Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 4: Sức sống của sử thi sách Kết nối tri thức hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10. Mời các bạn đón xem:
Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 4: Sức sống của sử thi
Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt trang 18, 19, 20, 21, 22, 23
Bài tập 1 trang 18 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Héc-to (Hector) từ biệt Ăng-đrô-mác (Andromache) trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 99 - 103) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Khi nghe tin Ăng-đrô-mác đã rời khỏi nhà, Héc-to đã “tức thì rời nhà, chạy ngược theo những dãy phố thành Tơ-roa (Troy) xây dựng khang trang. Xuyên qua phố xá thành Tơ-roa rộng lớn, chàng tới cổng Xkê (Skey)”. Hành động này của Héc-to cho thấy nỗi lo lắng và niềm mong mỏi được gặp lại người vợ yêu dấu, xuất phát từ tình yêu tha thiết mà Héc-to dành cho nàng.
Trả lời:
Lời khuyên can của Ăng-đrô-mác đối với Héc-to cho thấy nỗi lo lắng của nàng cho số phận của Héc-to, nỗi đau khổ và tuyệt vọng của nàng trước những dự cảm không lành về tương lai, xuất phát từ những kinh nghiệm đau buổn trong quá khứ.
Trả lời:
Qua lời đối thoại của Héc-to và Ăng-đrô-mác, có thể thấy chiến tranh là một mối đe dọa đối với sinh mệnh và hạnh phúc con người, đẩy con người tới vực thẳm của sự khổ đau, tuyệt vọng. Ăng-đrô-mác đã mất đi những người thân yêu nhất của mình bởi chiến tranh. Chiến tranh cũng khiến cho Héc-to buộc phải gạt bỏ tình cảm gia đình để sẵn sàng ra trận, đối mặt với định mệnh. Chiến tranh không những chỉ là điều gây ám ảnh trong quá khứ, mà còn là một mối đe doạ trong tương lai. Tuy nhiên, chiến tranh cũng là tình huống bộc lộ hết phẩm chất can trường, quả cảm của con người.
Trả lời:
Lời đáp của Héc-to với Ăng-đrô-mác cho thấy sự giằng co giữa một bên là nỗi lo lắng khôn nguôi cho Ăng-đrô-mác, nỗi thống khổ của chàng khi hình dung ra kết cục bi thảm sẽ đến với vua cha, anh em, thần dân thành Tơ-roa; một bên là nỗi tủi hổ, đau đớn và tuyệt vọng khi nghĩ đến cảnh người vợ yêu dấu của chàng bị hạ nhục. Và đặc biệt, Héc-to dường như đã hiểu thấu nỗi đau khổ của Ăng-đrô-mác. Những tình cảm đó cho thấy tình yêu sâu sắc của chàng dành cho gia đình.
Tuy nhiên, ý thức về danh dự và bổn phận đã buộc Héc-to quyết định mở cổng thành, tuyên chiến với quân Hy Lạp. Quyết định này một mặt mâu thuẫn với tình cảm sâu sắc của chàng đối với gia đình, đẩy nhân vật sử thi vào tình huống lựa chọn đầy giằng co và kịch tính. Nhưng mặt khác, giữa hành động mở cổng thành và tình yêu của chàng dành cho gia đình, dưới góc nhìn của sử thi, lại không mâu thuẫn, mà tạo nên một trạng thái “hài hoà sử thi” trong hình mẫu người anh hùng. Người anh hùng trong sử thi Hy Lạp là người có tình cảm, có đời sống cá nhân, nhưng khi cần phải lựa chọn, họ sẽ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để thực hiện bổn phận. Điều này được thể hiện một cách thống nhất trong cách xây dựng các nhân vật sử thi trong I-li-át của Hô-me-rơ. A-khin (Achilles) phẫn nộ và mâu thuẫn với A-ga-men-nông (Agamemnong), nhưng khi có chiến tranh, khi những người bạn của mình hi sinh, chàng đã gạt bỏ nỗi hiềm khích cá nhân để ra chiến trận, lập chiến công. Chính sự “hài hoà sử thi” này tạo nên vẻ đẹp của các nhân vật sử thi.
Trả lời:
Chi tiết cậu bé khóc ré lên, từ chối cái ôm của cha, sợ hãi ánh đồng sáng loá và cái ngù bờm ngựa trên mũ trụ của cha hàm nghĩa chiến tranh vẫn là một nỗi ám ảnh ghê gớm đối với mỗi con người, dù là một đứa trẻ. Chi tiết Héc-to tháo mũ trụ sáng loáng của mình đặt xuống đất, ôm con trai bé bỏng cho thấy mặc dù người anh hùng sử thi sẵn sàng đối mặt với chiến tranh, xả thân nơi chiến trường để thực hiện bổn phận nhưng vẫn sẵn sàng rũ bỏ tước hiệu, chiến công để trở về làm một con người bình thường trong gia đình. Chi tiết này cũng thể hiện nguyên tắc “hài hoà sử thi” trong việc xây dựng hình tượng người anh hùng, đồng thời ngầm thể hiện một quan niệm nhân sinh của người Hy Lạp cổ đại: vừa chấp nhận chiến tranh như một điều tất yếu, nhưng đồng thời cũng vừa khao khát một cuộc sống hoà bình.
Trả lời:
Trong đoạn trích, có thể nhận ra vai trò của thần linh trong đời sống của người Hy Lạp. Con người khi đau khổ tuyệt vọng thì có thể tới đền thờ thần A-tê-na (Athena) để cầu xin nữ thần rủ lòng thương. Trên nấm mộ của nhà vua Ê-ê-xi-ông (Eetion) là những cây tiểu du do những nàng con gái của thần Dớt, những tiên nữ nanh-phơ (nymphe) chăm sóc. Héc-to vừa bế con trên tay, vừa khẩn cầu con trai của thần Crô-nốt (Cronos) và các vị thần khác. Những chi tiết này cho thấy tư duy huyền thoại của người Hy Lạp về thể giới, trong đó các thế lực thần linh có sức chi phối mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống con người, giữa thế giới người và thần không có sự ngăn cách, vì thế con người có thể dễ dàng giao tiếp với thần linh. Sự sống và cái chết, thành công hay thất bại, chiến tranh hay hoà bình của con người đều do sự can thiệp của thần linh. Nhưng khác với thần thoại mà trong đó nhân vật trung tâm là các vị thần, nhân vật trung tâm trong sử thi là con người, là người anh hùng của cộng đồng, có sức mạnh siêu phàm, sánh tựa thần linh, và đôi khi dám hành động chống lại số phận đã được sắp đặt sẵn bởi thần linh. Tư duy thần thoại và ý thức ca ngợi vẻ đẹp, sức mạnh của con người chính là hai phương diện vừa mâu thuẫn vừa thống nhất trong sử thi.
Trả lời:
Lời nói của Héc-to trong đoạn cuối của văn bản không chỉ thể hiện quan niệm của riêng chàng mà còn là quan niệm của người Hy Lạp cổ đại về định mệnh và chiến tranh. Người Hy Lạp cho rằng, định mệnh là tất yếu, không ai có thể trốn chạy và gây chiến tranh hay đương đầu với chiến tranh là bổn phận của người đàn ông. Thời nay, ở đâu đó trên thế giới, rất nhiều người còn tin vào định mệnh hoặc nhân danh bổn phận để tạo ra chiến tranh, nhưng nhân loại nói chung đều mong muốn một cuộc sống hoà bình và tìm mọi cách để có thể làm chủ vận mệnh của mình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những vấn đề đặt ra trong sử thi đã không còn giá trị.
Trả lời:
Tình huống chính được miêu tả trong đoạn trích là tình huống gặp gỡ giữa Héc-to và Ăng-đrô-mác trước khi chàng quyết định mở cổng thành, nghênh chiến với quân Hy Lạp. Đây là một tình huống giàu kịch tính, buộc nhân vật phải lựa chọn giữa tình cảm và bổn phận, bộc lộ toàn bộ phẩm chất của mình, đẩy cảm xúc của các nhân vật lên tới mức căng thẳng cực độ. Trong tình huống đó, các nhân vật đã lựa chọn gạt bỏ những tình cảm riêng tư để làm tròn bổn phận và bảo toàn danh dự của mình. Những lựa chọn đó thể hiện nhân sinh quan của người Hy Lạp thời cổ đại, là lựa chọn hữu lí vào thời điểm cộng đồng phải đối mặt với nguy cơ bị thôn tính. Tuy nhiên, vào thời đại ngày nay, người ta có thể có những lựa chọn khác. Chiến tranh không còn là một giải pháp tất yếu và duy nhất. Thay vì bảo vệ lợi ích của một quốc gia, một cộng đồng, dân tộc, người ta có thể nghĩ tới những lợi ích toàn cầu. Con người có thể lựa chọn chung sống trong hoà bình, có thể theo đuổi những đam mê, tình cảm cá nhân mà vẫn làm tròn bổn phận với tập thể. Nhưng điều đó không có nghĩa là những nhân vật sử thi thiếu đi sự hấp dẫn đối với con người của thời đại ngày nay.
Bài tập 2 trang 18, 19 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 105 - 110) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Khi nghe lời khuyên của Đăm Par Kvây về những khó khăn trên đường đi và cái chết tất yếu sẽ đến với chàng trong Rừng Đen, Đăm Săn vẫn không chịu lùi bước, quyết tâm đi bắt Nữ Thần Mặt Trời, khắc phục mọi khó khăn trên đường đi. Phản ứng này của Đăm Săn thể hiện sự dũng mãnh, lòng can đảm, quyết tâm mãnh liệt, ý chí tự do của chàng, qua đó, thể hiện quan niệm của người Ê-đê về người anh hùng của cộng đồng.
Trả lời:
Quyết tâm lên đường chinh phục Nữ Thần Mặt Trời của Đăm Săn xuất phát từ niềm khao khát mãnh liệt muốn khẳng định sức mạnh của một tù trưởng giàu có (“khắp tây đông, thử hỏi còn ai dám chống lại Đăm Săn này”), ý chí phi thường muốn chinh phục mọi thử thách (“Gặp cọp, tôi sẽ giết cọp. Gặp tê giác, tôi sẽ giết tê giác”), quyết tâm chống lại định mệnh và cái chết để khẳng định sự tự do của con người (“người dũng tướng chắc chết mười mươi vẫn không lùi bước há cũng không vào đó được sao!”). Đó cũng là ước mơ được vượt thoát ra khỏi sự hữu hạn, tìm kiếm cái siêu việt của người dân Ê- đê.
Trả lời:
Thứ nhất, hành động quyết định quay về nhà bất chấp cái chết đã được báo trước xuất phát từ ý thức về danh dự của nhân vật sử thi. Đăm Săn quyết tâm chinh phục Nữ Thần Mặt Trời cũng là vì danh dự. Khi bị Nữ Thần Mặt Trời từ chối, cuộc chinh phục thất bại, vì danh dự mà Đăm Săn trở về. Thứ hai, nhân vật sử thi Tây Nguyên rất coi trọng bản làng. Đăm Săn muốn đem Nữ Thần Mặt Trời xuống trần, về làm vợ. Khi nguyện ước không thành, chàng nhất quyết ra về. Người anh hùng Ê-đê dù có đi đâu cũng trở về với bản làng của mình. Đằng sau hành động của Đăm Săn là quan niệm của người Ê-đê về danh dự, về bản làng, về người anh hùng.
Trả lời:
Ngôi nhà của Nữ Thần Mặt Trời được miêu tả một cách rất chi tiết, tỉ mỉ, sống động, bằng thủ pháp so sánh, khoa trương, trùng điệp, làm toát lên vẻ giàu có, tráng lệ, kì vĩ (“Toà nhà dài dằng dặc, voi vây chặt sàn sân, chiêng xếp đầy nhà ngoài, cổng chất đầy nhà trong, tôi trai tớ gái như ong đi lấy nước, như vò vẽ đi chuyển hoa”,..). Đây là lối miêu tả chậm rãi, tỉ mỉ rất điển hình của sử thi Tây Nguyên, giúp người nghe, người đọc có cảm giác như sống trong thế giới của câu chuyện, bị cuốn vào không khí hào hùng của sử thi và hồi hộp dõi theo từng bước chân của nhân vật.
Trả lời:
Các thông tin cước chú giúp người đọc hiểu thêm về văn hoá, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, địa lí của người Ê-đê, nhờ đó hiểu sâu hơn về văn bản. Ví dụ, chú thích về Rừng Đen cho thấy vũ trụ quan của người Ê-đê. Chú thích về người anh giữ mặt trời, người em giữ mặt trăng cho thấy dấu ấn của huyền thoại trong sử thi Tây Nguyên. Có thể nói, không thể đọc hiểu các văn bản sử thi mà thiếu đi sự tham khảo kĩ lưỡng phần cước chú trong văn bản. Đây là một trong những kĩ thuật đọc rất quan trọng để có thể hiểu một cách thấu đáo các tác phẩm thuộc thể loại sử thi.
Trả lời:
Các không gian chính được miêu tả trong đoạn trích là: con đường, rừng, nhà, trời. Trong đó, nhà là không gian sinh hoạt, nơi diễn ra các lễ nghi, tập quán của con người. Rừng là không gian hoang dã đầy những hiểm nguy và cái chết luôn rình rập. Trời được miêu tả như một không gian vừa xa cách vừa tiếp giáp với con người. Trời tuy xa cách, tách biệt với người bằng những đường ranh giới, nhưng con người vẫn có thể tới được trời. Thế giới của người và thế giới của trời có thể tương thông với nhau. Thế nên, khi nghe Đăm Săn tuyên bố “người dũng tướng chắc chết mười mươi vẫn không lùi bước” “Ông Ðu ông Điê nghe được liền đét cho Đăm Săn một đét vào người”. Đường chính là một không gian giao nối giữa nhà và rừng, trời và người. Hành trình của nhân vật trên đường luôn là một hành trình nhiều chông gai, thử thách, nhưng là hành trình vượt thoát ra khỏi những đường biên giới an toàn, thân thuộc để khám phá những không gian hoang dã, bí ẩn, chinh phục các thế lực siêu nhiên, khẳng định sức mạnh và lòng dũng cảm, bản lĩnh và ý chí tự do của con người. Sử thi chính là một bảo tàng sống động không chỉ tái hiện toàn bộ đời sống vật chất mà còn cả cách tư duy, quan niệm, khát vọng tinh thần của người xưa.
Trả lời:
Thái độ của người kể chuyện được miêu tả một cách gián tiếp thông qua các lời kể, lời miêu tả về nhân vật, bằng thủ pháp khoa trương, phóng đại như đã phân tích ở trên, đồng thời cũng được thể hiện một cách trực tiếp qua các ngữ cố định, qua những lời bình luận trực tiếp. Thông qua các chi tiết này, có thể nhận thấy sự ngưỡng mộ, thành kính của người kể chuyện với nhân vật và câu chuyện được kể. Trong trích đoạn Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác, ta cũng dễ dàng nhận ra giọng điệu trang nghiêm, thành kính của người kể chuyện thông qua các ngữ cố định. Có sự tương đồng này là bởi sử thi là câu chuyện về quá khứ thiêng liêng, có một khoảng cách tuyệt đối với thế giới hiện tại. Người kể chuyện sử thi là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng những giá trị truyền thống và truyền thụ nó cho đời sau.
Bài tập 3 trang 19, 20, 21, 22 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Sử thi - niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên
Người Tây Nguyên vốn đã say mê đắm đuối với sử thi của mình. Sa-bát-ti-ê (Sabatier) trong bài giới thiệu sử thi Đăm Xăn đã thuật lại ý kiến của các già làng người Ê- đê như sau: “Tôi hỏi các già làng: Vậy khan là cái gì? Một người trả lời: “Khan ư? Không có cái gì đẹp hơn thế. Trong khi nhà có một người kể khan, lúc mặt trời lặn chúng ta thấy người trong nhà chăm chú bất động như thế nào thì chúng ta thấy họ bất động y nguyên như thế cho đến lúc mặt trời mọc (việc kể khan diễn ra qua đêm đến sáng - Phan Đăng Nhật). Khi trong nhà có người kể khan, đàn bà thôi kêu la, trẻ con ngừng khóc, không hề ai ngủ, không ai nói chuyện, tất cả mọi người đều lắng nghe”1.
Sa-bát-ti-ê kể tiếp, sau một thời gian dài tìm tòi, ông phát hiện ra một ông già mù biết khan, khan Đăm Xăn.
“Tôi không thể nói được sự xúc động của tôi khi nghe lần đầu bài ca đơn điệu và khá buồn đã gợi cho tôi một quá khứ, mà nó làm cho tôi nghi ngờ. Ôi một sự phát
hiện! Đó là một bằng chứng không chối cãi được rằng những bộ lạc Đắk Lắk đã có
một cuộc sống khác với người “Mọi” khốn khổ hôm nay.
Tôi gặp lại ở hiên toà sứ, ông già mù khoác một tấm chăn sờn rách thảm hại run lập cập dưới sự cắn rứt của gió bấc tháng Hai; và tôi thấy ông già ngồi trên sàn, một chân co, cùi tay đặt trên đầu gối, bàn tay đỡ trán, đôi mắt đã tắt những tia sáng của hiện tại, nhưng mở rộng về quá khứ, mà trí nhớ của ông đã được làm sống lại và đôi môi mấp máy. Tôi cũng gặp Ma Bli, Ma Bôk và ông già Ma Ngay. Họ đều sững sờ trong thái độ ngạc nhiên. Ông tù trưởng già (Ma Ngay) ngập chìm trong mơ, đôi mắt ông còn nhoà đi vì cuộc viễn du trong quá khứ mà người ca sĩ đã khéo gợi lên, bộ mặt của ông hằn sâu những vết nhăn nheo chứng tỏ sự cô đơn tuyệt vọng của ông trong hiện tại khốn khổ. Sự thức tỉnh của ông già Kaa đã làm sống lại nhiều thế kỉ trong một giấc mơ quá ngắn ngủi”.2
Trên đây là sự miêu tả sức cuốn hút, sự say mê lòng người của sử thi qua việc tìm hiểu của một người nước ngoài. Còn tiếp theo là ý kiến của người Ê-đê, ông Y Wang, một trí thức Ê- đê:
“Người Ê-đê trước đây không có chữ viết, không có sách truyện, sách thơ, kịch, nên kể khan là lối văn nghệ người ta thích lắm. Mỗi lần có người kể khan thì trẻ già trai gái không sót một ai không đến nghe. Kể suốt đêm cho đến sáng người ta cũng nghe. Nghe hết rồi nhiều khi còn nhờ kể lại.
Khan Đăm Săn được người ta rất ưa thích. Người ta phục Đăm Săn có tài đánh tù trưởng nào cũng thắng. Người ta thích đi theo Đăm Săn lên nói chuyện với Mặt Trời, đi chơi cùng rừng núi, đi bắt Nữ Thần Mặt Trời làm vợ lẽ. Người ta ước mơ sống một cuộc đời thật giàu sang như trong truyện, khách khứa đầy nhà, ăn uống linh đình, đánh nhạc inh rừng núi suốt ngày đêm.
Cả truyện Đăm Săn toả ra một cuộc sống gần với đời thật, nhưng phong phú hơn, phóng khoáng hơn, cao xa hơn. Đó là điểm chính làm cho người ta thích nghe truyện Đăm Săn, nghe mãi không thôi, nghe kể liền ba bốn lần cũng không chán3.
Sở đĩ có sự say mê kì lạ đó, còn một lẽ nữa là, người kể và người nghe khan đều tin rằng, trong khi kể khan các nhân vật đã hiện về sống với họ và họ được chung sống với những nhân vật anh hùng trong những phút giây thiêng liêng.
Khi nghiên cứu sử thi Hơmon của người Ba-na, Tô Ngọc Thanh đã thu nhận được những hiện tượng tiêu biểu thuộc phạm vi quan niệm về sự huyền ảo có thực. Ông viết: “Người kể nằm trên sàn nhà, có thể là nhà rông. Bên cạnh ông ta chỉ có những thành viên già của hội đông công xã ngồi lặng im. Người ta không đốt lửa. Nhà rông chìm trong bóng tối dày đặc. Nhưng không thể khác được, bởi vì nhân dân ta tin rằng, những nhân vật của Hơmon có cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới của chúng. Chúng sẽ cảm thấy khi nào người kể bắt đầu kể, lập tức những nhân vật của Hơmon bay đến, đậu vào linh hồn người kể. Đó là điều kiện không thể thiếu để người kể có thể thể hiện những nhân vật với tất cả tính cách của chúng như chúng vẫn hằng có. Nếu nhà rông được chiếu sáng, các nhân vật sẽ bị hoảng sợ không thể bay về được và không hạ cánh xuống tâm hồn của người kể. Và vì thế, cuộc kể của Hơmon sẽ trở nên khô cứng, nhợt nhạt như “một cây gỗ chết đứng trơ trọi giữa những gốc cây chưa cháy hết của một cái rẫy”
Thành viên của công xã và những thành viên của công xã bên cạnh ngồi thành những nhóm nhỏ ở sân nhà rông dưới trời đêm đông đen đặc. Những nhóm người nghe có thể đốt một đống lửa nhỏ để sưởi và lấy lửa hút thuốc. Họ ngồi lặng lẽ như gỗ, tựa như đã câm. Giọng kể của người kể được nghe rõ bởi vì vách nhà rông đan bằng những nan tre. Theo sự quan sát của tôi, người nghe bị thu hút hoàn toàn bởi diễn biến của câu chuyện. Sau khi Hơmon kết thúc, tôi hỏi người bên cạnh:
- Bác nghĩ gì trong thời gian nghe kể?
- Tôi chẳng nghĩ gì cả, tại sao ông lại hỏi thế? Chẳng nhẽ không phải là tôi đã
cùng với các nhân vật trong suốt thời gian kể hay sao?
Rất có thể sự việc là như vậy. Với niềm tin vào tính chất có thật của câu chuyện được kể với một thái độ “tự kỉ ám thị” hết mình thường được quan sát thấy ở những con người kiểu này thì việc con người toàn tâm toàn ý bị thu hút vào diễn biến của sự kiện là đúng đắn. Theo tôi, phương thức cảm xúc có bóng đêm đen, ánh lửa yếu ớt lại chính là những điều kiện cho cánh tay của trí tưởng tượng của người nghe”4.
Các nhân vật sử thi còn tiếp tục trở lại với người nghe trong giấc mơ. “Theo các cụ già cho biết, khi về ngủ sau khi nghe sử thị, rất nhiều người nằm mơ thấy các nhân vật trong truyện hiện về. Họ cho đó là điềm lành và việc họ được tiếp xúc với các nhân vật là điều có thật. Thực cũng không có gì là lạ, nếu chúng ta nhớ rằng, đối với đồng bào, cộng đồng Polei (làng ở vùng Ba-na) bao gồm cả phần hiện thực, siêu thực. Trong phần siêu thực ấy có cả các nhân vật huyền thoại của sử thi. Quan niệm này dẫn đến một quy định đối với việc hát - kể sử thi như sau: Đã bắt đầu hát - kể một sử thi nào đó thì phải hát - kể cho đến hết. Dù phải ngắt ra làm nhiều đêm nhưng không được phép bỏ dở. Làm như vậy các nhân vật trong truyện sẽ quở trách, vì không nói hết được số phận của họ. Vả chăng như trên đã nói, người nghe không chỉ đến để nghe theo ý nghĩa là thưởng thức, mà là để “sống” với câu chuyện”5,
Không phải chỉ có ngày xưa, mà gần đây, tình yêu quý say mê sử thi vẫn còn sâu nặng trong các tộc người. Ka Sô Liễng ghi lại thực tế gần đây như sau: “Đêm hôm đó, nhà bên có đám cúng tất to, có đánh cồng đánh chiêng nhảy múa, nhưng khi ông Kpa Y Méo cất tiếng hát sử thi Chi Lơ Kôk thì hình như có nam châm đã thu hút mọi người vây quanh, lớp trong, lớp ngoài xung quanh ông. Nhân dân xã Krông Pa yêu quý Kpa Y Méo như thế nào thì nhân dân xã Phú Mỡ, Xuân Lãnh, Suối Cối yêu quý ông Ma Phửi cũng như vậy”. Tôi đã từng chứng kiến những đêm bà con dân tộc Chăm ở làng Hội, xã Phú Mỡ ngồi nghe ông Ma Phửi hát sử thi Xing Chi Ôn suốt đêm. Họ ngồi, nằm chật nhà ông Ma Phửi chăm chú nghe ông hát - kể trường ca Xing Chỉ Ôn. Họ chăm chú lắng nghe và nuốt từng câu, từng chữ. Họ cứ ngồi nghe như vậy cả đêm, sáng mai vẫn đi làm rẫy, làm nương bình thường, họ mang theo những nhân vật trường ca trong đầu và mong cho tối để tiếp tục được nghe hát sử thi6”
(Phan Đăng Nhật, Sử thi Tây Nguyên trong xã hội đương đại,
tạp chí Di sản văn hoá phi vật thể, số 4/2008)
1 Sa-bát-ti-ê dịch và giới thiệu (1928), Bài ca chàng Đăm Xăn, Pa-ri, tr. 143. (Ðăm Xăn - ở đây giữ nguyên hình thức chính tả của văn bản nguồn).
2Sa-bát-ti-ê dịch và giới thiệu (1928), Bài ca chàng Đăm Xăn, Sđd, tr. 144.
3Đào Tử Chí sưu tầm và dịch (1959), Bài ca chàng Đăm Xăn, NXB Văn hoá, Hà Nội, tr. 3.
4Tô Ngọc Thanh, Những nguyên tắc cơ bản của âm nhạc dân gian Việt Nam, luận án tiến sĩ, Xô-phi-a (Sophia), tr. 215.
5Tô Ngọc Thanh (1988), Fônclo Bâhnar, Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai - Kon Tum xuất bản.
6 Ka Sô Liễng (1993), Vài nét về trường ca Xing Chi Ôn, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr. 4 và tr. 6.
Trả lời:
Văn bản có 6 cước chú. Các cước chú đó đều là chú thích về nguồn gốc các trích dẫn được sử dụng trong văn bản.
Trả lời:
Trước khi trích dẫn trực tiếp, tác giả thường giới thiệu sơ lược về tác giả, nội dung chính và nguồn trích dẫn. Phần dẫn dắt này giúp người đọc có thể dễ dàng nắm bắt được những thông tin chính sẽ được trình bày trong phần trích dẫn phía sau.
Trả lời:
Các thông tin trong phần cước chú được trình bày theo trật tự: tên tác giả (năm xuất bản), tên tài liệu, xuất xứ tài liệu. Trong đó, tên tài liệu được in nghiêng.
Trả lời:
Tác giả sử dụng các trích dẫn từ nhiều nguồn khác nhau: từ lời giới thiệu trong cuốn Bài ca chàng Đăm Xăn của một công sứ người Pháp, từ một trí thức người Ê-đê, từ một nhà nghiên cứu văn học dân gian người Kinh, từ một nhà nghiên cứu văn học dân gian người Ê-đê. Những trích dẫn đa dạng về nguồn gốc này tạo nên cái nhìn đa chiều về khan Ê-đê, cho thấy sức sống và vẻ đẹp của khan Ê-đê không chỉ thể hiện trong quá khứ mà trong cả đời sống hiện tại.
Để đánh giá các trích dẫn có khách quan và đáng tin cậy hay không, bạn cần xem xét các thông tin được trích dẫn trong nhiều bình diện: thông tin tác giả, nơi công bố, thời gian công bố văn bản, vị trí của phần trích dẫn trong văn bản gốc. Chẳng hạn:
Trích dẫn đầu tiên của Sa-bát-ti-ê có rất nhiều chi tiết đáng lưu ý, ví dụ: “Đó là một bằng chứng không chối cãi được rằng những bộ lạc Đắk Lắk đã có một cuộc sống khác với người “Mọi” khốn khổ hôm nay”, “Tôi gặp lại ở hiên toà sứ, ông già mù khoác một tấm chăn sờn rách thảm hại” Những chi tiết này thể hiện sự đánh giá khan Ê-đê từ điểm nhìn của một người Pháp, trong đó không tránh khỏi dụng ý khẳng định vị thế của người Pháp đối với các dân tộc bản địa. Mặc dù đã cố gắng hết sức để miêu tả một cách khách quan vẻ đẹp và sức sống của sử thi Ê-đê, nhưng người viết đã không tránh khỏi những thiên kiến nhất định.
Trả lời:
Qua văn bản, ta có thể biết thêm rất nhiều điều về hình thức diễn xướng của sử thi Tây Nguyên. Sử thi Tây Nguyên thường được diễn xướng trong nhà rông, trong đó những thành viên công xã ngồi thành nhóm quanh đống lửa, dưới trời đêm, trong ánh sáng yếu ớt, giữa không gian yên tĩnh của nhà rông. Cả người kể và người nghe đều chìm trong thế giới sử thi. Họ không chỉ nghe và kể mà sống cùng với câu chuyện. Nghe kể khan là một phần đời sống của người Tây Nguyên, là phần huyền thoại, là giấc mơ, phần siêu thực trong đời sống của họ, và vì thế, sử thi không phải chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà chính là một cuộc sống thứ hai của người Tây Nguyên.
Trả lời:
- Sử thi là niềm tự hào của nhân dân Tây Nguyên: là một phần đời sống của người Tây Nguyên, là phần huyền thoại, là giấc mơ, phần siêu thực trong đời sống của họ, và vì thế, sử thi không phải chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà chính là một cuộc sống thứ hai của người Tây Nguyên.
Bài tập 4 trang 22 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Ra-ma buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 121 - 123), đoạn từ “Gia-na-ki (Janaki) khiêm nhường” đến “đâu có chịu đựng được lâu” và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Ra-ma đã buộc tội Gia-na-ki bằng các lí lẽ: vì Gia-na-ki đã bị Ra-va-na (Ravana) bắt cóc, từng sống trong nhà kẻ khác, đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na. Lời buộc tội của Ra-ma xuất phát từ nỗi nghi ngờ, lòng ghen tuông sôi sục, từ ý thức về danh dự bị xúc phạm. Nhìn trên bề mặt, nó có thể mâu thuẫn với hành động xả thân giải cứu Gia-na-ki, nhưng thực chất, nỗi nghi ngờ và lòng ghen tuông hay hành động xả thân để cứu người vợ xinh đẹp đều xuất phát từ tình yêu của chàng. Ra-ma cứu Gia-na-ki cũng là vì danh dự, và buộc tội Gia-na-ki cũng vì danh dự, mặc dù trong thâm tâm chàng vô cùng đau khổ khi phải nói những lời cay nghiệt với Gia-na-ki. Lời buộc tội của Ra-ma vừa thể hiện xung đột dữ dội giữa tình yêu và danh dự, đồng thời lại thể hiện sự nhất quán trong phẩm chất của Ra-ma.
Trả lời:
Tác giả sử thi đã mô tả tâm trạng của Ra-ma thông qua các chi tiết: “Thấy người đẹp khuôn mặt bông sen với những cuộn tóc lượn sóng đứng trước mặt mình, lòng Ra-ma đau như dao cắt”. Những chi tiết này thể hiện nỗi thương xót, đau khổ, sự căng thẳng cực độ bên trong của Ra-ma. Đối lập với lời lẽ lạnh lùng, nghiệt ngã bề ngoài, những chi tiết miêu tả tâm trạng của Ra-ma cho thấy tình yêu thương đã bị kìm nén trong lòng chàng. Xung đột giữa tâm trạng và lời nói, hành động của Ra-ma chính là xung đột giữa tình yêu và danh dự, giữa tình cảm cá nhân và ý thức cộng đồng trong các nhân vật sử thi.
Trả lời:
Tình huống được miêu tả trong phần đầu của văn bản là tình huống gặp gỡ giữa Ra-ma và Gia-na-ki sau nhiều năm tháng xa cách, sau khi Ra-ma đã cứu được người vợ xinh đẹp của mình khỏi bàn tay của quỷ vương Ra-va-na. Đây là một tình huống giàu kịch tính, dồn nén nhiều cảm xúc, đồng thời đặt nhân vật vào một thử thách cam go, buộc phải lựa chọn giữa một bên là tình yêu và danh dự. Trong tình huống gặp gỡ này, Ra-ma đã nén tình yêu của chàng để bảo vệ danh dự. Gia-na-ki đau khổ khi bị Ra-ma ruồng bỏ và danh dự bị xúc phạm. Cách hành xử, lựa chọn của các nhân vật trong tình huống này giúp bộc lộ rõ phẩm chất thuỷ chung và coi trọng danh dự của cả hai nhân vật.
Bài tập 5 trang 22 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Ra-ma (Rama) buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr.123 - 124), đoạn từ “Nghe những lời giận dữ đó của Ra-ma” đến “xem ra hoàn toàn vô ích!” và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Tác giả sử thi đã miêu tả tâm trạng của Gia-na-ki thông qua các chi tiết: Gia-na-ki “mở tròn đôi mắt đẫm lệ; “nghe những lời giận dữ đó của Ra-ma, Gia-na-ki đau đớn đến nghẹt thở, như một cây dây leo bị vòi voi quật nát” “Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ ra như suối” Những chi tiết này cho thấy tâm trạng đau khổ tột cùng của Gia-na-ki trước những lời buộc tội tàn nhẫn của Ra-ma. Tác giả đã miêu tả rất tinh tế và tài tình tâm lí của nhân vật thông qua hành động, diện mạo, các biện pháp tu từ so sánh, phóng đại.
Trả lời:
Trước những lời buộc tội nghiệt ngã của Ra-ma, Gia-na-ki đã sử dụng những lí lẽ sắc bén để chứng minh cho phẩm tiết trong sạch của mình. Thứ nhất, nàng dùng đến danh dự của mình để thuyết phục Ra-ma. Thứ hai, nàng khẳng định sự trong sạch, thuỷ chung của mình. Thứ ba, nàng chỉ ra sự mù quáng trong những lời buộc tội của Ra-ma. Thứ tư, nàng nhắc đến xuất thân của mình nhằm chứng minh cho bản chất trong sạch của mình. Mặc dù đang đứng trước một tình huống cam go, tâm trạng vô cùng tuyệt vọng và đau khổ, nhưng lí lẽ của nàng vẫn hết sức sắc bén, thể hiện sự thông minh, quyết đoán, tình yêu thuỷ chung của nàng dành cho Ra-ma và ý thức cao độ của nàng về danh dự và phẩm hạnh. Có thể thấy ở nhân vật Gia-na-ki sự giằng co giữa một bên là tình yêu với Ra-ma và một bên là danh dự của nàng.
Bài tập 6 trang 22, 23 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Ra-ma buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 124), đoạn từ “Nói dứt lời, Gia-na-ki oà khóc” đến “vang trời trước cảnh tượng đó” và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Hành động dũng cảm bước vào giàn hoả thiêu của Gia-na-ki thể hiện nỗi khổ đau tuyệt vọng của nàng, đồng thời bộc lộ sự quyết đoán, can trường, coi trọng danh dự, khẳng định sự trong sạch và tình yêu chung thuỷ của nàng dành cho Ra-ma. Xét từ khía cạnh văn hoá, hành động Gia-na-ki nộp mình cho lửa phản ánh nghi thức hiến sinh, vốn là một truyền thống văn hoá của người Ấn Độ cổ xưa. Hiến sinh nghĩa là hi sinh sự sống của một cá thể để bảo toàn cho sự sống bất diệt của toàn thể. Hành động hiến sinh của Gia-na-ki thể hiện niềm tin của người Ấn Độ về sự bất diệt, thiêng liêng của phẩm hạnh con người. Mặt khác, lửa thiêng trong giàn hoả táng trong tín ngưỡng của người Ấn Độ là biểu tượng của sự thanh tẩy. Bước vào giàn hoả thiêu là biểu tượng của sự giải thoát, hoá giải, gột rửa mọi oan ức, sự huỷ bỏ thân xác phàm tục bề ngoài để linh hồn trở nên bất tử.
Trả lời:
Tâm trạng của Ra-ma được miêu tả qua các chi tiết: “lúc đó nom chàng khủng khiếp như thần Chết vậy” “Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất” Ở đây, tác giả đã đặc tả sự im lặng chết chóc, khoảnh khắc dồn nén và xung đột cao độ giữa lòng yêu thương và sự hoài nghi, ghen tuông; giữa tình yêu riêng tư và ý thức về danh dự trước cộng đồng của Ra-ma. Sự “im lặng chết chóc” đó thậm chí còn có sức nặng hơn cả những lời buộc tội của Ra-ma, đẩy Gia-na-ki vào thử thách vô cùng căng thẳng, tạo nên kịch tính đỉnh điểm cho câu chuyện.
Trả lời:
Trong văn hoá, tín ngưỡng của người Ấn Độ, thần Lửa A-nhi có một vai trò rất quan trọng, chỉ đứng sau thần Sấm Sét, là vị thần cai quản hạ giới, cầu nối giữa con người và thần linh. Thần Lửa cũng được coi là vị thần có mặt ở khắp mọi nơi, biết được mọi việc, chứng giám cho đạo đức của con người. Vì thế, khi cần chứng minh cho sự trong sạch của mình, Gia-na-ki đã cầu xin thần Lửa.
Trả lời:
Những chi tiết này miêu tả cảnh tượng đám đông xúc động khi chứng kiến hành động dũng cảm và bi hùng của Gia-na-ki. Nhân vật đám đông - người chứng kiến thường xuất hiện trong sử thi, đại diện cho sự đánh giá của cộng đồng đối với các nhân vật, sự kiện trong sử thi.
Trả lời:
- Người kể chuyện trong văn bản là người đại diện cho cộng đồng, kể chuyện bằng một giọng điệu ngợi ca, ngưỡng mộ. Giọng điệu này được thể hiện qua cách miêu tả nhân vật bằng những ngữ cố định (ví dụ: “người đẹp khuôn mặt bông sen”, “trang tuyệt thế giai nhân”); qua thái độ thương xót, ngưỡng mộ của đám đông chứng kiến.
- Người kể chuyện nhân danh cộng đồng để thể hiện lòng ngưỡng mộ, thành kính đối với nhân vật sử thi cũng là một yếu tố nghệ thuật rất đặc trưng của thể loại sử thi, xuất hiện cả trong văn bản Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác và Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời. Tuy nhiên, có thể thấy, nếu như người kể chuyện trong đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời thường kể từ điểm nhìn bên ngoài, thì ở đoạn trích Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác, người kể chuyện còn miêu tả rất tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật từ điểm nhìn bên trong.
Trả lời:
Lời đối thoại của các nhân vật trong văn bản không những thể hiện được lí lẽ rất sắc bén của nhân vật, mà còn bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, tác động trực tiếp tới cảm xúc của người đọc. Lời miêu tả tuy cô đọng nhưng lột tả được một cách chính xác, tinh tế diễn biến nội tâm bên trong nhân vật. Lời kể tuy đơn giản, ngắn gọn nhưng khắc hoa rất tài tình các hành động dữ dội, quyết liệt của nhân vật. Chính lời kể, lời tả, lời đối thoại đã tạo nên sức lôi cuốn của câu chuyện.
Trả lời:
Sử thi Ra-ma-ya-na (Ramayang) có ảnh hưởng rộng lớn, vượt khỏi biên giới của đất nước Ấn Độ. Các đền thờ khắp nước Ấn Độ đều có hình ảnh thần khi Ha-nu-man (Hanuman). Câu chuyện về Ra-ma-ya-na được lưu truyền khắp các quốc gia Đông Nam Á và đồng thời để lại dấu ấn trong văn học, nghệ thuật và văn hoá của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trong các đền thờ ở Cam-pu-chia (Campuchia), Thái Lan, In-đô-nê-xi-a (Indonesia), Việt Nam, có rất nhiều bức phù điêu liên quan đến những nhân vật, sự kiện chính trong sử thi Ra-ma-ya-na. Các tác phẩm Riêm-kê của Cam-pu-chia, Ra-ma-ki-en (Ramakien) của Thái Lan, Dạ Thoa vương của Việt Nam đều được coi là chịu ảnh hưởng của Ra-ma-ya-na. Sở dĩ Ra-ma-ya-na có ảnh hưởng lớn như vậy trong đời sống văn hoá của Ấn Độ cũng như các quốc gia khác là bởi Ấn Độ thời cổ đại là một trong những cái nôi văn hoá lớn của nhân loại, có sức lan toả tới nhiều quốc gia khác; sử thi Ra-ma-ya-na là một kho tàng tri thức đồ sộ, phản ánh toàn bộ đời sống tinh thần, từ tín ngưỡng đến phong tục, tập quán, lịch sử, triết học của Ấn Độ, đồng thời là sự kết tinh những giá trị nhân văn của con người. Sức hấp dẫn của các hình tượng, sự lôi cuốn của cách kể chuyện, vẻ đẹp của ngôn từ cũng là những yếu tố khiến cho tác phẩm giàu sức sống, hấp dẫn người đọc, người nghe mọi thời đại.
Trả lời:
Vấn đề quan trọng nhất được đặt ra trong đoạn trích Ra-ma buộc tội là vấn đề mối quan hệ giữa tình yêu và danh dự. Các nhân vật đều bị đẩy vào một tình huống cam go thử thách tình yêu và danh dự. Ra-ma đã nén tình cảm riêng tư của mình để bảo toàn danh dự. Gia-na-ki trước hoàn cảnh nhân phẩm và danh dự bị xúc phạm, đã lựa chọn cái chết để chứng minh sự chung thuỷ và trong sạch của mình. Và cuối cùng, hành động quyết liệt của Gia-na-ki đã hoá giải mối xung đột này. Những cách hành xử đó của nhân vật thể hiện quan niệm của người Ấn Độ cổ xưa: họ coi trọng tình yêu, nhưng đặc biệt đề cao danh dự, có thể hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình để thực hiện bổn phận với cộng đồng. Ngày nay, người ta có thể có những lựa chọn khác, không nhất thiết phải gạt bỏ hạnh phúc cá nhân để quy phục những chuẩn mực, nghĩa vụ với cộng đồng, tuy nhiên, phàm đã là con người, dù sống ở bất cứ thời đại nào, thì ý thức về danh dự, trách nhiệm có lẽ cũng là một phẩm giá quan trọng để làm người.
Viết trang 23, 24
Bài tập 1 trang 23 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đặt câu hỏi nghiên cứu cho một trong số các đề tài sau:
a. Hình thức kể khan của người Ê- đê.
b. Các địa danh trong sử thi “I-li-át” (lliad) của Hô-me-rơ (Homèros) trên bản đồ thế giới đương đại.
c. Rừng và làng trong sử thi “Ðăm Săn”.
d. Chiến tranh trong sử thi “I-li-át” của Hô-me-rơ.
Trả lời:
Để đặt câu hỏi cho một trong các đề tài nghiên cứu, có thể áp dụng một số kĩ thuật, ví dụ: 5W1H, kĩ thuật đặt câu hỏi Xô-cờ-rát (Socrates), kĩ thuật 6 chiếc mũ của tư duy. Chẳng hạn:
- Với đề tài Hình thức kể khan của người Ê- đê, có thể đặt các câu hỏi:
+ Khan nghĩa là gì?
+ Ai là người kể? Kể cho ai nghe? Người kể và người nghe có mối quan hệ như thế nào với nhau?
+ Người Ê- đê thường kể khan khi nào? Ở đâu? Như thế nào?
+ Kể khan có vai trò gì trong đời sống của người Ê-đê?
+ Kể khan của người Ê-đê có gì khác với các diễn xướng sử thi của các dân tộc khác?
- Với đề tài Các địa danh trong sử thi “I-li-át của Hô-me-rơ trên bản đồ thế giới đương đại, có thể đặt các câu hỏi, ví dụ:
+ Liệu những địa danh được nhắc tới trong sử thi I-li-át là có thực hay hư cấu?
+ Liệu có thể tìm thấy dấu vết của những địa danh này trên bản đồ thế giới không? Nếu có thì hiện nay chúng nằm ở những khu vực nào?
+ Bằng chứng nào cho thấy những địa danh đó thực sự tồn tại?
Bằng cách tương tự, bạn cũng có thể đặt câu hỏi cho những để tài còn lại.
STT |
Tên tác giả |
Tên tài liệu |
Nguồn tài liệu |
Thông tin chính |
Đánh giá |
1 |
|
|
|
|
|
2 |
|
|
|
|
|
Trả lời:
Để thực hiện được bảng tổng hợp, phân tích và đánh giá thông tin, cần thực hiện các bước:
- Tìm kiếm thông tin từ những nguồn đáng tin cậy (các tài liệu từ các báo, tạp chí, nhà xuất bản, kênh thông tin chính thức của các tổ chức có uy tín, những tác giả có am hiểu về lĩnh vực nghiên cứu).
- Đọc, ghi chú, ghi chép tóm tắt những thông tin chính trong từng tài liệu. Khi ghi chép, cần ghi rõ nguồn thông tin, bao gồm tên tác giả, năm công bố, tên tài liệu, xuất xứ tài liệu.
- Sắp xếp, phân loại các thông tin theo một trật tự (thời gian, không gian hoặc logic của vấn đề).
- So sánh, tổng hợp và đánh giá thông tin (tìm những điểm tương đồng, mâu thuẫn giữa các thông tin, đánh giá mức độ thuyết phục, tin cậy, khách quan của các thông tỉn).
- Chọn lọc, tổng hợp các thông tin và điền vào bảng theo mẫu như sau:
STT | Tên tác giả | Tên tài liệu | Nguồn tài liệu | Thông tin chính | Đánh giá |
1 |
Thương Huyền - Anh Tuấn |
Để văn hóa kể Khan còn mãi với Tây Nguyên |
Báo điện tử Đảng cộng sản: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/de-van-hoa-ke-khan-con-mai-voi-tay-nguyen-519664.html |
- Gặp nghệ nhân kể Khan Rơ Mah Kim kể về đặc điểm Kể Khan Tây Nguyên. - Chính sách bảo tồn kể than. |
Chân thực, ấn tượng. |
STT | Nội dung công việc | Thời hạn | Người thực hiện | Dự kiến sản phẩm | Đánh giá kết quả |
1 |
|
|
|
|
|
2 |
|
|
|
|
|
Trả lời:
Khi lập kế hoạch nghiên cứu, cần xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, phân bổ thời gian cho phù hợp, giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực, sở thích của bạn.
Trả lời:
Để lập đề cương cho một đề tài nghiên cứu, cần tham khảo các hướng dẫn trong SGK. Dưới đây là một đề cương gợi ý cho đề tài Chiến tranh trong sử thi “I-li-át” của Hô-me-rơ:
TÊN ĐỀ TÀI: CHIẾN TRANH TRONG SỬ THỊ I-LI-ÁT CỦA HÔ-ME-RƠ
Đặt vấn đề:
Chiến tranh là một đề tài xuyên suốt trong sử thi I-li-át của Hô-me-rơ. Vậy chiến tranh được miêu tả như thế nào, có ý nghĩa gì, có ảnh hưởng như thế nào tới đời sống của con người? Các cuộc chiến tranh đó có mối liên hệ gì với sự thật lịch sử? Đó là những câu hỏi chính cần được giải quyết trong đề tài.
Giải quyết vấn đề:
1. Những cuộc chiến tranh trong sứ thi I-li-át: nguồn gốc và diễn biến
2. Nghệ thuật mô tả chiến tranh trong sử thi của Hô-me-rơ
2.1. Miêu tả toàn cảnh và miêu tả chi tiết những cuộc chiến tranh
2.2. Sử dụng biện pháp khoa trương và trùng điệp
3. Quan niệm của người Hy Lạp về chiến tranh
3.1. Chiến tranh như là định mệnh tất yếu
3.2. Chiến tranh - nguồn gốc của thảm hoa, tai ương
3.3. Chiến tranh - cơ hội giành vinh quang
4. Các cuộc chiến trong I-li-át của Hô-me-rơ: sự thật và hư cấu
4.1. Những chứng cứ lịch sử về cuộc chiến thành Tơ-roa
4.2. Những yếu tố huyền thoại và hư cấu về cuộc chiến thành Tơ-roa trong sử thi I-li-át.
Kết luận: Nêu tóm tắt những kết luận chính, những khám phá mới của đề tài. Gợi mở các vấn đề nghiên cứu mới.
Nói và Nghe trang 24
TÊN ĐỂ TÀI Người thực hiện: Thời gian thực hiện: |
|
Lí do lựa chọn đề tài |
|
Những câu hỏi chính về đề tài |
|
Tài liệu tham khảo |
|
Kết quả nghiên cứ dự kiến |
|
Trả lời:
Sau một quá trình tìm hiểu, thảo luận, bạn có thể ghi chép lại ngắn gọn các thông tin chính về đề tài để chuẩn bị cho bài thuyết trình, tốt nhất dưới dạng các từ khoá. Mỗi mục chỉ nên thu gọn lại trong 3 - 5 ý để khi nói có thể tập trung sâu hơn vào mỗi ý và người nghe cũng dễ dàng nắm bắt các thông tin chính. HS có thể tham khảo bảng ví dụ:
TÊN ĐỀ TÀI: CHIẾN TRANH TRONG SỬ THỊ I-LI-ÁT CỦA HÔ-ME-RƠ Người thực hiện: Thời gian thực hiện: |
|
Lí do lựa chọn đề tài |
- Chiến tranh là một đề tài xuyên suốt trong tác phẩm. - Nghệ thuật miêu tả chiến tranh của Hô-me-rơ đã đạt tới mức điêu luyện, tài tình. - Thông qua việc tìm hiểu về đề tài chiến tranh trong tác phẩm, ta có thể hiểu hơn về bối cảnh của sử thi, về văn hoá của người Hy Lạp cổ đại. |
Những câu hỏi chính về đề tài |
- Chiến tranh được miêu tả như thế nào trong tác phẩm? - Nghệ thuật miêu tả chiến tranh của Hô-me-rơ có gì đặc biệt? - Các cuộc chiến được miêu tả trong tác phẩm có liên quan gì đến các sự thật lịch sử? - Quan niệm của người Hy Lạp cổ đại về chiến tranh là gì? |
Tài liệu tham khảo |
- I-li-át (Hô-me-rơ) - Thành Tơ-roa có thực sự tồn tại? (Ây-náp Gia-mia Đem-bin -Einav Zamir Dembin) - Huyền thoại chiến tranh và những tiếng vọng của nó (Trần Thị Thuận) |
Trả lời:
Khi thuyết trình, nên bám sát các bước hướng dẫn trong SGK, ngoài ra, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau:
- Để thuyết phục người nghe, cần cung cấp thông tin chi tiết và bằng chứng khách quan, đáng tin cậy để làm rõ các luận điểm.
- Ngoài các phương tiện ngôn ngữ, người thuyết trình có thể sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ như sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh, số liệu,... để trực quan hoá thông tin, giúp người nghe dễ nắm bắt nội dung bài thuyết trình.
Xem thêm các bài giải SBT Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Bài 3: Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận
Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian
Bài 6: Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này
Bài 7: Quyền năng của người kể chuyện