Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 5 bài văn mẫu Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích hay nhất, giúp các em học sinh làm tập làm văn hay hơn.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích
Đề bài: Kể tên 1 – 2 truyện cổ mà em đã đọc hoặc đã nghe. Nêu những chi tiết em thích.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 1
Một truyện cổ mà em biết là "Cô Bé Lọ Lem". Em thích truyện này vì nó kể về một cô gái tốt bụng và kiên nhẫn, có tấm lòng lương thiện. Dù vất vả và bị ngược đãi, Lọ Lem luôn giữ lòng mình trong sạch và hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một phép màu xảy ra. Em cảm thấy rất động lòng khi cô được giúp đỡ bởi những sinh vật nhỏ và cuối cùng gặp được hoàng tử trong đêm vũ hội và được nhận ra vẻ đẹp nội tâm của mình.
Một truyện cổ khác mà em thích là "Chú Chó Nhỏ Hachiko". Đây là một câu chuyện có thật về tình yêu và lòng trung thành của một chú chó đối với chủ nhân của mình. Hachiko luôn đợi chờ chủ nhân của mình trở về từ công việc mỗi ngày, ngay cả khi chủ nhân đã qua đời. Em rất cảm động với lòng trung thành và tình yêu vô điều kiện mà Hachiko dành cho người bạn thân thiết của mình.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 2
Truyện cổ mà em đã đọc và đã nghe là: Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Chú lính chì dũng cảm.
Những chi tiết mà em thích trong các câu truyện cổ đó là: Trong truyện Cô bé bán diêm, mỗi lần quẹt lên một que diêm cháy, cô lại đều nhìn thấy những ước mơ đẹp, hình ảnh đẹp hiện ra; truyện Nàng tiên cá có chi tiết tiên cá đổi mạng sống của mình thành bọt biển để hoàng tử được hạnh phúc; truyện Chú lính chì dũng cảm có chi tiết dù chú lính đồ chơi gãy một chân nhưng vẫn vượt qua gian khó, trở về nhà với cuộc sống hạnh phúc.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 3
Những ngôi sao xa xôi là câu chuyện kể về ba cô gái: Thao, Phương Định và Nho trong cùng tổ trinh sát mặt đường. Công việc của họ là ngồi chờ trên cao điểm. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Công việc thật chẳng đơn giản chút nào. Rất gian khổ và gần kề ngay cái chết.
Họ chạy trên cao điểm cả ban ngày ngay bên cạnh những quả bom đang nằm chờ nổ. Nhưng họ anh dũng và vui vẻ. Họ đã quá quen với những vết thương, với đất bốc khói, không khí bàng hoàng và tiếng máy bay đang gầm lên ầm ĩ. Thần kinh lúc nào cũng căng lên như chão, tim đập nhanh, chân chạy mà biết chắc rằng xung quanh bom sắp nổ. Nhưng rồi khi xong việc, nhìn đoạn đường, họ thấy vui, thở phào nhẹ nhõm và sà ngay về cái căn hầm mát lạnh của mình. Đánh một hơi nước mát cho thật đã, xong thì tất cả nằm dài trên nền đất ẩm nghe ca nhạc hay có thể nghĩ lung tung.
Hôm ấy vào buổi trưa, không gian im ắng lạ. Phương Định ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Cô mê hát, có khi bịa ra cả những lời hát ngớ ngẩn lung tung. Định người Hà Nội và là một cô gái khá với hai bím tóc dày, mềm, cái cổ cao và đôi mắt đẹp. Nhiều anh lái xe quý mến thường gửi thư tán tỉnh cô.
Đang mơ màng suy nghĩ, Định bỗng giật mình. Có tiếng giục của Nho và chị Thao. Họ đã nhận ra tiếng máy bay trinh sát. Cả tổ đã rất quen với việc: cái sự im lặng là sự bất thường. Tiếng máy bay trinh sát và tiếng phản lực gầm gào theo sau.
- Sắp đấy! - Nho quay lưng lại, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao vẫn thong thả nhai mấy chiếc bánh quy. Chị bình tĩnh đến phát bực nhưng lại hay sợ máu. Chị hay diêm dúa nhưng trong công việc, chị cương quyết và táo bạo vô cùng.
Chị Thao cầm cái thước trên tay Định, rồi nói: “Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ”, rồi kéo tay Nho, vác xẻng lên vai đi ra cửa.
Định ở nhà trực điện thoại. Lòng cô nóng như lửa đốt. Xung quanh chỉ thấy khói bom mù mịt và tiếng cao xạ nã nhau chan chát. Địch tấn công dữ quá nhưng cũng may các anh cao xạ, thông tin và công binh đã kịp chi viện cho ba cô gái.
Nửa tiếng sau, chị Thao về, bình thản mệt lả và cáu kỉnh. Đại đội trưởng đã có được thông tin. Anh tế nhị cảm ơn ba cô gái.
Nho cũng về, bình thản và ướt sũng. Cô vừa tắm ở dưới suối lên, đẹp và mát mẻ như một que kem trắng. Cả tổ nghĩ ngợi một lúc rồi tối lại ra đường luôn. Họ đi phá bom trong cái không khí vắng lặng đến kinh người. Ba cô gái thao tác rất nhanh và thành thục. Hai mươi phút sau, một hồi còi, rồi hồi còi thứ hai nổi lên. Những tiếng bom nổ vang trời xé toang không gian yên lặng. Mùi thuốc bom buồn nôn, đất đá rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây.
Thao và Định đã định ra về. Nhưng bất chợt họ phát hiện ra Nho đã bị thương. Hầm của Nho bị sập khi cả hai quả bom của chị cùng phát nổ.
Định và Thao đưa Nho về. Vết thương không sâu lắm nhưng bom nổ gần nên Nho bị choáng. Họ tự lo chăm sóc cho cô gái vì không muốn làm phiền đơn vị. Lát sau, Nho đã thiếp đi.
Hai cô gái ngồi yên lặng nhìn nhau. Họ đang nuốt những giọt nước mắt vào trong vì lúc này phải giữ sao cho cứng cỏi. Chị Thao hát, những giai điệu sai và lạc nhịp. Nhưng cần phải hát. Hát để quên đi và để vững tin hơn.
Có một đám mây, một đám nữa rồi thêm đám nữa kéo đến cửa hang. Bầu trời đen đi và cơn dông ào đến đột ngột như một biến đổi bất thường trong trái tim con người vậy. Ở rừng mùa này hay thế. Trời mưa. Nhưng là mưa đá. Định nhận ra và thích thú cầm một viên đá nhỏ thả vào lòng bàn tay của Nho, vui thích và cuống cuồng.
Mưa tạnh rất nhanh. Định bỗng thẫn thờ và nuối tiếc. Nhưng cô không tiếc những viên đá nhỏ. Cô đang nhớ về mẹ, về những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, nhớ bà bán kem, nhớ con đường nhựa… Cơn mưa đã vô tình đã xoáy mạnh vào những kỷ niệm trong tâm hồn của cô gái xa quê.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 4
Ở trước nhà em có trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rỗi, em thường ngồi đếm các đốt của cây tre. Có lần em hỏi ông: “Ông ơi, có cây tre nào có một tấm đốt không ạ?”. Nghe vậy ông bật cười: “Muốn có cây tre trăm đốt thì phải có thần chú cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được câu thần chú. Vậy là ông bảo em ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu khó làm lụng. Anh làm đầy tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu khó làm lụng cho nhà lão mà không lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm lụng mà không lấy dù chỉ một đồng điền công.
Tuy nhiên, khi đến lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô cho tên phú hộ trong làng. Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai hì hục thi tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi. Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình thì nhận ra là mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập” khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.
Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 5
Một câu chuyện cổ tích nước ngoài mà em rất yêu thích chính là truyện Non-bu và Heng-bu.
Truyện kể về hai anh em ruột nhưng lại có tính cách trái ngược nhau. Người anh lười biếng lại tham lam, còn người em thì tốt bụng, chăm chỉ. Một ngày nọ, Heng-bu gặp một chú chim nhạn nhỏ bé bị gãy chân, rơi xuống trước thềm nhà. Thấy thương con vật tội nghiệp, Heng-bu đưa chú vào nhà và chăm sóc chu đáo đến khi chú khỏi bệnh mới thả đi. Mùa xuân năm sau, chim nhạn trở về mang theo cho Heng-bu một hạt bầu thần kì. Những quả bầu mọc ra từ cây này cho anh nhiều vàng bạc châu báu. Từ đó vợ chồng anh sống cuộc sống giàu có. Người anh biết tin, vội đến hỏi thăm câu chuyện. Nghe xong, hắn liền tìm một chú chim nhạn rồi bẻ chân của nó. Xong xuôi hắn giả vờ chăm sóc chú chim tội nghiệp và đòi nó phải báo ơn. Lần này, chim nhạn cũng mang cho Non-bu một hạt bầu. Nhưng nhưng trái bầu khi bổ ra chỉ đem đến cướp bóc, tai họa cho hắn mà thôi. Kết cục, hắn mất đi tất cả, trở thành một kẻ ăn mày.
Câu chuyện với cách kể rất thú vị và các chi tiết thần kì đã thu hút em ngay từ lần đọc đầu tiên. Bài học mà câu chuyện muốn gửi gắm cũng thật sâu sắc và ý nghĩa vô cùng.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 6
Trong thế giới các vị Thần, tôi chỉ là một tên khổng lồ tầm thường. Tôi to xác lắm: thân hình cao lớn vô cùng, chân dài không sao tả xiết. Tôi ăn khoẻ, bước đi băng băng, mỗi bước đi của tôi dài bằng từ núi này qua núi nọ, từ vùng này đến vùng kia...
Thủa ấy, cách đây hàng vạn hàng vạn năm, trời đất chỉ là một cõi mù mịt, tối tăm, hỗn độn. Chưa có loài người và muôn vật. Bỗng một hôm, tôi cảm thấy xúc động lạ. Tôi bèn vươn vai đứng dậy, lấy đầu và đôi vai đội trời lên và đỡ lấy. Nặng ghê gớm. Tôi lấy hai tay đào đất, khuân đá đắp thành một cây cột vừa to vừa cao để chống trời. Tôi hì hục đào và đắp, cây cột cao dần cao dần đẩy vòm trời lên tận mây xanh. Trước mặt tôi là một thế giới kì diệu hiện ra. Đất bằng như cái mâm vuông bao la. Trời tròn như cái bát úp mông mênh. Chỗ trời đất tiếp giáp nhau ấy là chân trời. Trời đất mới phân đôi từ đấy.
Chờ cho đến lúc trời đã cao và khô cứng, lấy hết sức bình sinh của một chàng khổng lồ, tôi bèn phá tan cái cột ấy đi. Tôi ném tứ tung khắp mặt đất bao nhiêu là đất đá, bao nhiêu là tảng cột, khúc cột. Vì thế mặt đất ngày nay không còn bằng phẳng nữa. Đất đá tồi ném ra thành gò, đồi, thành những dãy núi trập trùng. Chỗ tôi đào sâu lấy đất đắp cột chống trời nay thành mênh mông biển cả.
Cột chống trời xa xưa chẳng còn nữa. Nếu ai không tin thì hãy đến tỉnh Hải Dương, miền Đông Bắc Đại Việt xem núi Thạch Môn. Núi ấy gọi là núi Kinh Thiên Trụ, tức cột chống trời, dấu tích tôi để lại đấy.
Tôi rất tự hào về việc làm của mình. Nhưng Thần Gió đã mỉm cười nói với tôi: “Chiến công của anh tầm thường. Anh chỉ được xếp vào hàng thứ bảy trong các vị thần mà thôi! Tôi nhẩm theo câu hát của Thần Gió:
“Ông Đếm Cát - Ông Tát Bể - Ông Kể Sao –
Ông Đào Sông - Ông Trồng Cây - Ông Xây Rú
- Ông Trụ Trời...”.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 7
Cuối tuần vừa rồi, em cùng bạn đến thư viện để đọc truyện. Ở đó, em đã đọc được nhiều câu chuyện hay và ý nghĩa. Nhưng câu chuyện làm em ấn tượng nhất chính là truyền thuyết Thánh Gióng.
Câu chuyện kể về Thánh Gióng - một anh hùng có cuộc đời chứa nhiều điều kì bí, huyền ảo. Theo truyện, Thánh Gióng sinh sống ở đời Hùng Vương thứ sáu. Gióng được mẹ sinh ra sau khi mang thai mười hai tháng. Bởi bà đã ướm thử bàn chân của mình lên một vết chân rất to. Khi sinh ra, Gióng có ngoại hình rất khôi ngô nên bố mẹ cậu mừng lắm. Thế nhưng lạ thay, mãi đến khi cậu lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chưa biết đi, cứ đặt đâu là cậu nằm im ở đấy.
Cùng lúc đó, giặc Ân ở phía Bắc lại đem quân xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh như nước lũ khiến cho nhà vua vô cùng lo lắng. vì vậy, vua sai sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi ngang qua nhà Gióng, thì Gióng tự nhiên cất tiếng bảo mẹ mời sứ giả vào nhà. Trước sự ngỡ ngàng của sứ giả và mẹ, Gióng bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sau đó, nhà vua đã truyền thợ làm gấp những vật này. Từ lúc gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Cả làng xóm đã cùng bố mẹ Gióng góp gạo nuôi lớn cậu, vì ai cũng mong cậu nhanh lớn để đánh giặc cứu nước.
Ngay khi tình hình đất nước rơi vào lâm nguy vì giặc Ân đã đến chân núi Trâu thì những vật Gióng yêu cầu cũng được làm xong và đưa đến chỗ cậu. Thánh Gióng đứng dậy vươn vai phút chốc biến thành một tráng sĩ. Cậu mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm gậy sắt đánh đuổi quân thù. Khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy. Trên đường, khi roi sắt bị gãy thì gióng đã nhổ những cụm tre ngà để đánh giặc. Cậu đánh đuổi mãi đến khi đất nước sạch bóng quân giặc thì mới ngừng lại. Khi đến chân núi Sóc, Thánh Gióng để lại áo giáp trên đỉnh núi rồi cưỡi ngựa bay về trời.
Khi em cất truyện vào giá sách, lòng cứ tần ngần. Thấy vậy, cô thủ thư đã cùng em trò chuyện về Thánh Gióng. Cô bảo, câu chuyện này đã thể hiện những suy nghĩ và ước mơ của nhân dân ta từ những ngày xa xưa về hình ảnh người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, cô còn giới thiệu với em về những tương truyền thú vị phía sau truyền thuyết này. Rằng đến nay ở làng Phù Đổng, vẫn còn đến thờ Thánh Gióng. Rằng những bụi tre ngà do bị ngựa của Gióng phun lửa vào mới có màu vàng óng. Rằng vết chân ngựa sắt ngày xưa đã tạo nên nhiều ao, hồ. Sau hôm đó, em có thêm sở thích mới là tìm hiểu những truyền thuyết về lịch sử hào hùng của dân tộc.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 8
Những câu chuyện cổ tích với các chi tiết thần kì, huyền ảo luôn có sức hấp dẫn khó mà từ chối đối với em. Trong các câu chuyện đã đọc, Cây tre trăm đốt là câu chuyện mà em ấn tượng nhiều nhất.
Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhanh nhẹn lại cần cù, chịu khó. Biết anh không có người thân, tên địa chủ đã gọi anh đến và hứa hẹn sẽ gả con gái cho anh ta. Và điều kiện, là anh Khoai phải làm việc cho nhà ông ta ba năm không lấy tiền công. Anh Khoai đồng ý, và từ hôm đó, anh làm việc quần quật sớm hôm, không quản nắng mưa. Nhờ vậy, của cải nhà phú ông ngày càng đầy lên. Thế nhưng, khi ngày hẹn đến, phú ông lại đưa ra thêm một yêu cầu, đó là sính lễ. Ông đòi anh Khoai đem đến cây tre trăm đốt, thì mới gả con gái cho. Anh nông dân ngây thơ, nghe thấy vậy liền vác rìu lên rừng tìm tre. Còn phú ông, thì chờ anh vừa rời đi, liền lập tức tổ chức đám cưới cho con gái và một cậu ấm nhà phú ông làng bên.
Anh Khoai đi mãi qua nhiều ngọn đồi, nhiều khu rừng mà mãi vẫn không tìm được cây tre dài đủ trăm đốt. Khi anh đang bế tắc, đau khổ, thì ông Bụt đã hiện ra. Ông bảo anh đi chặt về một trăm đốt tre rời. Rồi dạy anh câu thần chú “khắc nhập, khắc nhập” để nối chúng lại thành cây tre dài trăm đốt. Ông còn dạy anh câu thần chú “khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tách ra, bó gọn lại cho dễ mang về nhà. Nhờ có ông Bụt, anh Khoai có được sính lễ mà phú ông yêu cầu. Anh hăm hở trở về nhà với niềm vui sướng vô cùng. Ngờ đâu, khi anh về đến nơi, đám cưới đang được tổ chức linh đình, mà chú rể không phải anh. Anh Khoai tức giận lắm, liền đọc thần chú, nối liền tên phú ông gian manh vào một trăm đốt tre, khiến ông ta vừa xấu hổ lại đau đớn vô cùng. Tên phú hộ kia cũng muốn chạy lại cứu giúp, thì bị anh Khoai đọc thần chú cho dính liền vào với cây tre luôn. Cuối cùng, anh yêu cầu tên phú ông phải thực hiện lời hứa, thì anh mới thả họ ra. Quá đau đớn, tên phú ông đành phải đồng ý. Thế là, đám cưới của anh Khoai và con gái phú ông được tổ chức linh đình trong sự chúc phúc của bà con.
Trong câu chuyện Cây tre trăm đốt, anh Khoai đã sử dụng phép thuật để trừng phạt trực tiếp những kẻ xấu xa. Chi tiết đó khiến người đọc vô cùng hả dạ. Đó cũng là bài học cho những kẻ có ý định lừa dối, lợi dụng kẻ khác thì phải dừng lại ngay, nếu không sẽ phải nhận hậu quả nặng nề. Bài học ấy đã được tác giả dân gian gửi gắm khéo léo trong câu chuyện trên.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 9
Cây tre trăm đốt là một câu chuyện cổ tích rất hay và được nhiều người yêu thích. Trong đó có em.
Hồi còn nhỏ, em thường được bà nội kể nhiều truyện dân gian. "Cây tre trăm đốt" là một trong những truyện mà em rất thích. Vì hồi đó còn quá bé nên em xin kể lại như sau: Ngày xưa, ở một làng nọ có một anh trai cày mô côi cha mẹ từ bé. Anh được một lão nhà phú hộ thuê. Vốn hiền lành, chất phác nên lão bảo gì anh làm nấy. Một hôm, lão gọi anh đến dỗ ngon, dỗ ngọt: "Con ở nhà ta đã lâu, lại thấy con ngoan ngoãn, hiền lành nên ta định gả con gái cho con. Với điều kiện trong ba năm, con phải làm ăn đến nơi đến chốn". Thấy lão nói thế, anh mừng lắm, cứ tưởng thật nên anh càng làm việc hăng say hơn.
Nhờ ba năm làm việc cực nhọc của anh, giờ đây lão đã tậu thêm được ruộng vườn, nhà cửa và nhiều thóc lúa. Trong ba năm đó, lão đã ngầm hứa gả con một lão buôn giàu có. Gần đến ngày lão nói với anh là gả con gái cho anh, lão bảo anh vào rừng tìm một cây tre trăm đốt làm của hồi môn. Anh liền vào rừng tìm cây tre trăm đốt. ở nhà, lão phú hộ nghĩ thầm: "Làm gì có tre trăm đốt mà tìm thể nào nó cũng bị rắn cắn, hổ vồ". Trong rừng anh đang cố gắng tìm được thứ lão phú hộ cần, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có năm mươi đốt. Anh tìm đến hai ngày sau vẫn không thấy cây tre trăm đốt. Buồn quá, anh ngồi xuống cạnh một cái cây mà khóc. Thấy thế, Bụt hiện lên hỏi: "Tại sao con khóc". Anh trai cày kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Bụt, Bụt bảo: "Chuyện đó khó gì, con hãy tìm cho ta một tram đốt tre và hô "khắc nhập, khắc nhập" thì các đốt tre sẽ liền lại thành một cây, còn hô "khắc xuất, khắc xuất" thì cây lại rời ra". Anh định cảm ơn thì Bụt đã biến mất. Anh tìm đủ một trăm đốt tre rồi bó lại mang về. Đến nơi, anh thấy tiệc tùng linh đình trong nhà phú hộ. Anh tức lắm nhưng vẫn hô: Khắc nhập, khắc nhập, cây nhập liền lại vươn thẳng lên trời. Mọi người ngạc nhiên chạy ra xem. Lão phú hộ chen trong đám người bước ra với vẻ mặt ngạc nhiên. Anh liền đọc: "Khắc nhập, khắc nhập" thế là lão phú hộ dính chặt vào cây. Lão phú hộ van xin anh. Mãi sau anh mới khoan thai đọc: "Khắc xuất, khắc xuất" thế là lão phú hộ rời ra khỏi cây tre và phải gả con gái cho anh. Hai vợ chồng anh trai cày sống với nhau vui vẻ.
Kể tên 1 – 2 truyện cổ đã đọc và nêu những chi tiết em thích - Mẫu 10
Truyện cổ tích Tấm Cám là một câu chuyện có từ rất lâu, và đã đồng hành với biết bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính là cô Tấm dịu dàng, nết na. Cô Tấm mồ côi mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể cô sống một mình với bà dì ghẻ và người con riêng của bà là Cám. Biết bao đau khổ của đời Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.
Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị dì ghẻ bắt làm việc quần quật suốt ngày, lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, dì ta lấy chiếc yếm đào mới để tổ chức cho Tấm và Cám thi mò cua bắt ốc. Dĩ nhiên với tính chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về nhà trước. Chờ Tấm lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con cá bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở, thì ông Bụt hiện lên và dặn dò cô mang cá bống về nuôi.
Tấm nuôi cá trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho cá ăn, và hát bài hát riêng của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ dì ghẻ độc ác đã rình mò và nghĩ ra kế xấu. Mụ ta lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà bắt chước Tấm gọi cá bống lên và ăn thịt. Ăn xong, mụ chôn xương cá ở góc bếp. Chờ đến lúc Tấm về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn cục máu đỏ tươi mà thôi. Buồn bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy nắm thóc cho gà ăn, để nó bới đất tìm xương cá bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn chiếc bình, đặt ở chân giường.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy hội. Tấm cũng hớn hở theo. Cô xin dì ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, bà ta bắt cô phải nhặt hết một đống đầy hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội. Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến giúp Tấm. Nhờ vậy, cô nhanh chóng hoàn thành xong công việc dì ghẻ giao. Nhưng bây giờ, cô lấy gì mặc để đi hội, khi cô chỉ toàn những bộ trang phục cũ rích? Thấy cô băn khoăn, ông Bụt bảo cô lấy những chiếc bình ở chân giường lên. Chao ôi, bên trong là bộ váy và đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.
Có váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, cô đánh rơi một bên giày xuống nước. Người đến hội đông quá, cô không sao xuống tìm giày được. Đúng lúc đó, voi của vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu đi. Vua cho lính xuống mò lên, ngắm đôi giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao cô gái đến thử vận may, nhưng chẳng ai vừa cả. Đến lượt Tấm, cô vừa đi thử là vừa ngay như in. Thế là Tấm trở thành hoàng hậu.
Tuy trở thành vợ vua, nhưng cô Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày nào. Năm đó, đến giỗ cha, cô xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, cô tự tay mình chuẩn bị một mâm cũng tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ dì ghẻ nhờ Tấm trèo lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc cô ở trên cau thì chặt gốc, khiến cô ngã xuống ao rồi qua đời.
Nhờ phép lạ, Tấm không chết mà hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý vàng anh lắm, đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám - kẻ mặc áo của Tấm vào cung để thay chị hầu vua ghen tức vô cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ đống lông chim ấy, mọc lên một cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. Ở dưới bóng mát của cây, vua cảm thấy rất thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi. Ghen tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi. Nhưng mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo cà kẽo kẹt những tiếng chửi mắng đáng sợ khiến cô ta khiếp vía. Nên cô ta cho người đốt khung cửi thành tro, rồi đem ra đổ ở ngã tư thật xa cung vua.
Cám cứ tưởng thế là xong nên hả hê lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây thị to lớn, rồi cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. Có bà bán nước ở gốc cây thấy vậy đã xin cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, và hứa là không ăn quả. Thế là quả thị rớt vào bị của bà. Từ hôm đó, chờ bà cụ đi vắng, cô Tấm từ trong quả thị bước ra, giúp bà việc nhà, cơm nước. Bà cụ thấy lạ, nên rình xem và phát hiện ra cô. Bà đã ôm chầm lấy Tấm và xin được nhận cô làm con nuôi. Từ đó, hai người trở thành mẹ con của nhau.
Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân ở quán nước của bà cụ. Nhìn những miếng trầu cánh phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn thấy nhau, hai người mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau đó, Tấm theo vua về cung, chung sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.