữa cảm xúc vàlí trí, tạo cảm giác vừa bổi hồi vừa lắng sâu.

Cao trào của bài thơ dồn thành khát vọng trào dâng trong ba khổ thơ cuối – khát vọng tìm đến tựa từ một niềm tin:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Cái hay của lỗi diễn đạt của Xuân Quỳnh không chỉ ở chỗ mượn quy luật của sóng biển, mây trời để nói về quy luật của tình yêu. Độ sâu của nó bắt nguồn từ nhận thức rất đời thường : cuộc sống là dài, là rộng, là muôn vời cách trở, cuộc sống tràn đầy những điều bất ngờ vì thế mà cũng đầy bất trắc. Lời thơ như nỗi lo đau đáu luôn âm thầm giày vò, như những đợt sóng ngầm trong trái tím khát yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Song dù thế nào đi chăng nữa, tình yêu vẫn sẽ vượt qua mọi trở ngại để vươn tới đích như những con sóng “Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở “.Với niềm tin ấy, khát vọng cúa Xuân Quỳnh vừa mạnh mẻ vừa ấm áp:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Mong ước hóa thân vào sóng thật lớn lao. Khát vọng được “tan ra” để bất tử cùng tình yêu (“ngàn năm còn vỗ”) thật cháy bỏng. Tứ tha có sự phát triển giống như sự nhận thức và lí giải về sự tồn tại mãnh liệt của tình yêu. Có lẽ chưa bao giờ ta thấy trên thi đàn Việt Nam có một nữ thi sĩ bộc lộ tình yêu một cách mãnh liệt mà cũng thật dung dị đến vậy.

Lưu Khánh Thơ nhận xét về thơ Xuân Quỳnh như sau: “Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ chỉ đơn thuần là tình yêu, nó còn tượng trưng cho cái đẹp, cái tôl, cái cao quý của con người, tượng trưng cho niềm khát khao được hoàn thiện mình”. Với sự hóa thân vào sóng, Xuân Quỳnh đã truyền sức sống dào dạt vào tác phẩm như sự khao khát tình yêu luôn cháy bỏng trong trái tim nữ sĩ, làm cho những Sóng hay Thuyền và biển sống mãi với thời gian nhu truyền thuyết về tình yêu mãi mãi làm say đắm bao trái tim người đọc.

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 6

Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

“Dữ dội và dịu êm

ồn ào và lặng lẽ

...

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

“Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/.../ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy...vẫn...” “Dẫu ...vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Suy nghĩ về hình tượng sóng và khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 7

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng – một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng “Sóng” được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy… đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.

Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội – dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu” để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng “ngày xưa” và sóng “ngày sau” vẫn thế giống như “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”.

Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: “Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức”. Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất “sóng” và “em”.

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu… thì… cùng với những đối lập (xuôi – ngược, bắc – nam) để khẳng định: “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến Iihừng thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

…Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Mở bài và kết bài về hình tượng sóng, khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 1

Mở bài:

Bài thơ Sóng thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng "sóng” mà còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của nhà thơ nữ. Đây chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt Nam, trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng , một cách cảm nhận riêng về sóng - biển trong tình yêu.

Kết bài:

Tóm lại, “Sóng” là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. “Sóng” là hình ảnh trung tâm thể hiện cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu thương của người phụ nữ.

Mở bài và kết bài về hình tượng sóng, khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng - Mẫu 2

Mở bài:

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, mỗi tác giả khác nhau lại có những cách thức, cách thể hiện riêng, làm phong phú hơn nữa đề tài này. Xuân Quỳnh cũng đóng góp vào thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm về đề tài tình yêu, nhưng nổi bật hơn cả là “Sóng”. Với hai hình tượng sóng đôi, sóng và em đan kết, hòa quyện với nhau đã nói lên tâm hồn, cảm xúc đa dạng của người phụ nữ khi yêu và những khát khao hết sức nhân văn, cao cả.

Kết bài:

Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vướng đọng đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng "sóng” mà còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của nhà thơ nữ. Đây chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt Nam, trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng , một cách cảm nhận riêng về sóng - biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất vĩnh hằng mãi mãi.

Đánh giá

0

0 đánh giá