Sách bài tập Ngữ Văn 10 Bài 9: Hành trang cuộc sống | Kết nối tri thức

1.3 K

Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 9: Hành trang cuộc sống sách Kết nối tri thức hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10. Mời các bạn đón xem:

Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 9: Hành trang cuộc sống

Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt trang 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25

Bài tập 1 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc lại văn bản Về chính chúng ta của Các-lô Rô-ve-li trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 100 - 102) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: “Khi hiểu biết của chúng ta tăng lên, chúng ta đã biết rằng sự tồn tại của chúng ta chỉ là một phần của vũ trụ, và là phần rất nhỏ bé trong đó”. Tìm các bằng chứng mà tác giả đã sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Bạn nhận xét gì về các bằng chứng đó?

Trả lời:

Để chứng minh cho luận điểm này, tác giả đã sử dụng các bằng chứng:

- Bằng chứng 1: Hành tinh của chúng ta không nằm ở trung tâm của vũ trụ.

- Bằng chứng 2: Con người có cùng tổ tiên với mọi sinh thể khác.

Các bằng chứng được sử dụng trong văn bản đều là những tri thức khoa học được thừa nhận một cách rộng rãi. Từ thế kỉ XIV - XV, Cô-péc-ních (Copernicus) đã khẳng định Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Về sau, những quan sát thiên văn học đã khẳng định quan điểm này của Cô-péc-ních. Vào thế kỉ XIX, trên cơ sở quan sát và so sánh các loài sinh vật khắp thế giới, Đác-uyn (Darwin) đã chứng minh con người có cùng tổ tiên với mọi sinh thể khác. Dù tư duy khoa học của nhân loại không ngừng vận động và những tri thức này có thể bị hoài nghị, song nói chung đó đều là những tri thức khách quan, giàu sức thuyết phục.

Câu 2 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Vì sao tác giả cho rằng tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới?

Trả lời:

Nhận định này nhằm nhấn mạnh tính chủ động, sáng tạo của con người trong mối quan hệ với thế giới. Con người quan sát thế giới không thụ động, mà qua ý chí, ý thức cá nhân của mình, trong sự quan sát đó có hàm chứa sự phán đoán, đánh giá, phân tích về những gì anh ta quan sát được; đồng thời mỗi hành động, quyết định của anh ta trong thế giới góp phần kiến tạo nên chính thực tại mà anh ta đang sống.

Câu 3 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Chỉ ra cách lập luận mà tác giả đã sử dụng để bảo vệ cho luận điểm: “Thông tin mà một hệ vật lí này có về hệ vật lí khác không có gì thuộc về ý thức chủ quan hết: nó chỉ là mối liên quan mà vật lí định ra giữa trạng thái của vật này với trạng thái của vật khác” Theo bạn, cách lập luận đó có thuyết phục không? Vì sao?

Trả lời:

Trong đoạn trích, tác giả đã đưa ra các bằng chứng như: “một giọt mưa chứa thông tin về sự hiện diện của một đám mây”, “một tia sáng chứa thông tin về màu sắc của chất đã gửi nó đến mắt ta”, “một cái đồng hồ có thông tin về thời gian trong ngày”, “gió mang thông tin về một trận bão đang ập đến”,... Đây là những sự thật khách quan, đáng tin cậy, có thể kiểm chứng, vì thế cách lập luận rất có sức thuyết phục.

Câu 4 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: “Tại đấy, bên bờ của những gì chúng ta đã biết, tiếp giáp với đại dương mênh mông những gì chưa biết, rực sáng lên vầng hào quang của sự huyền bí và vẻ đẹp của thế giới. Thật là quyến rũ đến mê hồn”. Xác định biện pháp tu từ trong đoạn trích và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó.

Trả lời:

Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ, trong đó những điều mà con người chưa biết được ngầm so sánh với “đại dương mênh mông” hàm nghĩa những điều mà chúng ta đã biết thì rất ít ỏi, trong khi những điều mà chúng ta còn chưa biết về thế giới thì vô cùng tận. Vẻ đẹp và sự huyền bí của thế giới được ngầm so sánh với “vầng hào quang” rực sáng, nhằm nhấn mạnh sự rực rỡ, tuyệt diệu của thế giới. Biện pháp ẩn dụ một mặt giúp diễn đạt một cách tinh tế, chính xác tư tưởng của tác giả về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, về khả năng nhận thức thực tại của con người, mặt khác khiến cho lời văn trở nên bay bổng, uyển chuyển, giàu sức gợi, tác động mạnh tới tưởng tượng và cảm xúc của người đọc.

Bài tập 2 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc lại hai bản dịch bài thơ Con đường không chọn trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 104 - 105) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Hình ảnh trung tâm của bài thơ là gì? Nó đã được nhân vật trữ tình nói đến như thế nào?

Trả lời:

Hình ảnh trung tâm của bài thơ, như nhan đề cho biết, là “con đường không chọn”. Hình ảnh này được nhân vật trữ tình nhắc đến nhiều lần trong bài thơ (trước khi ám ảnh độc giả, nó đã làm “tôi” luôn bận lòng):

- Lần thứ nhất, được nhắc trong sự phân vân khi con đường đang đi trong rừng bỗng mở trước mặt hai lối rẽ.

- Lần thứ hai, được nhắc trong sự hứa hẹn với chính bản thân rằng một ngày nào đó mình sẽ bước chân trên con đường này.

- Lần thứ ba, được nhắc trong dự cảm rằng lời tự hứa sẽ khó thực hiện.

- Lần thứ tư, được nhắc trong sự hồi nhớ về quyết định ban đầu - cái quyết định đã làm nên số phận của một con người.

Dĩ nhiên, trong bài thơ, hình ảnh “con đường đã chọn” cũng xuất hiện song song với hình ảnh “con đường không chọn” nhưng chính hình ảnh con đường không chọn mới để lại những mối ưu tư không dứt cho nhân vật trữ tình. Từ hình ảnh này, bài thơ gợi lên một vấn đề mang tính phổ quát: cuộc đời mỗi người luôn phụ thuộc vào những lựa chọn, nhưng cách lựa chọn, những điều chi phối sự lựa chọn luôn là một câu đố, một bí mật.

Câu 2 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Vì sao nhân vật trữ tình (“tôi” - kẻ lữ hành) lại phân vân trước hai lối rẽ của con đường trong rừng thu?

Trả lời:

Theo những dữ kiện trong bài, sở dĩ nhân vật trữ tình (“tôi”- kẻ lữ hành) mãi phân vân trước hai lối rẽ của con đường trong rừng thu là vì:

- Hai lối rẽ quá giống nhau: đều có “vệt mòn” dẫn tới đâu không rõ, đều ngập lá vàng trong “sáng ấy” và trên các “thảm lá” mà “chưa chân ai hằn dấu thẫm”

- Nhân vật trữ tình chưa có một định hướng rõ rệt, để khi đưa ra quyết định sau cùng, anh chỉ biết dựa vào một “thôi thúc” mơ hồ, cảm tính. Ở phần cuối bài thơ, nhân vật trữ tình tuy có lưu ý rằng con đường đã chọn là con đường “ít dấu chân người” nhưng không thể nói dấu hiệu này đã gây sự chú ý đặc biệt, chẳng qua, nó được nêu lên chỉ để phân biệt một cách tương đối hai lối rẽ với nhau mà thôi.

Câu 3 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phải chăng sau nhiều lưỡng lự, suy tính, nhân vật trữ tình đã hoàn toàn yên tâm với việc lựa chọn lối rẽ của mình? Những dấu hiệu, chi tiết nào trong bài thơ có thể giúp bạn giải đáp được câu hỏi này?

Trả lời:

Qua hồi lâu lưỡng lự, việc chọn đi theo lối rẽ sau (theo thứ tự trần thuật) không khiến nhân vật trữ tình hoàn toàn yên tâm. Nhiều dấu hiệu, chi tiết trong hai khổ cuối của bài thơ nói lên điều này:

- “Tôi” vẫn muốn một ngày nào đó được đi trên con đường đã không chọn lúc ban đầu.

- “Tôi” sợ không có điều kiện thực hiện cuộc lựa chọn lần hai, một khi lựa chọn ban đầu có thể đẩy đời người vào một thứ mê cung phức tạp, rắc rối.

- “Tôi” không ngăn được tiếng “thở dài? vì bên trong dường như có chút tiếc nuối. Điều đó ngầm cho biết con đường đã chọn không hoàn toàn đưa đến sự thoả mãn (nếu thoả mãn, chắc “tôi” sẽ không nhớ lại sự lựa chọn ban đầu với nhiều ưu tư đến vậy).

- “Tôi” nhắc đến sự “khác biệt” của đời mình không phải với cảm xúc tự hào, hãnh diện. Từ “khác biệt” ở đây chỉ tổng thể những nông nỗi, sự kiện, sự cố đã xảy ra trong đời, cái làm nên số phận không giống ai của “tôi”

Câu 4 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tự hứa hẹn với mình rồi lại thấy sự hứa hẹn đó không lấy gì làm chắc chắn - điều gì đã khiến cho “tôi” rơi vào tình trạng ít tin tưởng ấy? Bạn nhận xét thế nào về đặc điểm con người của “tôi” được bộc lộ qua khổ thơ thứ ba?

Trả lời:

Ở ba dòng sau của khổ thơ thứ ba, ngay khi vừa mới nói lời hẹn ước (cũng là nỗi mong ước), nhân vật trữ tình đã lập tức bộc lộ cảm giác thiếu tin tưởng về “kế hoạch” do chính mình đặt ra. Lí do dẫn tới điều này có thể là:

- Nhân vật trữ tình dự cảm được những phức tạp của cuộc đời - nhân tố cản trở mỗi người có thể làm được điều dự định (hình ảnh “đường nối đường” nói lên sự đan cài ngược xuôi bộn bề của những hướng đi hay những khả năng lựa chọn mà người ta không dễ làm chủ).

- Nhân vật trữ tình chưa có được một động lực lớn lao, đủ cho mình theo đuổi đến cùng điều mong muốn (thực ra, điều mong muốn đó cũng chưa có gì rõ rệt).

Nhìn chung, qua khổ thơ thứ ba, nhân vật trữ tình tự thể hiện là một con người nhạy cảm, hay nghĩ ngợi, hiểu được sự bất toàn (không trọn vẹn) của mọi lựa chọn trong đời nhưng lại hơi thiếu tính quyết đoán.

Câu 5 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đang trong thời điểm hiện tại, “tôi” đã vội nghĩ về một ngày xa xôi ở phía trước. Có phải tâm trạng của “tôi” trong ngày ấy chỉ tràn ngập sự tiếc nuối hay không? Hãy cho biết cảm nhận và lí giải của bạn về vấn đề này.

Trả lời:

Cần lưu ý rằng theo lẽ thường, sự tiếc nuối chỉ diễn ra khi “sự đã rồi” và khi chủ thể của sự lựa chọn đã có đủ thời gian để nghiền ngẫm về mọi điều xảy ra, còn ở đây, tất cả chỉ mới là dự cảm và tưởng tượng. Một số gợi ý:

- Trong một ngày xa nào đó, tâm trạng của “tôi” không hẳn là tiếc nuối. Sự tiếc nuối chỉ đến khi người ta nhận thức rõ mình đã chọn sai đường hoặc khi thực sự biết rằng: Nếu trước đó mình quyết định khác đi thì cuộc đời hẳn đã có kết quả tích cực, tươi sáng hơn.

- Tâm trạng của “tôi” trong mấy câu cuối của bài thơ thật sự phức tạp. “Tôi” nghĩ về bản thân sự lựa chọn nhiều hơn là thao thức trước kết quả cuối cùng mà sự lựa chọn đó mang lại. Rõ ràng, trong cảm nhận của “tôi? mọi lựa chọn đều khó khăn, có khi mang tính chất định mệnh chứ không phải là đáp số được đưa ra bởi những tính toán cặn kẽ, logic (với mọi con đường, đích phía trước đều mù tăm, thiếu xác định, rất khó hình dung). Chỉ biết rằng một khi đã quyết định lựa chọn thì hệ luỵ kéo theo là rất lớn - thứ hệ luỵ làm nên tính chất riêng biệt của mỗi cuộc đời với tất cả những dở, hay, tiêu cực, tích cực của nó.

Câu 6 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Bạn hiểu như thế nào về ý thơ toát lên từ hai dòng cuối của tác phẩm? Hãy tưởng tượng và miêu tả cảm giác của nhân vật trữ tình khi thốt lên từ “khác biệt” trong bản dịch 2 (tr. 105).

Trả lời:

- “Tôi” thốt lên từ “khác biệt” trong “tiếng thở dài” chứ không phải trong cảm xúc kiêu hãnh. Điều đó cho thấy, ở đây, từ “khác biệt” thể hiện thái độ trầm tư hơn là cảm giác hân hoan.

- Từ “khác biệt” theo góc nhìn nói trên, đã thâu tóm toàn bộ những nỗi đời, những khúc quanh đặc thù của một số phận - điều được tạo nên bởi sự lựa chọn ban đầu của “tôi” và “tôi” phải chấp nhận, bất kể hay, dở, thành công hay thất bại.

Câu 7 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Nêu nhận xét khái quát về mối quan hệ giữa hình ảnh con đường và hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Trả lời:

Trong bài thơ, giữa hình ảnh con đường và hình ảnh nhân vật trữ tình có sự thống nhất chặt chẽ, tuy hai nhưng cũng là một. Con đường không chỉ là con đường cụ thể trong rừng có lá vàng ngập bước chân đi vào một buổi sáng nào đó, mà còn là biểu tượng của đường đời, đường số phận, đúng hơn là biểu tượng của sự lựa chọn đường đi trong cuộc sống. Có thể nói, nếu không có “tôi” với những trăn trở về sự lựa chọn thì cũng sẽ không có con đường với hai lối rẽ khiến người lữ hành phải phân tâm như bài thơ cho biết. Như vậy, con đường là sự hình tượng hoá những trăn trở của chính nhà thơ, như được sinh ra từ những trăn trở ấy. Tuy bài thơ gợi lên câu chuyện có thật về những cuộc dạo chơi trong rừng giữa tác giả với người bạn thân của mình là Ét-uốt Thô-mớt-xơ (Edward Thomas), nhưng khi vào bài thơ, tính cụ thể của con đường đã bị mờ đi để tính biểu tượng nổi bật lên.

Câu 8 trang 19 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Bạn đã liên hệ tới bản thân như thế nào khi trải nghiệm cùng bài thơ? Nêu điều bạn tâm đắc nhất với tác phẩm Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rót.

Trả lời:

Hãy bộc lộ chân thành những điều mình đã liên hệ bản thân khi đọc bài thơ. Liên hệ của bạn có thể không giống ai nhưng đó là điều tự nhiên, mang tính phổ biến. Trên cơ sở liên hệ đó, bạn sẽ xác lập được góc nhìn riêng về tác phẩm. Bạn có thể tự do nêu điều tâm đắc của mình về Con đường không chọn ở phương diện nghệ thuật (mạch triển khai, sự gắn kết giữa các hình ảnh, những chi tiết trần thuật đầy ẩn ý,...) hoặc ở phương diện nội dung (ý tưởng, thông điệp, cái nhìn nghệ thuật, sự bộc lộ hình tượng tác giả,...). Ngoài ra, bạn cũng có thể liên hệ, kết nối bài thơ của Rô-bớt Phờ-rót với những bài thơ khác mà bạn biết để nhận ra sự tương đồng hay khác biệt giữa chúng.

Bài tập 3 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc lại văn bản Một đời như kẻ tìm đường trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 109) đoạn từ “Vào mỗi khúc quanh của cuộc đời mình” đến “thấy được thứ mình đi tìm” và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Nêu nội dung chính của mỗi đoạn văn.

Trả lời:

Nội dung chính của đoạn từ “Vào mỗi khúc quanh của cuộc đời mình” đến “trên những nẻo đường đã đi qua”: Cuộc đời là một hành trình dài, không ai có thể biết trước, nhưng đi đường nào rồi cũng có thể có thành công và hạnh phúc.

Nội dung chính của đoạn từ “Cả cuộc đời tìm đường” đến “tinh thần tích cực mà mình luôn luôn có”: Hạnh phúc và thành công trong cuộc đời phụ thuộc vào những đóng góp của mỗi người cho xã hội.

Nội dung chính của đoạn kết: Khi sống tử tế với người khác, ta có thể tìm thấy giá trị của bản thân.

Câu 2 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phân tích tác dụng của những biện pháp tu từ được sử dụng trong các đoạn văn.

Trả lời:

Các biện pháp tu từ được tác giả sử dụng:

- Biện pháp so sánh: “Suốt cuộc đời tôi đã mây mò, giống như người khiếm thị lại phải đi trong cảnh sương mù”. Hình ảnh so sánh này hàm nghĩa cuộc đời là một hành trình vô tận, không ai có thể biết trước.

- Điệp ngữ “Tôi đã tìm thấy” ở đoạn kết của văn bản nhằm nhấn mạnh những giá trị mà con người nhận được khi sống tử tế.

Câu 3 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Theo bạn, khi viết văn bản này, tác giả đang ngầm đối thoại với ai?

Trả lời:

Trước hết, văn bản là một lời độc thoại, trong đó tác giả tự chiêm nghiệm, cắt nghĩa các quy luật cuộc đời, tự đúc rút các bài học cho mình. Nhưng văn bản còn có thể là một thông điệp của tác giả cho thế hệ trẻ, rằng việc lựa chọn đường đi thế nào không quan trọng, quan trọng là phải sống tử tế và tạo ra nhiều giá trị cho xã hội.

Câu 4 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Giọng điệu của tác giả trong các đoạn văn này là gì? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu đó?

Trả lời:

Giọng điệu được sử dụng trong văn bản là giọng tự vấn, tâm tình, sâu lắng. Giọng điệu này được tạo nên bởi nhịp điệu lời văn chậm rãi, bởi hình thức lời đối thoại mang tính chất độc thoại, bởi những cụm từ thể hiện sự suy ngẫm, chiêm nghiệm của tác giả như: “suốt cuộc đời tôi đã, “nhưng rồi mãi tới lúc cao tuổi”,“tôi mới hiểu được rằng/ “cả cuộc đời tìm đường để rồi mãi tới lúc xế chiều tôi mới khám phá ra? “suốt cuộc đời tìm đường, tôi đã tìm thấy”...

Câu 5 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: “Đi đường nào rồi cũng có thể thành công, chọn lối nào rồi cũng có khả năng đạt hạnh phúc, vì hạnh phúc và thành công không tuỳ thuộc vào con đường chúng ta đi, mà vào tâm trạng tự tại của chúng ta, cũng như vào những giá trị mà chúng ta gieo ngay trên những nẻo đường đã đi qua”. Bạn có đồng ý với nhận định này của tác giả không? Vì sao?

Trả lời:

Em đồng ý với nhận định của tác giả vì nó nói lên một quan niệm sống tích cực, hạnh phúc và có ích. Thành công và hạnh phúc phụ thuộc vào tâm tính và suy nghĩ mà mỗi người theo đuổi. Thành công là sự hoàn thành, đạt được mục tiêu, chiếm lĩnh được một giá trị nào đó trong công việc và trong đời sống. Với nhiều người, đó là thước đo giá trị vật chất, là kết quả nhìn nhận, đánh giá về một việc làm. Hạnh phúc là sự hài lòng hay thỏa mãn một nhu cầu nào đó trong cuộc sống của mình.

Bài tập 4 trang 20, 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc lại văn bản Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc trong SGK Ngữ văn 10, tập hai (tr. 121 - 123) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tìm các chi tiết miêu tả người trần thuật xưng “tôi” trong văn bản. Những chi tiết đó cho thấy đặc điểm gì của người trần thuật xưng “tôi”?

Trả lời:

Các chi tiết miêu tả người trần thuật xưng “tôi” gồm có:

- Các chi tiết mang tính chất tự thuật như: “hai mươi tám ngày trong quân ngũ”; “dọc đường hành quân”; “còn mình, sẽ đi về phương Nam..”; “sống trên hai mươi ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên Sở”;...

- Các chi tiết miêu tả cảm xúc, cảm giác như:“thèm quá, nghe một tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn...; “mình đã khóc, nước mắt giàn giụa”; “rối loạn, và thoảng một thứ mùi khó chịu”; “mình không dám đứng lâu và đành chịu một nỗi ân hận giày vò...; “vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá”; “sung sướng và hãnh diện biết bao”; “ta bước nhẹ, lâng lâng một mùi hương quen thuộc”;... Các chi tiết này nhằm xây dựng nên hình tượng người trần thuật là một người lính trẻ đã sẵn sàng rời bỏ giảng đường đại học để lên đường nhập ngũ, với rất nhiều cảm xúc vừa xúc động, tự hào, háo hức, tràn đầy niềm tin vào lí tưởng, vừa bâng khuâng, lưu luyến khi phải chia tay những gì thân thuộc, gắn bó nhất của mình.

Câu 2 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Sự kiện chính trong văn bản là gì? Sự kiện đó được quan sát từ điểm nhìn nào? Cách sử dụng điểm nhìn đó có tác dụng gì?

Trả lời:

Sự kiện chính được miêu tả trong văn bản là người lính trẻ lần đầu tiên rời xa giảng đường và người thân, lên đường nhập ngũ. Sự kiện đó được quan sát từ điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tâm lí. Từ điểm nhìn này, tác giả thể hiện được những suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, liên tưởng rất đỗi tinh tế, phức tạp bên trong người kể chuyện xưng “tôi” như cảm giác nghẹn thắt khi lần cuối cùng ngước nhìn cánh cửa sổ, những hoài niệm về giảng đường đại học, cảm giác thân thuộc khi nhìn xóm làng yêu quý đang ngủ yên,... Văn bản vì thế không chỉ ghi chép lại các sự kiện có thật trong quá khứ, mà còn giúp người đọc hiểu hơn về đời sống tinh thần của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.

Câu 3 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Giọng điệu trần thuật của văn bản có gì đặc biệt? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu trần thuật đó?

Trả lời:

Giọng điệu bao trùm toàn bộ văn bản là giọng điệu hân hoan, háo hức, bâng khuâng, trăn trở của một người lính trẻ lần đầu nhập ngũ. Giọng điệu này được tạo nên bởi lời độc thoại nội tâm với rất nhiều những trăn trở, tự vấn (“Thế là thế nào?”; “Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế”; “Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được gì đâu, đã sống được gì đâu?”), bởi hình thức câu văn nghi vấn và cảm thán xuất hiện với một tần suất dày đặc trong suốt văn bản (ở đâu, khuôn mặt thân yêu ấy?”; “Bước lên giảng đường, bạn có nhớ tới mình không?”; “Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn”;...), bởi điểm nhìn trần thuật bên trong, cho phép soi tỏ những suy tư, thậm chí cảm giác thoáng qua của người trần thuật. Giọng điệu này làm nên chất trữ tình cho văn bản.

Câu 4 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Các sự kiện, cảm xúc, liên tưởng trong văn bản được sắp xếp, tổ chức theo cách nào?

Trả lời:

Các sự kiện, cảm xúc, liên tưởng trong văn bản được tổ chức, sắp xếp theo điểm nhìn bên trong của nhân vật xưng “tôi”, vì thế, không tuân theo thứ tự thời gian cũng như không theo logic khách quan của thực tại. Mỗi sự kiện có thật trong thực tại lại gợi nên rất nhiều hoài niệm về quá khứ, sự phấp phỏng hân hoan về tương lai, khiến cho mạch cảm xúc, liên tưởng luôn chệch ra khỏi việc ghi chép về người thật việc thật. Ví dụ: Tiếng xe nổ máy gợi nên nỗi hoài niệm của quá khứ (“Một hôm nào, những hôm nào mình mong chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe qua”), vầng trăng trong đêm hành quân gợi nhớ tới cánh buồm đỏ thắm, ánh đèn pin của đồng đội gợi nhớ tới con dế trong bản nhạc đêm của Pri-sơ-vin (Prishvin), tới người yêu,... Việc tổ chức các yếu tố của văn bản theo mạch cảm xúc của người trần thuật xưng “tôi” khiến cho người đọc có thể quan sát lịch sử từ điểm nhìn của cá nhân và chính điều này đã tạo nên sức sống của những trang nhật kí.

Câu 5 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Văn bản cho bạn biết thêm điều gì về cuộc sống của thế hệ thanh niên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ?

Trả lời:

Qua những sự kiện, cảm xúc, suy tư của người trần thuật trong văn bản, ta có thể thấy cuộc sống của con người một thời đã qua. Đó là một thế hệ thanh niên sẵn sàng gác bỏ những ước mơ, tình cảm, hạnh phúc cá nhân để cống hiến cho lí tưởng, tuy sống trong một hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, nhưng tâm hồn vẫn rất lãng mạn, bay bổng, đầy mơ mộng và yêu thương.

Câu 6 trang 20 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Thông điệp bạn nhận được từ văn bản là gì? Liệu những thông điệp đó còn có ý nghĩa với đời sống của bạn hay không? Vì sao?

Trả lời:

- Văn bản có thể gợi cho chúng ta suy nghĩ về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Mỗi con người là một cá nhân với những cảm xúc, cảm giác, số phận riêng, nhưng người ta sẽ sống trọn vẹn nhất đời sống cá nhân mình, hiểu rõ nhất cá nhân mình khi hoà làm một với cộng đồng.

- Văn bản cũng có thể gợi cho chúng ta suy nghĩ về những lựa chọn trong cuộc sống. Mỗi lựa chọn đều khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, hi sinh, gợi nhiều tiếc nuối, băn khoăn, nhưng sự can đảm trong lựa chọn sẽ làm chúng ta trưởng thành hơn. Những thông điệp như vậy vẫn có ý nghĩa trong đời sống ngày nay, vì đó là những vấn đề phổ quát của nhân loại trong mọi thời đại.

Câu 7 trang 21 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: “Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống”: Bạn nghĩ gì về lựa chọn của người trần thuật xưng “tôi” trong văn bản?

Trả lời:

Lựa chọn xưng “mình” hoàn toàn hợp lí và đem đến những cảm nhận chân thực cho người đọc đồng thời tỏ rõ khát khao cùng tấm lòng mà nhân vật “tôi” đang muốn thể hiện. Xưng “mình” khiến câu văn gần gũi và thân quen.

Bài tập 5 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Trong lựa chọn, đáng sợ nhất là đẩy người thân yêu của mình vào vai “thủ phạm” đã làm mình mù loà để tự huyễn hoặc thất bại đã qua. Tôi tệ nhất là tự tay đẩy sự lựa chọn đó vào tay ai khác không phải bản thân mình. Dối lừa nhiều nhất là kinh hoàng nhận ra ta mãi chẳng trưởng thành được vì cứ đưa tay cầu xin cuộc đời lựa chọn thay mình, để chẳng bao giờ phải soi gương xem mình đã hành xử ra sao trước hai ngả đường lạ lẫm.

Khi chạy trốn những chọn lựa, ta chỉ là đứa trẻ mãi bơi trong cái bể cao su do người thân yêu thổi sẵn cho chơi trong sân nhà.

Vậy, nếu mình phải tự chọn tất cả, và lỡ chân chọn sai thì sao?

Tôi đã trải qua cảm giác khó chịu đó suốt nhiều tháng dài. Đầu tiên là đối mặt với ý nghĩ: Mình sai chứ không phải lỗi của ai hết. Thừa nhận sai lầm của chính mình khó hơn nói xin lỗi bạn bè. Tôi thường quá kiêu ngạo để nhận ra mình đã sai và nhu cầu tự xin lỗi đến như một cuộc vật lộn.

Sau khi thừa nhận đó là một lựa chọn sai, tôi bắt đầu suy nghĩ vì sao mà mình chọn sai. Việc này có thể làm lúc nhàn rỗi. Tôi cứ nhấm nhẳng nhai cái sai lắm đó trong suốt nhiều năm, bởi nó là vật quy chiếu và giúp mình ngừng nhầm lẫn. Dù vậy, nó chẳng giúp đảm bảo tôi có sai tiếp hay không. Nó chỉ ngăn những nhầm lẫn kéo tới và khiến tôi mù loà.

Sau đó, lại phải chọn tiếp. Khi này, tôi đã ngẩng đầu lên, thở phào nhẹ nhõm vì mình không phải đổ lỗi cho cha mẹ về sai lầm của chính mình. Tôi không đẻ ra một nạn nhân để tự tha thứ cho mình vì đã hành xử ngu dốt, thiếu trách nhiệm. Thật may mắn vì tôi đã không cho cha mẹ quyền lựa chọn, họ đã không trở thành nạn nhân để tôi đổ lỗi.

Mỗi chọn lựa hàm chứa một con đường và cơ hồ ta sẽ phải rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù. Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt.

Khi sợ hãi phải chọn lựa, hãy nhớ rằng bất cứ ai cũng mù loà như mình và cũng đang đi với bàn tay vất vả, đôi chân mò mẫm trong đường hầm tối tăm ấy.

Chẳng có cách nào khác ngoài lót gạch, bước đi và chịu đau.

(Theo Khải Đơn, Ta có bị quan không), NXB Thanh niên, Hà Nội, 2017, tr. 216 —- 218)

Câu 1 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Quan điểm của người viết trong văn bản là gì?

Trả lời:

Quan điểm của người viết trong văn bản: Không nên trao quyền lựa chọn cho người khác, hãy tự lựa chọn và bước đi trên con đường của mình, dù phải vấp ngã và chịu đau đớn chính vì những lựa chọn đó.

Câu 2 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Quan điểm của người viết trong văn bản: Không nên trao quyền lựa chọn cho người khác, hãy tự lựa chọn và bước đi trên con đường của mình, dù phải vấp ngã và chịu đau đớn chính vì những lựa chọn đó.

Trả lời:

Quan điểm trên của người viết được triển khai thành các luận điểm chính:

- Không nên trao quyền lựa chọn vào tay người khác.

- Cần dũng cảm tự lựa chọn, cần chấp nhận sự sợ hãi, sai lầm, vấp ngã để trưởng thành.

Câu 3 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Những trải nghiệm cá nhân được nhắc lại có tác dụng gì trong việc làm sáng tỏ quan điểm của người viết?

Trả lời:

Những trải nghiệm cá nhân của người viết về sự lựa chọn sai lầm của bản thân là những bằng chứng cụ thể, sinh động, giúp chứng minh cho luận điểm: Cần dũng cảm tự lựa chọn và chấp nhận sai lầm, thất bại của mình.

Câu 4 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: “Mỗi chọn lựa hàm chứa một con đường và cơ hồ ta sẽ phải rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù. Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt”. Bạn hiểu như thế nào về nhận định này của tác giả?

Trả lời:

Tác giả nêu nhận định thông qua các hình ảnh ẩn dụ. Chọn lựa được ví như một con đường, mỗi hành động tiếp theo sau chọn lựa được ví như việc rải từng viên gạch cho con đường hiện ra sau bờ bãi xa mù, có nghĩa là không ai có thể chỉ cho ta nên đi thế nào, cũng như lát gạch cho ta đi, ta cần tự lựa chọn và tự bước đi trên con đường của chính mình. Biện pháp so sánh được sử dụng trong câu: “Ta chỉ là một kẻ dại khờ, đeo lên mặt tấm băng đen và dùng bàn tay dò dẫm trong bóng tối của tương lai, vừa đi vừa xếp những viên gạch xuống con đường trước mặt” làm nổi bật nhận thức rằng tương lai là cái mơ hồ, không ai có thể biết trước, mỗi người đều không đoán định được con đường sắp tới của mình, nhưng dù vậy, vẫn phải tự bước đi. Nói chung, cốt lõi của nhận định là: Dù không thể biết trước tương lai sẽ ra sao, nhưng mỗi cá nhân đều phải tự lựa chọn, tự bước đi, chấp nhận vấp ngã và tự chịu trách nhiệm cho những lựa chọn của mình.

Câu 5 trang 22 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Bạn có đồng ý với quan điểm của tác giả không? Vì sao?

Trả lời:

Em đồng ý với quan điểm của tác giả vì nó thể hiện một lối sống tích cực và đầy trách nhiệm. Đó chính là một thái độ dám nhận sai và sửa sai. Rèn luyện ý chí và thái độ sống như vậy sẽ giúp con người ta hạnh phúc và trân trọng cuộc sống hơn.

Bài tập 6 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Khi tôi ở Mông-gô-me-ri (Montgomery), A-la-ba-ma (Alabamg), tôi đã đến một hiệu bán giày, tên là hiệu giày Gô-rơ- đôn (Gordon). Trong hiệu này có một người giúp việc thường hay đánh giày cho tôi, và phải nói rằng xem anh đánh giày cho tôi thực sự là một trải nghiệm tuyệt vời. Anh ta dùng miếng giẻ đánh giày và bạn biết không, anh có thể làm cho miếng giẻ này bật ra âm thanh. Và tôi đã tự nhủ: “Đây thực sự là một tiến sĩ trong việc đánh giày”

Bạn thân mến, điều tôi muốn nói với các bạn trong buổi sáng hôm nay, là nếu bạn là một người quét đường, hãy quét đường như thể Mi-ken-lăng-giơ (Michelangelo) đang vẽ tranh, hãy quét đường như thể Han-đeo (Handel) và Bét-tô-ven (Beethoven) đang soạn nhạc; hãy quét đường như thể Sếch-xpia (Shakespeare) đang làm thơ, hãy quét đường hăng say tới nỗi tất cả các thánh thần ở trên thiên đường và con người trên Trái Đất phải dừng lại và thốt lên rằng: Nơi đây có một người quét đường tuyệt diệu, người đã làm thật tốt công việc của mình.

Nếu bạn không thể làm cây thông trên đỉnh đồi

Hãy làm một bụi cây trong thung lũng - Nhưng

Là bụi cây tốt nhất trên sườn đồi

Nếu không thể thành một cái cây cao, thì hãy là một bụi cây

Nếu không thể làm thành đại lộ, thì hãy là một lối mòn

Nếu không thể làm mặt trời, hãy là một ngôi sao

Thắng bại của bạn không phụ thuộc vào tầm vóc

Hãy trở thành người tốt nhất bất kể bạn có là ai.

Và khi làm điều này, khi làm được trọn vẹn điều này, bạn đã làm chủ được chiêu dài của cuộc đời.

(Mác-tin Lu-dơ Kinh - Martin Luther King, Ba chiều của một đời sống trọn vẹn, Ngọc Minh dịch, Diễn văn tại nhà thờ Báp-tít - Baptist Tân Ước, Chi-ca-gô - Chicago, Mỹ, 1967)

Câu 1 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Xác định luận điểm chính của tác giả.

Trả lời:

Luận điểm chính của tác giả: Làm bất cứ công việc gì, dù là bình thường nhất, cũng cần làm tốt nhất công việc của mình, khi đó, mỗi người sẽ sống trọn vẹn chiều dài của cuộc đời.

Câu 2 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phân tích tác dụng của yếu tố tự sự được tác giả sử dụng trong văn bản.

Trả lời:

Tác giả đã kể lại câu chuyện có thật mà mình đã chứng kiến về người thợ đánh giày - người đã đánh giày một cách say mê và hoàn hảo, khiến cho công việc này biến thành một kiệt tác nghệ thuật. Tác giả ngầm gửi tới người đọc một thông điệp: Khi ta làm bất cứ việc gì, chỉ cần ta thực hiện nó một cách chú tâm, bằng sự say mê, chuyên nghiệp, thì công việc đó đều toát lên vẻ đẹp, đều tạo ra giá trị.

Câu 3 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn thứ hai. Phân tích giá trị của biện pháp tu từ đó.

Trả lời:

Trong đoạn văn thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Việc quét đường được so sánh với Mi-ken-lăng-giơ đang vẽ tranh, Han-đeo và Bét-tô-ven đang soạn nhạc; Sếch-xpia đang làm thơ. Khi so sánh công việc quét đường, vốn là một công việc rất thầm lặng, bình thường trong xã hội với việc sáng tạo nên kiệt tác của những nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất trên thế giới, tác giả nhằm thể hiện thông điệp: Mỗi công việc dù là giản dị, bình thường nhất đều có ý nghĩa, sánh ngang tâm với những công việc lớn lao, vĩ đại nhất, nếu như thực hiện nó một cách say mê, bằng cả trái tim. Trong mỗi con người, ai cũng có phẩm chất của người nghệ sĩ, của người sáng tạo, bởi bằng lao động, chúng ta tự sáng tạo nên cuộc sống của mình, trong từng khoảnh khắc. Ẩn sau hình tượng so sánh đó là một thông điệp về sự bình đẳng và là lời kêu gọi mỗi người hãy sống trọn vẹn nhất với mỗi phút giây trong cuộc đời mình.

Câu 4 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Giọng điệu của người trần thuật trong văn bản có gì đặc biệt? Những yếu tố nào tạo nên giọng điệu đó?

Trả lời:

Giọng điệu của người trần thuật trong văn bản là giọng điệu vừa thân mật, vừa hào sảng. Giọng điệu thân mật, tâm tình được tạo nên bởi người trần thuật xưng “tôi” vừa đối thoại, trò chuyện với người đọc, vừa chia sẻ chân thành những suy nghĩ của mình. Giọng điệu hào sảng, đầy nhiệt huyết và lôi cuốn được tạo nên bởi cấu trúc câu cầu khiến, biện pháp điệp ngữ, hình ảnh so sánh rất bay bổng, đẹp đẽ. Giọng điệu này là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng làm nên sức thuyết phục mạnh mẽ trong các bài diễn văn của Mác-tin Lu-dơ Kinh.

Câu 5 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Theo bạn, “chiều dài của cuộc đời” ở đây nghĩa là gì?

Trả lời:

“Chiều dài của cuộc đời” ở đây nghĩa là kích thước của sức mạnh bên trong con người, được xây dựng dựa trên việc chấp nhận con người mình, hoàn cảnh sống của mình và sống trọn vẹn với những gì mình có, mỗi việc mình làm.

Câu 6 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Những nhận định của tác giả trong văn bản gợi cho bạn suy nghĩ gì về cuộc sống?

Trả lời:

Những nhận định của tác giả trong văn bản gợi cho em những suy nghĩ về việc sống trọn vẹn và trách nhiệm trong từng phút giây. Làm mọi việc một cách hoàn hảo và tốt nhất cùng với đó là sống trọn vẹn và hạnh phúc với công việc của mình. Bên cạnh đó nêu nên một triết lí sống tốt, trở thành người tốt nhất bất kể bạn là ai. Cuộc sống này vô vàn điều bất công nhưng hãy trở thành phiên bản hoàn hảo và tốt nhất của mình có.

Bài tập 7 trang 23, 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi:

HÀNH LỘ NAN

Bình vàng, rượu trong, cốc đáng vạn,

Mâm ngọc, nhắm quý, giá mươi ngàn!

Dằn chén, ném đũa, nuốt không được,

Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang!

Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hài!

Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng!

Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc,

Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương.

Đường gian nan! Đường gian nan!

Bao ngả rẽ? Nay đâu rồi?

Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc,

Treo thẳng buồm mây vượt bể khơi!

Hoàng Tạo dịch (Lý Bạch, Thơ Đường, Nam Trân tuyển chọn, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 82)

Câu 1 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phân tích ý nghĩa của các hình ảnh, biểu tượng trong bài thơ (bình vàng, rượu trong, mâm ngọc, nhắm quý, băng, tuyết, Hoàng Hà, Thái Hàng, thuyền, buồm mây).

Trả lời:

Các hình ảnh bình vàng, rượu trong, mâm ngọc, nhắm quý biểu trưng cho danh lợi, quyền chức, đời sống xa hoa nơi cung đình. Ngược lại, các hình ảnh bảng, tuyết, Hoàng Hà, Thái Hàng lại biểu trưng cho đường đời đầy khó khăn, thử thách. Thuyền, buồm máy ở đây biểu trưng cho lí tưởng, hoài bão được tự do tung hoành ngang dọc, vượt qua các thử thách để thực thi chí lớn.

Câu 2 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua các yếu tố nào? Phân tích sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Trả lời:

Nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện qua các hành động: “Dằn chén, ném đũa, nuốt không được”, “Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang/, “Rảnh rỗi buông câu bờ suối biếc” “Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”, “Đè sóng cưỡi gió, hẳn có lúc”, “Treo thẳng buồm mây vượt bể khơi”.

Trong bốn câu thơ đầu, nhân vật trữ tình thể hiện cảm xúc phẫn uất, chua chát khi phải sống trong một cuộc sống xa hoa nhưng tù túng và khát vọng tự do tung hoành ngang dọc (“Dằn chén, ném đũa, nuốt không được/ Vung gươm bốn mặt, lòng mênh mang”). Bốn câu thơ tiếp theo thể hiện niềm mơ ước vượt thoát ra khỏi mọi khó khăn, trở ngại của cuộc sống để sống một cuộc sống tự do, theo đuổi lí tưởng, cũng có thể hiểu là khát vọng được phụng sự cho một bậc minh quân (“Chợt cưỡi thuyền mơ bên thái dương”). Hai câu thơ tiếp theo lại là một lời tự thán và câu hỏi đầy băn khoăn về những lựa chọn mà mình nên theo đuổi. Hai câu thơ cuối cùng với một giọng điệu hào hùng, đã khẳng định ý chí và khát vọng mãnh liệt muốn vượt qua mọi trở ngại, thách thức. Có thể nói, mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ là sự xung đột giữa một bên là con người mang lí tưởng cao đẹp, khát vọng tự do và một bên là cuộc sống chật chội, tù túng, đầy những khó khăn, thách thức, trong đó tất cả những cám dỗ của vật chất hay những trở ngại trên đường đời đều không thể đè bẹp được hoài bão và ý chí kiên cường của con người.

Câu 3 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: So sánh cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch và cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rót.

Trả lời:

Có thể thấy, nhân vật trữ tình trong cả hai bài thơ đều được miêu tả trong trạng thái đứng trước con đường nhiều lối rẽ, nhiều lựa chọn. Nhưng, cảm xúc, tâm thế của hai nhân vật trữ tình rất khác nhau. Trong bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch, nhân vật trữ tình thể hiện một ý chí mạnh mẽ và lựa chọn quyết liệt để đi một con đường dẫu nhiều sóng gió, còn trong bài Con đường không chọn, nhân vật trữ tình lại hiện lên như một kẻ đầy băn khoăn, do dự, phân vân với mỗi lựa chọn của mình. Hai trạng thái đó cũng là những trạng thái nhân sinh phổ quát của con người nói chung khi đứng trước những lối rẽ khác nhau trong cuộc đời mình.

Câu 4 trang 23 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Hình ảnh con đường trong bài thơ ẩn dụ cho điều gì? So sánh với ẩn dụ về con đường trong bài thơ Con đường không chọn của Rô-bớt Phờ-rót.

Trả lời:

Hình ảnh con đường trong bài thơ được miêu tả thông qua các chi tiết: “Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hà!/ Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng!”; trong lời cảm thán: “Đường gian nan! Đường gian nan!/ Bao ngả rẽ? Nay đâu rồi?”. Qua những chi tiết và lời cảm thán này, có thể thấy con đường ở đây tượng trưng cho đường đời nhiều khó khăn, chông gai, nhiều ngả rẽ, thử thách ý chí của con người. Trong bài thơ Con đường không chọn, con đường được miêu tả qua các chi tiết: “lối rẽ trong rừng vàng rực lá”, “khúc quanh giữa bụi bờ chìm khuất” “cỏ rậm muốn mời chân bước”, “thảm lá chưa chân ai hằn dấu thẫm“. Con đường ở đây được miêu tả như một hành trình vô định, mơ hồ, với nhiều lối rẽ mời gọi bước chân của con người. Cùng sử dụng hình tượng con đường để miêu tả hành trình cuộc đời, nhưng ý nghĩa và những liên tưởng, cảm xúc mà hai hình tượng gợi nên trong hai bài thơ lại rất khác nhau, thể hiện những tâm trạng và lựa chọn rất khác nhau của nhân vật trữ tình.

Câu 5 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Ba văn bản Con đường không chọn, Hành lộ nan, Một đời như kẻ tìm đường gợi cho bạn suy nghĩ gì về hành trình của con người trong cuộc đời? Liệu con người có thể chủ động lựa chọn và thực hiện được những hoài bão của mình?

Trả lời:

Có thể thấy, trong văn bản Một đời như kẻ tìm đường, tác giả cho rằng cuộc đời là một hành trình một chiều, được dẫn dắt bởi những động lực mà con người khó có thể biết, và mỗi lựa chọn của con người không quan trọng bằng việc người đó sống như thế nào, ứng xử ra sao với mỗi lựa chọn đó của mình. Trong khi đó, ở bài thơ Hành lộ nan, tác giả lại thể hiện quan niệm: Đường đời nhiều gian nan, thử thách, nhiều khúc quanh nhưng không gì có thể khuất phục được khát vọng tự do và ý chí lớn lao của con người. Ở bài thơ Con đường không chọn, cuộc đời lại được ví như một hành trình nhiều ngả rẽ, dù chọn lối nào, ta cũng không thoát khỏi trạng thái phân vân, do dự. Mỗi tác phẩm đều thể hiện những quan niệm khác nhau về cuộc sống, về sự chọn lựa cũng như những hành xử khác nhau đối với mỗi chọn lựa của con người.

Bài tập 8 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

“Điên rồ” là từ mọi người gọi An-tô-ni-ô Vi-xen-tê (Antonio Vicente), một người Bra-xin (Brazil) muốn trồng lại rừng ở xứ rừng. Bra-xin nổi tiếng có đến 60% diện tích rừng A-ma-dôn (Amazon), rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới. Từ những năm 60 của thế kỉ trước, rừng A-ma-dôn bắt đầu bị thu hẹp bởi chính sách phát triển nông nghiệp của Bra-xin. Chính phủ khuyến khích đẩy mạnh chăn nuôi bò nên những chủ đồn điền tới chặt hạ rừng để trồng cỏ.

Từ Đông sang Tây, còn nhiều con người điên rồ, mơ mộng như vậy nữa. Tôi có thể kể đến cặp vợ chồng già Thơ-bát (Tubbat) và Thô-xơn-xa-gan (Tosontsagaan) đã mất 15 năm để biến sa mạc thành ốc đảo. Công việc của họ là bản trường ca chiến đấu với sa mạc, họ dùng xe máy chở nước để trồng loài cây xa-xo (saxaul)1” trên sa mạc, sa mạc biến công sức họ thành cát bụi bởi gió, cát và nắng nóng. Cây chết, họ lại tiếp tục trồng cây mới, làm hàng rào ngăn cát, xe máy hỏng thì đổi xe mới, không lùi bước. Sau 15 năm, hỏng 7 chiếc xe máy, họ đã trồng được 50 000 cây. Cây xa-xo chính là những cái bơm nước sinh học, có cây xa-xo, cỏ mọc lại, sự sống hồi sinh trên sa mạc. Tôi cũng có thể kể đến ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương (Wang Tianchang) cùng người con trai Vương Ngân Cát (Wang Yinji) đã trồng cây trong suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đằng Cách Lý (Tenggeli), đông bắc Trung Quốc. Ốc đảo cây ấy đã góp phần bảo vệ làng của họ khỏi sự tấn công của sa mạc. Tôi có thể kể đến kẻ điên rồ Ya-cu-ba Xa-va-đô-gô (Yacouba Sawadogo), người đã bị cười nhạo khi muốn trồng rừng ở nơi tất cả các tổ chức, nhà khoa học đã phải bó tay: vùng sa mạc Xa-ha-ra (Sahara) ở Buốc-ki-na Pha-xô (Burkina Farso).

Và tôi còn có thể kể đến nhiều cái tên khác...

Những kẻ mơ mộng đó đã làm nên những kì tích mà hầu hết chúng ta không thể làm nổi. Nhưng ngay cả những chiến công của họ cũng là rất nhỏ bé nếu đem so với những gì con người đã gây ra cho thiên nhiên. Những kẻ mơ mộng ấy muốn rằng càng ngày càng có thêm nhiều người mơ mộng, để trồng thêm dù chỉ một cái cây, và nhiều cây sẽ thành một khu rừng.

Con đường vạn dặm nào cũng bắt đầu từ những bước đi đầu tiên. Trồng một cái cây, làm tổ cho bọ rùa, hay trồng hoa cho lũ ong,... biết đâu một ngày nào đó sẽ có một khu rừng mọc lên?

(Theo CANDID, Đời luôn sẵn kẻ mộng mơ, báo Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 5/3/2018)

1 Xa-xo: loài cây có khả năng chịu hạn cao, được trồng nhiều ở Trung Quốc và một số quốc gia Trung Á để chống lại hiện tượng sa mạc hoá.

Câu 1 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Luận điểm chính được tác giả trình bày trong văn bản là gì? Luận điểm đó được khai triển dựa trên những lí lẽ, bằng chứng nào?

Trả lời:

Luận điểm chính được tác giả trình bày trong văn bản là: Mỗi hành động rất nhỏ của con người để bảo vệ môi trường đều có thể tạo nên một sự thay đổi lớn lao cho Trái Đất.

Luận điểm này được triển khai dựa trên các bằng chứng: Câu chuyện về An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, câu chuyện về cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan mất 15 năm biến sa mạc thành ốc đảo, câu chuyện về ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng người con trai Vương Ngân Cát đã trồng cây trong suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đằng Cách Lý, đông bắc Trung Quốc. Đây là những bằng chứng cụ thể, khách quan, có thể kiểm chứng và đồng thời gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc, vì thế là những bằng chứng rất có sức thuyết phục.

Câu 2 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tóm tắt những nội dung chính trong văn bản bằng một sơ đồ.

Trả lời:

Có nhiều cách để sơ đồ hoá các thông tin trong văn bản. Dưới đây là một gợi ý:

SBT Ngữ văn 10 Bài tập 8 trang 25 Kết nối tri thức

Câu 3 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Những nhân vật, sự kiện nào được đề cập tới trong văn bản? Bạn có suy nghĩ gì về lựa chọn của các nhân vật đó?

Trả lời:

Tác giả đề cập các nhân vật, sự kiện có thực trong cuộc sống: An-tô-ni-ô Vi-xen-tê ở Bra-xin đã có ý tưởng “điên rồ” muốn trồng lại rừng ở xứ rừng, khi diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp lại; cặp vợ chồng già Thơ-bát và Thô-xơn-xa-gan đã mất 15 năm biến sa mạc thành ốc đảo; ông già 78 tuổi Vương Thiên Xương cùng con trai đã trồng cây suốt 30 năm để tạo nên một ốc đảo ở vùng đông bắc Trung Quốc. Các nhân vật này đã lựa chọn một cách sống khác, có thể đi ngược lại với đám đông, nhưng họ đã kiên trì theo đuổi lựa chọn đó trong suốt cuộc đời mình, và đã làm nên những kì tích vĩ đại. Đây có thể nói là những câu chuyện truyền cảm hứng, khiến cho ta có thể dũng cảm và kiên trì hơn khi theo đuổi những lựa chọn của mình.

Câu 4 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phân tích ý nghĩa của các phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản.

Trả lời:

Văn bản sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ là các số liệu. Các con số như “15 năm trồng cây để biến sa mạc thành ốc đảo”, “trồng cây trong suốt 30 năm” cho thấy sự kiên trì của các nhân vật trong câu chuyện. Các con số “50 000 cây”, “ốc đảo rộng 500 ha ở sa mạc Đằng Cách Lý” cho thấy thành tích phi thường của các nhân vật trong các câu chuyện. Có thể nói, các số liệu cụ thể, xác thực, có thể kiểm chứng này đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

Câu 5 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Thông điệp bạn nhận được sau khi đọc văn bản này là gì? Thông điệp đó tác động như thế nào đến nhận thức của bạn về bản thân và cuộc sống?

Trả lời:

- Số phận của Trái Đất phụ thuộc vào hành động của mỗi người. Nếu mỗi người đều kiên trì gìn giữ sự sống trên Trái Đất thì có thể làm cho Trái Đất hồi sinh.

- Hãy kiên trì và quyết tâm theo đuổi lí tưởng sống đúng đắn của mình, dù có thể bị coi là khác biệt, thậm chí “điên rồ”.

- Khi quyết tâm và kiên trì thực hiện những việc nhỏ, ta có thể tạo nên những thành quả lớn.

Viết trang 25

Bài tập trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Hãy tưởng tượng một ngày nào đó bạn cần giới thiệu về bản thân trong một bức thư xin việc làm. Hãy viết một bài luận về bản thân để tự giới thiệu mình trong bức thư đó.

Trả lời:

Để thực hiện bài tập này, có thể tham khảo các bước hướng dẫn sau đây:

- Bước 1: Hình dung ra ngữ cảnh giao tiếp của văn bản. Bạn sẽ ứng cử vào công việc gì? Ai sẽ là người tiếp nhận hồ sơ của bạn? Bạn sẽ ứng cử vào đâu? Tổ chức đó có đặc điểm gì? Để được tuyển dụng vào công việc đó, bạn cần có những năng lực, phẩm chất gì? Bạn có thể tham khảo các thông tin trên báo chí, internet để hiểu về công việc mà bạn muốn lựa chọn trong tương lai, cũng như những yêu cầu của các nhà tuyển dụng cho công việc đó.

- Bước 2: Liệt kê tất cả những điểm mạnh, điểm yếu, năng lực, phẩm chất của bạn; những nguyện vọng của bạn trong công việc, giá trị nghề nghiệp mà bạn muốn theo đuổi.

- Bước 3: Chọn lọc và sắp xếp những thông tin mà bạn muốn trình bày trong thư xin việc theo trật tự nhất định và làm nổi bật quan điểm riêng của bạn.

- Bước 4: Đặt mình vào vị trí của người tuyển dụng để lựa chọn một giọng điệu, thái độ và cách diễn đạt phù hợp.

- Bước 5: Sử dụng hình thức một bức thư để trình bày bài nghị luận về bản thân. Lưu ý đến những quy cách, chuẩn mực cho một bức thư xin việc.

- Bước 6: Đọc lại và chỉnh sửa văn bản.

* Bài văn mẫu tham khảo:

Tên của tôi là Nguyễn Minh Anh. Hiện tại, tôi đang là học sinh trường Trung học cơ sở Nguyễn Du. Tôi sẽ giới thiệu một vài nét về bản thân mình.

Tôi sinh ra trong một gia đình có bốn người: bố, mẹ, anh trai và tôi. Bố của tôi năm nay bốn mươi tuổi. Bố là một bác sĩ nên công việc khá bận rộn. Nhưng tôi luôn tự hào vì bố đã giúp đỡ được rất nhiều người. Còn mẹ tôi là một giáo viên tiểu học. Mẹ rất dịu dàng, lại đảm đang. Mọi công việc nội trợ trong nhà đều do mẹ tôi lo lắng. Chị gái của tôi đang là học sinh lớp chín. Năm nay, chị sẽ bước vào kì thi chuyển cấp vô cùng quan trọng. Tôi mong chị có thể đạt kết quả thật tôi. Thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình là tôi. Thỉnh thoảng, hai chị em tôi lại giúp đỡ mẹ công việc nhà. Mọi người trong gia đình của tôi rất yêu thương nhau.

Ở trong lớp học, tôi chơi thân nhất với bạn Mỹ Lệ. Chúng tôi là bạn cùng bàn của nhau. Tôi và Mỹ Lệ thường xuyên giúp đỡ nhau trong học tập. Cô giáo chủ nhiệm của lớp tôi tên là Thu Hà. Cô là một giáo viên rất tâm lí và dễ thương. Cô đã dạy cho chúng tôi rất nhiều kiến thức bổ ích, cũng như điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Lớp học của tôi rất đoàn kết, yêu thương nhau.

Tôi có rất nhiều sở thích như bơi lội, chơi game hoặc đọc sách. Môn học mà tôi yêu thích nhất là Ngữ Văn và Tiếng Anh. Sau mỗi giờ học tập căng thẳng, tôi lại tham gia câu lạc bộ ngoại khóa ở trường. Chúng tôi cùng nhau tham gia các hoạt động tình nguyện như: Giờ Trái Đất, Áo ấm vùng cao… Tôi đã làm quen được với nhiều người bạn mới, học hỏi được nhiều kĩ năng bổ ích.

Ước mơ của tôi là trở thành một bác sĩ. Bởi vậy, tôi cố gắng học tập thật tốt để có thể thực hiện ước mơ của mình

Nói và Nghe trang 25

Bài tập 1 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Biểu đồ dưới đây đề cập đến vấn đề gì? Chuẩn bị một bài thuyết trình về vấn đề đó.

SBT Ngữ văn 10 Bài tập 1 trang 25 Kết nối tri thức

Số liệu ước tính mô hình hoá của ILO, tháng 11/2019. Thanh niên được định nghĩa là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24.

Trả lời:

Để thực hiện phần chuẩn bị cho bài thuyết trình, có thể tham khảo các gợi ý sau đây:

- Bước 1: Đọc kĩ tên biểu đồ để nhận diện vấn đề chính được đề cập trong biểu đồ.

- Bước 2: Quan sát kĩ các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong biểu đồ, tìm ra mối liên hệ giữa các kí hiệu, diễn giải về ý nghĩa của các kí hiệu và các thông tin chính được truyền tải trong biểu đồ. (Gợi ý: Biểu đồ thể hiện tương quan biến động về tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên từ năm 2012 đến năm 2020 giữa các nước châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Có thể nhận thấy, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi lao động đang tăng đều qua các năm, đặc biệt là năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bắt đầu đe doạ các nền kinh tế trên thế giới. Từ trước năm 2018, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên các nước châu Á - Thái Bình Dương thấp hơn so với các nước trên thế giới, nhưng từ năm 2018, tỉ lệ đó tăng cao. Đây là những cảnh báo rất đáng chú ý về vấn đề thất nghiệp của thanh niên các nước châu Á - Thái Bình Dương.

- Bước 3: Tìm kiếm thêm các thông tin khác về vấn đề từ các nguồn tài liệu khách quan, đáng tin cậy khác.

- Bước 4: Tổng hợp, chọn lọc, sắp xếp và ghi chép các thông tin đã tìm được một cách mạch lạc, khoa học.

- Bước 5: Xây dựng dàn ý cho bài thuyết trình theo cấu trúc sau:

+ Mở đầu: Diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn quan điểm của bạn về vấn đề việc làm/ tỉ lệ thất nghiệp bằng một câu.

+ Triển khai: Trình bày các luận điểm chính của bạn về vấn đề, các lí lẽ và bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm. Có thể sử dụng sơ đồ, bảng biểu để hệ thống hoá các thông tin.

+ Kết thúc: Mở rộng, nâng cao vấn đề hoặc gợi mở người đọc tiếp tục suy nghĩ về những khía cạnh khác của vấn để.

- Bước 6: Chuẩn bị các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc thuyết trình.

* Bài nói mẫu tham khảo:

Trong lĩnh vực lao động việc làm, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận định thị trường lao động việc làm đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu phục hồi sau những gián đoạn chưa từng có do đại dịch Covid-19 gây ra trong năm 2020. Tuy nhiên, sự tác động tiêu cực của đại dịch vẫn còn đang tiếp diễn. Báo cáo tác động Covid-19 của tổ chức này đưa ra số liệu mới nhất cho thấy số giờ làm việc toàn cầu năm 2020 đã sụt giảm 8,8% so với quý 4 năm 2019. Mức độ sụt giảm này bao gồm cả số giờ làm việc bị giảm của những người vẫn có việc làm và những người bị mất việc. Đáng lưu ý, khoảng 71% số người bị mất việc (tương đương 81 triệu người) quyết định rời bỏ thị trường lao động thay vì đi tìm công việc khác và trở thành người thất nghiệp. Những thiệt hại vô cùng lớn này khiến thu nhập từ lao động trên toàn cầu giảm 8,3%, tương đương với 3,7 nghìn tỷ đô la Mỹ hay 4,4% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu.

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng Quý I năm 2021 của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (5,0% so với 4,9%), của lao động nam cao hơn lao động nữ (5,2% so với 4,6%). Đa số lao động không sử dụng hết tiềm năng là những người dưới 35 tuổi (53,2%), trong khi đó lực lượng lao động dưới 35 tuổi chỉ chiếm 36%. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ và trong bối cảnh dịch Covid-19 xuất hiện, việc nghiên cứu các chính sách để tận dụng nhóm lao động này càng trở nên cần thiết.

Nhìn chung, Việt Nam vẫn là một thị trường dư thừa lao động, nhất là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Việc nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm cho thanh niên vẫn còn nhiều hạn chế. Cơ cấu đào tạo lao động thanh niên chưa hợp lý, chưa có sự phân luồng giữa các ngành nghề dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Công tác đào tạo chưa gắn với nhu cầu thị trường lao động. Hoạt động tư vấn, định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm cho thanh niên, sinh viên chưa hiệu quả. Công tác dự báo thị trường lao động còn hạn chế. Thanh niên và sinh viên ra trường còn thiếu các kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc thực tế tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số chính sách ưu đãi về việc làm cho thanh niên ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo chưa thực sự hấp dẫn. Thiếu nguồn lực thực hiện hệ thống chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên.

Bài tập 2 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Thuyết trình những nội dung bạn đã chuẩn bị trong bài tập 1. Sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ trong bài thuyết trình của bạn.

Trả lời:

Để thực hiện nhiệm vụ này, có thể tham khảo gợi ý sau:

- Bước 1: Tìm hiểu về bối cảnh thuyết trình: Bạn sẽ thuyết trình ở đâu? Người nghe là ai? Thời gian bạn có thể sử dụng là bao lâu? Các phương tiện trực quan mà bạn có thể sử dụng để hỗ trợ cho bài thuyết trình của mình là gì?

- Bước 2: Lựa chọn giọng điệu, thái độ, nội dung phù hợp với bối cảnh thuyết trình.

- Bước 3: Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ phù hợp, ví dụ: bản tóm tắt các nội dung sẽ thuyết trình, các phương tiện trực quan,...

- Bước 4: Thuyết trình những gì đã chuẩn bị. Khi thuyết trình, cần chú ý đến ngôn ngữ cơ thể, nắm bắt thái độ của người nghe để điều chỉnh tốc độ, ngữ điệu phù hợp.

- Bước 5: Thu thập phản hồi của người nghe và đối thoại với người nghe dựa trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng sự khác biệt.

* Bài nói mẫu tham khảo:

Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay, vấn đề thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm đang là vấn đề nóng bỏng “và không kém phần bức bách” đang được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Đất nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế phát triển, chúng ta đang từng bước đổi mới, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, kinh tế vĩ mô đã vạch rõ những vấn đề phát sinh trong đó thể hiện ở những vấn đề: Thất nghiệp, việc làm, lạm phát.tuy nhiên, đề tài này chỉ đi vào nghiên cứu vấn đề thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam. Sự biến động của tỷ lệ thất nghiệp từ năm 1986 đến năm 1996, các nguyên nhân làm tăng hay giảm tỷ lệ thất nghiệp, trong từng giai đoạn kể trên: Số người tăng thêm trong lực lượng lao động hàng năm và số người được giải quyết việc làm hàng năm. Các chính sách giải quyết việc làm của nhà nước ta từ năm 1986 đến nay “đặc điểm của thời kỳ đưa ra chính sách đó, mục tiêu của chính sách, kết quả đạt được, những vấn đề chưa đạt được”. Tình hình việc làm của người lao động Việt nam hiện nay, phương hướng giải quyết việc làm của Nhà nước, phương hướng giải quyết việc làm của Nhà nước trong thời gian tới.

Xem thêm các bài giải SBT Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian

Bài 6: Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này

Bài 7: Quyền năng của người kể chuyện

Bài 8: Thế giới đa dạng của thông tin

Bài 9: Hành trang cuộc sống

Đánh giá

0

0 đánh giá