Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 5 bài văn mẫu Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam hay nhất, giúp các em học sinh làm tập làm văn hay hơn.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam
Đề bài: Chia sẻ với bạn về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục.... truyền thống của Việt Nam mà em ấn tượng.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 1
Trong vô vàn lễ hội, món ăn và trang phục truyền thống của Việt Nam, em đặc biệt ấn tượng với "Áo Dài" - trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Áo dài không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch mà còn thể hiện sự tinh tế, nhã nhặn trong văn hóa Việt.
Áo dài có lịch sử lâu đời, xuất hiện từ thế kỷ 17 và không ngừng được biến tấu, phát triển qua các thời kỳ để phù hợp với vẻ đẹp hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống. Bộ trang phục này gồm một chiếc áo dài ôm sát cơ thể với hai tà áo dài thướt tha, được mặc cùng quần lụa trắng hoặc màu sắc phối hợp.
Điều khiến em cảm thấy thực sự ấn tượng về áo dài không chỉ là vẻ đẹp hình thức mà còn ở giá trị văn hóa, tinh thần mà nó mang lại. Áo dài không chỉ được mặc trong những dịp lễ hội, đám cưới hay tết truyền thống mà còn được chọn làm trang phục cho học sinh, sinh viên và cả những buổi lễ trang trọng. Sự hiện diện của áo dài trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam như một lời nhắc nhở về việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Mỗi lần mặc áo dài, em cảm thấy tự hào và gần gũi với truyền thống dân tộc hơn. Đó không chỉ là một bộ trang phục mà còn là một phần tâm hồn, tinh thần Việt Nam, thể hiện sự kính trọng đối với quá khứ và niềm tự hào dân tộc.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 2
- Em ấn tượng với món phở bò của nước ta.
- Em ấn tượng với nó là bởi đây chính là tinh hoa ẩm thực bao đời nay của nước Việt Nam ta. Với nguyên liệu và cách chế biển phải vô cùng cầu kì, tinh tế cùng hương vị độc đáo, món phở bò đã trở thành một món ăn truyền thống đại diện của đất nước ta.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 3
Để mừng Đảng, mừng xuân và tôn vinh tinh thần thượng võ của nhân dân, huyện Đan Phượng thường tổ chức hội vật vào ngày mùng 4 đến ngày mùng 9 tháng Giêng hàng năm. Trong dịp tết vừa rồi, em đã được tham quan lễ hội cùng với bố mẹ. Hội vật diễn ra trong không khí tưng bừng, náo nhiệt. Trước khi bắt đầu trận đấu, hai đô vật khỏe mạnh, lực lưỡng bước vào sân để cúi chào khán giả. Khi trọng tài thổi còi và phất cờ bắt đầu trận đấu, hai đô vật đôi tay chắc khỏe ra múa khỏi động. Đôi chân không ngừng giậm nhảy để tìm cách tiến lại gần đối thủ. Một hồi, một đô vật đã chiến thắng bằng cách vật đối thủ ngã xuống đất. Khán giả vỗ tay, vẫy cờ và reo hò không ngừng để cổ vũ cho trận đấu, làm cho không khí trở nên tưng bừng hơn. Hình ảnh hai đô vật dũng mãnh, đầy sức mạnh và gương mặt nhễ nhại dưới ánh nắng làm tôi cảm thấy rất thú vị. Cuối cùng, hai đô vật vừa vật xong lau vội mồ hôi trên khuôn mặt và giơ tay chào kết thúc trận đấu. Hội vật thực sự là một nét đẹp văn hóa trong dịp đầu năm của người dân Đan Phượng.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 4
Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội Cá Ông.
Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.
Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:
Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.
Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.
Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 5
Vào những ngày đầu mùa xuân, làng em lại náo nức tổ chức ngày hội xuân với những hoạt động vui chơi hấp dẫn. Trong đó, được nhiều người mong chờ nhất chính là ngày thứ ba của hội xuân: ngày hội đấu vật.
Ngày hội đấu vật chính là ngày mà các đấu sĩ đấu vật tham gia thi đấu, tìm ra người mạnh nhất. Để chuẩn bị cho ngày hội này, các tuyển thủ đã ra sức tập luyện chăm chỉ suốt cả năm. Danh sách và thứ tự thi đấu đã được chọn lựa và sắp xếp một cách công bằng thông qua việc bốc thăm từ cả tháng trước đó. Tuy chỉ là hội thi của làng, nhưng không phải ai muốn thi cũng được đâu nhé. Ban giám khảo sẽ thống nhất những tiêu chí về hình thể, kĩ năng và cả lịch sử thi đấu để chọn những người đủ khả năng vào thi ở ngày hội.
Vào ngày hội, người dân kéo nhau đến xem đông lắm, thậm chí có cả những người xứ khác nữa. Họ tụ tập quanh sân đấu, say mê ngắm nhìn và cổ vũ nhiệt tình. Thậm chí có người sau hôm đó, về nhà bị khàn cả giọng. Trên sân đấu có nền cát, từng cặp đấu sĩ bắt đầu lên sân. Họ để mình trần, đóng khố - trang phục dân dã của người Việt xưa. Sau tiếng trống ra hiệu của trọng tài, họ lao vào nhau, cầm vai, cầm chân, ra sức vật ngã đối phương. Tất cả sức mạnh, kĩ xảo đều được đem ra sử dụng. Chẳng mấy chốc mà ai cũng vã mồ hôi, ánh lên dưới nắng xuân phơi phới. Cuối cùng, sẽ có người thắng kẻ thua, nhưng dù là ai cũng có một nụ cười hạnh phúc trên môi. Bởi họ đến tham gia hội thi là để giao lưu, làm quen với người cùng chí hướng, chứ không phải chỉ vì phần thưởng.
Với em, ngày hội đấu vật là lễ hội mà em yêu thích nhất. Bởi nó đã truyền cho em những nhiệt huyết tươi mới, giúp em có thêm động lực để rèn luyện bản thân.
Chia sẻ về một lễ hội, một món ăn hoặc một trang phục truyền thống của Việt Nam - Mẫu 6
Hôm vừa rồi, bố mẹ em đã cho em đi Lễ hội Đền Hùng. Đây là một lễ hội lớn, để tưởng nhớ các vua Hùng, những người đã có công dựng nước. Hàng năm, hội Đền Hùng được tổ chức long trọng với sự “hành hương trở về cội nguồn dân tộc” của các địa phương trên cả nước về đất Tổ Phú Thọ. Lễ hội được diễn ra tại địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, thu hút rất nhiều người dân trên cả nước về tụ hội.
Lễ hội bắt đầu từ ngày mông 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch. Trước hết đó là phần lễ, với các nghi thức được tổ chức một cách trang trọng như dâng hương, dâng lễ vật từ các địa phương tưởng nhớ 18 vị vua Hùng và công lao của các ngài. Trong lễ hội Đền Hùng đều có tổ chức cuộc thi kiệu của các làng chung quanh. Chính bởi những lễ rước kiệu này mà không khí lễ hội trở nên náo nhiệt và đông vui hơn. Trẻ con thích thú hò hét chạy theo đoàn người ăn mặc đẹp đẽ rước kiệu. Mỗi làng đều cố gắng bỏ công sức và tiền bạc để tạo ra những chiếc kiệu đẹp nhất bởi người dân tin rằng, nếu kiệu của làng nào giành được giải tức là họ đã được các vua Hùng tin tưởng và phù hộ.
Phần hội với rất nhiều trò chơi dân gian đặc trưng như chơi đu, đấu vật, chọi gà,… Được bố mẹ cho đi hội Đền Hùng khiến em rất vui và tự hào về một lễ hội truyền thống của dân tộc.