Sách bài tập Ngữ Văn 10 Bài 3: Giao cảm với thiên nhiên | Chân trời sáng tạo

4.2 K

Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 3: Giao cảm với thiên nhiên sách Chân trời sáng tạo hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10. Mời các bạn đón xem:

Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 3: Giao cảm với thiên nhiên

I. Đọc (trang 39, 40, 41 SBT Ngữ Văn lớp 10)

Câu 1 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Phân tích diễn biến tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài thơ Hương Sơn phong cảnh

Trả lời:

Diễn biến tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình qua từng phần của bài thơ

Vị trí

Cảm xúc của chủ thể trữ tình

Khổ đầu: câu 1 đến câu 4

Cảm xúc trước vẻ đẹp như nơi cõi phật của toàn cảnh Hương Sơn

Khổ giữa: câu 5 đến câu 16

Say mê, đắm chìm trước vẻ đẹp thanh khiết, trong ngần của thiên nhiên, cũng như sự hòa quyện giữa thiên nhiên và những công trình kiến trúc tài hoa, khéo léo của con người

Khổ xếp: câu 17 đến hết

Cảm xúc tự thốt lên thành lời: “Càng trông phong cảnh càng yêu!”

 

Câu 2 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Nhận xét về vai trò của vần và nhịp trong bài thơ Hương Sơn phong cảnh

Trả lời:

- Vai trò của vần: Tạo nên sự liên kết về mặt âm thanh theo chiều dọc cho bài thơ, vần chân: nay (câu 2), mây mây (câu 3), phải (câu 4), trái (câu 5), kinh (câu 6), kình (câu 7) …; vần lưng: mây mây (câu 3), đây (câu 4), kình (câu 4), mình (câu 8).

- Vai trò của nhịp: Cách ngắt nhịp trong bài thơ theo thể hát nói khá đa dạng. Sự đan xen câu dài, ngắn; cách ngắt nhịp trong mỗi câu thơ, lúc nhanh, lúc chậm, lúc khoan thai, khi gấp gáp như bước chân du khách thưởng lãm phong cảnh núi rừng tươi đẹp, trữ tình, thoát tục, phù hợp với niềm bay bổng của tâm hồn du khách lúc như tỉnh, lại có lúc như mơ.

 

Câu 3 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1:Trước những sắc thái và thời khắc khác nhau của bức tranh thiên nhiên chiều thu, duyên tình giữa “anh” và “em” có sự thay đổi như thế nào qua các khổ thư trong bàiThơ duyên? Có thể trả lời dựa vào bảng sau (làm vào vở)

Khổ thơ

Sắc thái thiên nhiên

Duyên tình giữa “anh” và “em”

Khổ …

 

 

Khổ …

 

 

 

 

Trả lời:

Khổ thơ

Sắc thái thiên nhiên

Duyên tình giữa “anh” và “em”

1

Cảnh sắc tươi vui, trong sáng, hữu tình; huyền diệu.

Cảnh sắc khơi gợi duyên tình

2,3

Con đường mời gọi những bước chân tình tứ giữa hai người

Bề ngoài: “điềm nhiên”, “lững đững”, … nhưng bên trong: “…lòng ta” đã “nghe ý bạn”, đã “lần đầu rung động nỗi thương yêu” và anh với em đã gắn bó như “một cặp vần”.

4

Chiều thu sương lạnh xuống dần, chòm mây cô đơn, cánh chim cô độc …, đều tìm về nơi chốn của mình.

Bước chuyển sự sống, không gian cuối buổi chiều, trước hoàng hôn mở ra bước chuyển của tâm trạng, cảm xúc.

Tâm hồn cả anh lẫn em rung động hòa nhịp với mây biếc/ cò trắng/ cánh chim/ hoa sương/ …

5

Không gian chan hòa sắc thu, tình thu.

Mùa thu đến rất nhẹ, “thu lặng”, “thu êm” khiến anh và em ngơ ngẩn.

Trông cảnh chiều thu mà lòng “ngơ ngẩn”, khiến: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.

Sự xui khiến đầy ma lực: không thể cưỡng lại được.

 

Câu 4 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét đọc đáo ấy)

Trả lời:

Xuân Diệu cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu trong Thơ duyên rất độc đáo và gợi cảm. Ví dụ ở câu kết cuối bài “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”, tác giả không dùng từ “phải lòng” hay “anh cưới em” mà là “lòng anh cưới em”. Chúng ta vẫn thường nghĩ đến mùa thu là một mùa tuy lãng mạn nhưng cũng buồn bã, cô đơn. Đó là tâm trạng phổ biến trong mỗi bài thơ về mùa thu của các tác giả, như trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, khi đọc Thơ duyên ta lại thấy sự yêu đời, tươi trẻ trong những “duyên tình” qua sự gắn bó, tươi mới của cảnh vật thiên nhiên khi vào thu.

 

B. Bài tập mở rộng Ngữ Văn lớp 10 Tập 1

Bài tập trang 40 Tập 1 Chân trời sáng tạo: Đọc văn bản Bầu trời đã trở về và thực hiện các câu hỏi và bài tập nêu phía dưới:

Bầu trời đã trở về

Xuân Quỳnh 

Bầu trời/ đã trở về

Cao và xanh/ biết mấy

Mái nhà/ như sóng dậy

Con đường/ như dòng sông

Mặt đất/ nắng mênh mông

Những bài ca/ không dứt

 

Mỗi sáng dậy/ tôi chào mặt đất

Chào cỏ hoa/ vươn tới bầu trời

Chào ngôi nhà/ mới xây

Chào những con người

Đi nườm nượp/ dưới trời xanh vô tận

 

Mỗi sáng dậy/ tôi chào mặt đất

Những đàn ong/ kiếm mật buổi ban mai

Cỏ bên sông/, và bãi sa bồi

Phù sa ướt/ còn nồng mùi cá

Cành đước mặn/, cây ngô trong kẽ đá

Những con đường/ khuất sau lá rừng xưa …

 

Bầu trời xanh/ hơn cả lúc nằm mơ

Và hạnh phúc/ trong bàn tay có thật:

Chiếc áo mắc/ trên tường

Màu hoa sau/ cửa kính

Nồi cơm reo/ trên ngọn lửa bếp đèn

Anh trở vể,/ trời xanh của riêng em.

(In trong Gió lào cát trắng, Tự hát, Hoa cỏ may

NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2014)

 

Câu 5 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1:Khái quát nội dung chính của văn bản trên

Trả lời:

Bài thơ nói về những niềm vui giản dị của cuộc sống để ta thêm quý mến và trân trọng cuộc sống này nhiều hơn.

 

Câu 6 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Thơ trữ tình có mấy dạng chủ thể trữ tình? Trong văn bản này, chủ thể trữ tình thuộc dạng nào?

Trả lời:

- Thơ trữ tình có hai dạng chủ thể trữ tình

+ Chủ thể trữ tình thường xuất hiện trực tiếp với các đại từ nhân xưng: “tôi”, “ta”, “chúng ta”, “anh”,…

+ Chủ thể trữ tình nhập vai “chủ thể ẩn”

- Trong văn bản này, chủ thể trữ tình xuất hiện trực tiếp với đại từ nhân xưng “tôi”.

 

Câu 7 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Dùng dấu gạch xiên (/) để gạch nhịp của các dòng thơ. Bạn có nhận xét gì về nhịp của bài thơ?

Trả lời:

Bầu trời đã trở về

Xuân Quỳnh 

Bầu trời/ đã trở về

Cao và xanh/ biết mấy

Mái nhà/ như sóng dậy

Con đường/ như dòng sông

Mặt đất/ nắng mênh mông

Những bài ca/ không dứt

 

Mỗi sáng dậy/ tôi chào mặt đất

Chào cỏ hoa/ vươn tới bầu trời

Chào ngôi nhà/ mới xây

Chào những con người

Đi nườm nượp/ dưới trời xanh vô tận

 

Mỗi sáng dậy/ tôi chào mặt đất

Những đàn ong/ kiếm mật buổi ban mai

Cỏ bên sông/, và bãi sa bồi

Phù sa ướt/ còn nồng mùi cá

Cành đước mặn/, cây ngô trong kẽ đá

Những con đường/ khuất sau lá rừng xưa …

 

Bầu trời xanh/ hơn cả lúc nằm mơ

Và hạnh phúc/ trong bàn tay có thật:

Chiếc áo mắc/ trên tường

Màu hoa sau/ cửa kính

Nồi cơm reo/ trên ngọn lửa bếp đèn

Anh trở vể,/ trời xanh của riêng em.

(In trong Gió lào cát trắng, Tự hát, Hoa cỏ may

NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2014)

- Cách ngắt nhịp tạo cho bài thơ âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả cảm xúc yêu đời, yêu cuộc sống.

 

Câu 8 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, thơ tự do có quy định vị trí của vần không? Hãy quan sát cách gieo vần của văn bản trên và nhận xét về tác dụng của chúng

Trả lời:

- Theo em, thơ tự do không có quy định về vị trí của vần 

- Cách gieo vần của văn bản trên giúp cho bài thơ nhịp nhàng để lại ấn tượng sâu sắc tới người đọc.

 

Câu 9 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Phát biểu cảm nhận của bạn về ý nghĩa của việc lặp lại dòng thơ: “Mỗi sáng dậy tôi chào mặt đất”

Trả lời:

- Việc lặp lại dòng thơ “Mỗi sáng dậy tôi chào mặt đất” nhằm nhấn mạnh tâm trạng vui tươi hào hứng của chủ thể trữ tình với thiên nhiên, sự sống quanh mình.

 

Câu 10 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1:Hình ảnh trong bài thơ gần gũi, tươi mới và tràn đầy sức sống. Bạn có đồng tình với nhận xét này không? Đưa ra lí lẽ và minh chứng làm rõ vì sao đồng tình/ không đồng tình

Trả lời:

“Hình ảnh trong bài thơ gần gũi, tươi mới và tràn đầy sức sống”. Tôi đồng ý với ý kiến trên vì các hình ảnh được sử dụng trong bài thơ đều là những hình ảnh tươi mới, vui vẻ và tràn đầy nhựa sống.

 

Câu 11 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Hình ảnh “bầu trời” ở mỗi khổ thơ được miêu tả từ những góc nhìn khác nhau. Theo bạn, hình ảnh bầu trời – “trời xanh” ở khổ kết có phải là một ẩn dụ không?

Trả lời:

Theo em, hình ảnh “trời xanh” ở đây là ẩn dụ thể hiện cho niềm tin, hi vọng, khát vọng sống khi “người anh” trở về.

 

Câu 12 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Bạn tâm đắc với cách sử dụng từ ngữ trong dòng thơ/ khổ thơ nào nhất?

Trả lời:

- Tôi tâm đắc với cách sử dụng từ trong dòng thơ “Anh trở về, trời xanh của riêng em”. 

- Vì ở dòng thơ trên với việc sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ tác giả đã nhấn mạnh niềm tin, hi vọng, khát vọng sống khi “người anh” trở về.

II. Tiếng Việt (trang 41, 42 SBT Ngữ Văn lớp 10)

A. Bài tập trong SGK Ngữ Văn lớp 10 Tập 1

 

Câu 1 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Tìm và sửa lỗi dùng từ trong các trường hợp sau:

a. Thời cơ đã chín mùi nhưng họ lại không biết nắm bắt.

b. Nó không giấu giếm với ba mẹ chuyện gì.

c. Tôi rất thích bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu vì bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu rất hay

Trả lời:

- Câu a: Lỗi dùng từ không đúng với hình thức ngữ âm

Cách sửa: Thay từ “chín mùi” bằng “chín muồi”

- Câu b: Lỗi dùng từ không phù hợp với khẳ năng kết hợp. Từ “giấu giếm” không thể kết hợp với quan hệ từ “với:

Cách sửa: Bỏ từ “với:

- Câu c: Lỗi lặp từ

Cách sửa: Cần thay cụm từ bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu bằng cụm từ tương đương khác (bài thơ này, tác phẩm này)

 

Câu 2 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Đặt câu với các từ ngữ sau để thấy rõ sự khác biệt về ý nghĩa của chúng: làm bộ, làm dáng, làm cao

Trả lời:

- Anh ấy làm bộ như mình không biết chuyện gì.

- Chị Hoa rất thích làm dáng.

- Những người phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi thường rất hay làm cao

 

B. Bài tập mở rộng Ngữ Văn lớp 10 Tập 1

 

Câu 3 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Tìm và sửa lỗi dùng từ trong trường hợp sau đây:

a. Thiên nhiên đất nước ta tươi đẹp ghê gớm. (Bài văn miêu tả của học sinh)

b. Tôi rất quý bà chủ nhà trọ. Bà ta rất tốt bụng.

c. Để làm được các bài tập thực hành, chúng tôi phải đọc thật kĩ phần trí thức trong sách giáo khoa.

d. Anh ấy chẳng quan tâm những gì tôi nói.

Trả lời:

Câu a: Lỗi dùng từ không đúng với kểu văn bản. Từ “ghê gớm” vốn mang nghĩa xấu nhưng đã được chuyển nghĩa để chỉ mức độ cao, thường được dùng trong khẩu ngữ (Bộ phim này hay ghê gớm). Tuy nhiên, ngữ liệu đã cho thuộc bài văn miêu tả của học sinh nên việc dùng từ “ghê gớm” là không phù hợp.

Cách sửa: Thay từ “ghê gớm” bằng từ chỉ mức độ khác. Thiên nhiên đất nước ta vô cùng tươi đẹp.

- Câu b: Lỗi dùng từ không đúng nghĩa. “Bà ta” có sắc thái nghĩa xấu, không thích hợp để miêu tả “bà chủ nhà trọ” (tốt bụng) trong trường hợp này.

Cách sửa: Tôi rất quý bà chủ nhà trọ. Bà ấy rất tốt bụng.

- Câu c: Lỗi dùng từ không đúng nghĩa. “Tri thức” dùng để chỉ “người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”. Vì vậy, trong trường hợp này, chúng ta không thể dùng “trí thức” mà phải dùng “tri thức” (những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội).

Cách sửa: Để làm được các bài tập thực hành, chúng tôi phải đọc thật kĩ phần tri thức trong sách giáo khoa.

- Câu d: Lỗi dùng từ không phù hợp với khả năng kết hợp của từ. Từ “quan tâm” không thể kết hợp trực tiếp với “những gì tôi nói” mà cần có thêm một quan hệ từ “đến” hoặc “tới”.

Cách sửa: Anh ấy chẳng quan tâm đến những gì tôi nói.

 

Câu 4 trang 41 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1:Đặt câu với những từ ngữ sau để làm rõ sự khác biệt về ý nghĩa của chúng:

a. Bóng bẩy, bóng nhẫy, bóng loáng

b. Cứng cỏi, cứng cáp, cứng rắn

c. Văn học, văn hóa, văn chương

Trả lời:

a. Bóng bẩy, bóng nhẫy, bóng loáng

- Anh ta, ăn bận thật bóng bẩy 

- Dầu ăn bị đổ làm cho sàn nhà bóng nhẫy 

- Chiếc gương sáng bóng loáng 

b. Cứng cỏi, cứng cáp, cứng rắn

- Tính cách anh ấy thật cứng cỏi 

- Chiếc giường này rất cứng cáp.

- Trong hoàn cảnh nào, mẹ tôi cũng luôn cứng rắn. 

c. Văn học, văn hóa, văn chương

Văn học dân tộc Việt Nam luôn là điều đáng tự hào 

- Chúng ta luôn phải sống có văn hóa 

- Văn chương mở ra cho chúng ta những chân trời mới.

 

Câu 5 trang 42 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1:Chọn ít nhất mọt từ ngữ bạn cho là độc đáo trong bàiThơ duyên, sau đó phân tích cái hay, cái đẹp của cách dùng từ ngữ ấy

Trả lời:

- Lựa chọn phân tích cách dùng từ “cưới” trong câu thơ cuối bài.

Lòng anh thôi đã cưới lòng em

 -  Anh cưới em! Không phải, lòng anh cưới lòng em. Từ “cưới" mà Xuân Diệu dùng ở đây, độc đáo đến lạ lùng, mới mẻ đến vô lí. Ngẫm nghĩ ra ta lại thấy nhà thơ có lí, lòng anh cưới lòng em, đó là sự hòa hợp hai tấm lòng, hai tâm hồn đến độ trọn vẹn. tuyệt đối, sự hòa hợp trong mức dộ cao nhất của cảm nhận về hạnh phúc. Từ “thôi” trong câu thơ này cũng rất lạ. “Thôi' nghĩa là thế nào? Nghĩa là đành vậy, đành phải chấp nhận như vậy, không còn cách nào khác, không thể từ chối được, không thế lẩn tránh được. Như vậy, cái việc lòng anh cưới lòng em, cái việc lòng anh hòa hợp với lòng em là việc tự nhiên, như của trời đất, con người không thể tạo ra, con người không thế chối bỏ.

 

Câu 6 trang 42 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 150 chữ về chủ đề vẻ đẹp của thiên nhiên trong đó có sử dụng ít nhất ba từ ngữ mô tả thiên nhiên trong văn bản Hương Sơn phong cảnh

Trả lời:

Bài thơ nằm trong bộ tác phẩm viết về Hương Sơn, bao gồm Hương Sơn phong cảnh ca, Hương Sơn Nhật Trình và Hương Sơn hành trình. Điểm độc đáo của Hương Sơn phong cảnh ca là tác giả sử dụng thể thơ nói tự do, không bị bó hẹp trong khuôn khổ lục bát hay Đường luật thông thường. Với tinh thần sảng khoái và sự choáng ngợp trước cảnh thiên nhiên quá đỗi mộng mơ, tác giả thể hiện sự thích thú, đồng thời là sự tôn trọng thiên nhiên và tình yêu tổ quốc thiết tha, dạt dào. Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện cùng với tâm hồn lãng đãng, bồng bềnh, tác giả đã để lại một thi phẩm mang chiều sâu cả về khía cạnh miêu tả cũng như biểu cảm. Phong cảnh Hương Sơn hiện lên vừa kì vĩ, lý thú lại vừa gần gũi, yên bình, mang đến cho con người cảm giác khoáng đạt, thoát ly trần tục. Cảnh đẹp là thế, nhưng viết ra được, truyền tải được cảnh đẹp đến người đọc hay không, đó là cái tài hơn người của Chu Mạnh Trinh.

III. Viết (trang 42 SBT Ngữ Văn lớp 10)

Câu 1 trang 42 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Dùng Bảng kiểm kĩ năng viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ để đánh giá ngữ liệu tham khảo (SGK)

Trả lời:

Bạn đọc lại đoạn văn phân tích một số dòng thơ trong bài Thu điếu (Bài 3, SGK Ngữ văn 10, tập một) rồi kiểm tra lại xem bài viết đã đáp ứng các tiêu chí về kĩ năng phân tích thư như thế nào. Vì ngữ liệu tham khảo chỉ dùng đoạn thân bài, có thể kiểm tra kĩ năng thực hiện phần thân bài qua các tiêu chí sau:

Nội dung kiểm tra

Đạt

Chưa đạt

Thân bài

Xác định chủ đề của bài thơ

 

X

Phân tích, đánh giá chủ đề của bài thơ

 

X

Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ

X

 

Đánh giá tác dụng của những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật trong việc thể hiện chủ đề của bài thơ.

X

 

Thể hiện được những suy nghĩ, cảm nhận của người viết về bài thơ

X

 

Có lí lẽ thuyết phục và bằng chứng tin cậy lấy từ tác phẩm.

X

 

 

Câu 2 trang 42 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Đọc đề bài dưới đây:

Đề bài: Viết bài văn nghị luận phân tích một bài thơ theo những yêu cầu sau:

Phân tích bài thơ về vẻ đẹp thiên nhiên, niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên:

“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm

Đầy buồng lạ màu thâu đêm

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem.”

(Cây chuối – Nguyễn Trãi)

Bạn hãy:

a. Xác định đề tài, mục đích viết, người đọc mà bài viết hướng tới.

b. Tìm ý, lập dàn ý cho bài viết; khi lập dàn ý, chú ý tính lô-gic của các luận điểm, đảm bải tính chặt chẽ của văn bản.

c. Dựa vào dàn ý, viết đoạn mở bài và một số đoạn của thân bài.

d. Viết tiếp các đoạn thân bài, kết bài và hoàn tất bài viết.

đ. Đọc lại, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm (sử dụng Bảng kiểm kĩ năng viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ).

Trả lời:

a. 

- Đề tài: Nghị luận văn học 

- Mục đích viết: Phân tích bài thơ “Cây chuối” (Nguyễn Trãi) về vẻ đẹp thiên nhiên, niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên. 

- Người đọc: Tất cả mọi người

b. Tìm ý, lập dàn ý: 

- Mở bài: 

+ Giới thiệu bài thơ “Cây chuối” (Nguyễn Trãi) 

+ Nêu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp thiên nhiên, niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên trong 4 câu thơ đầu. 

- Thân bài: 

+ Cách lựa chọn loại cây dân dã, gần với cuộc sống bùn đất quê mùa: cây chuối. 

+ Mở đầu bài thơ, cảm nhận về một cây chuối biểu tượng. 

+ Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối. 

+ Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:

Câu kết bài thơ kết lại bằng 6 chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên tưởng nghệ thuật rất nghệ sĩ. 

- Kết bài: Khái quát lại vẻ đẹp thiên nhiên, niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên của tác giả thể hiện trong 4 câu thơ đầu bài thơ “Cây chuối” và cảm nghĩ của bản thân em. 

c. 

Đoạn mở bài: Bài thơ Cây chuối là một trong những bài thơ đặc sắc của tác giả Nguyễn Trãi. Nổi bật trong bài thơ đó là vẻ đẹp thiên nhiên và niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên: 

Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín
 Gió nơi đâu gượng mở xem.

Đoạn thân bài: Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi có lẽ cho người đọc cảm nhận về một cây chuối biểu tượng. Do có được sức xuân, tình xuân tiềm tàng từ bên trong nên khi gặp được “hơi xuân”, cây chuối càng thêm tươi tốt. Xuân Diệu trong khi bình bài thơ này đã lưu ý người đọc lý giải tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm” mà viết “tốt lại thêm”, ông cho rằng: “Lại tốt thêm" thì có bề dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu, chẳng qua theo đà, theo thời mà thêm tốt, bớt tốt, còn “tốt lại thêm” tức là vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Ngay từ lúc bén hơi thì tốt thêm. Đây thật là những lời bình tinh tế, sâu sắc. Khi nói đến mùa xuân Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến “hơi xuân”, sức xuân nét tiêu biểu, đặc thù của nó chứ không cốt ghi nhận ở phương diện thời gian.

d. Bài viết hoàn chỉnh: 

Bài thơ Cây chuối là một trong những bài thơ đặc sắc của tác giả Nguyễn Trãi. Nổi bật trong bài thơ đó là vẻ đẹp thiên nhiên và niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên:

Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín
 Gió nơi đâu gượng mở xem.

Trước hết điều lý thú đáng ghi nhận ở đây là Nguyễn Trãi không những chỉ viết bằng chữ Nôm mà quan trọng hơn là ông viết về loại cây dân dã, gần với cuộc sống bùn đất quê mùa. Như nhiều người đều biết, thơ cổ không thiếu những bài tả về hoa lá, cây cối, nhưng thường chỉ tập trung miêu tả một số cây “cao sang” quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai. Dường như phải đến Nguyễn Trãi, những loại cây cối “tầm thường” kia mới được hiện diện trong thơ ca. Như vậy có nghĩa, tuy cùng viết về thiên nhiên (như không ít nhà thơ thời phong kiến khác), nhưng hướng khai thác của Nguyễn Trãi đã có sự cách tân so với những cây bút cùng thời. 

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi có lẽ cho người đọc cảm nhận về một cây chuối biểu tượng. Do có được sức xuân, tình xuân tiềm tàng từ bên trong nên khi gặp được “hơi xuân”, cây chuối càng thêm tươi tốt. Xuân Diệu trong khi bình bài thơ này đã lưu ý người đọc lý giải tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm” mà viết “tốt lại thêm”, ông cho rằng: “Lại tốt thêm" thì có bề dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu, chẳng qua theo đà, theo thời mà thêm tốt, bớt tốt, còn “tốt lại thêm” tức là vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Ngay từ lúc bén hơi thì tốt thêm. Đây thật là những lời bình tinh tế, sâu sắc. Khi nói đến mùa xuân Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến “hơi xuân”, sức xuân nét tiêu biểu, đặc thù của nó chứ không cốt ghi nhận ở phương diện thời gian.

Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối. Đây là loại cây có buồng “Đầy buồng lạ” và kỳ diệu hơn là hương thơm của buồng chuối ngào ngạt, quyến rũ suốt đêm. 

Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:

Tình thư một bức phong còn kín
 Gió nơi đâu gượng mở xem.

Có lẽ khi viết những câu này, Nguyễn Trãi đã được gợi ý từ một vế cầu đối “Thư lai tiêu diệp văn do lục” (Thư viết trên lá chuối gửi đến lời văn còn xanh). Cho dù sự phán đoán trên đây là đúng thì công lao của Nguyễn Trãi cũng rất lớn. Từ cách diễn đạt của người xưa, Ức Trai sáng tạo ra một hình tượng vừa chân thực vừa mới mẻ. Bằng cái nhìn tinh tế rất nghệ sĩ, Nguyễn Trãi thấy tàu lá chuối kia như là một bức thư tình còn đang phong kín, chứa chất trong đó bao ngọt ngào ân ái và e ấp của một tình yêu buổi đầu trao gửi còn rất đỗi ngập ngừng. “Phong còn kín” vừa nói được sự trắng trong vừa nói được ý e lệ, giữ gìn.

Câu kết bài thơ kết lại bằng 6 chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên tưởng nghệ thuật rất nghệ sĩ. Đọc câu này, ta có thể hình dung: Gió xuân từ nơi xa thổi đến, như một bàn tay run rún và hồi hộp vì xúc động, gió gượng nhẹ, mơn man và khẽ khàng trân trọng mở dần dần bức tình thư kia… Cảm nhận bài thơ như một chỉnh thể, chúng ta có thể nghĩ đến cây chuối và gió xuân cũng như cô gái và chàng trai. Chàng trai say mê, trẻ trung nhưng cũng rất ý nhị, tinh tế. Cô gái thì trinh trắng và e ấp… Hai câu thơ nói trên ít nhiều cũng có yếu tố tả thực: đọt chuối non đang vươn dần lên, đang mở dần ra trong gió xuân. Nhưng điều quan trọng hơn là Nguyễn Trãi đã gửi vào đó cảm hứng tươi mát của một khách đa tình mà tao nhã.

đ. Em tự đọc lại, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm cho bài viết của mình. 

IV. Nói và nghe (trang 42, 43 SBT Ngữ Văn lớp 10)

Đọc đề bài dưới đây:

Đề bài: Trình bày ý kiến của bạn về một trong những vấn đề sau:

- Phân tích nội dung, nghệ thuật của một bài ca dao viết về thiên nhiên.

- Phân tích nội dung, nghệ thuật của một bài thơ (ngắn) về mối giao cảm của con người với thiên nhiên.

Câu 1 trang 43 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Bạn hãy:

a. Sử dụng những nội dung đã thực hiện ở phần Viết.

b. Luyện tập và trình bày bài nói theo dàn bài đã chuẩn bị.

Trả lời:

a. Em tiến hành sử dụng lại những nội dung đã thực hiện ở phần Viết.

b. Luyện tập và trình bày bài nói: 

* Bài nói mẫu tham khảo: 

Xin chào các bạn tôi là… học sinh lớp…. trường…. Hôm nay tôi xin phép được trình bày bài phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Cây chuối – Nguyễn Trãi để thấy được mối giao cảm của con người với  thiên nhiên.

Bài thơ Cây chuối là một trong những bài thơ đặc sắc của tác giả Nguyễn Trãi. Nổi bật trong bài thơ đó là vẻ đẹp thiên nhiên và niềm giao cảm giữa con người với thiên nhiên:

Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín
 Gió nơi đâu gượng mở xem.

Trước hết điều lý thú đáng ghi nhận ở đây là Nguyễn Trãi không những chỉ viết bằng chữ Nôm mà quan trọng hơn là ông viết về loại cây dân dã, gần với cuộc sống bùn đất quê mùa. Như nhiều người đều biết, thơ cổ không thiếu những bài tả về hoa lá, cây cối, nhưng thường chỉ tập trung miêu tả một số cây “cao sang” quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai. Dường như phải đến Nguyễn Trãi, những loại cây cối “tầm thường” kia mới được hiện diện trong thơ ca. Như vậy có nghĩa, tuy cùng viết về thiên nhiên (như không ít nhà thơ thời phong kiến khác), nhưng hướng khai thác của Nguyễn Trãi đã có sự cách tân so với những cây bút cùng thời. 

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi có lẽ cho người đọc cảm nhận về một cây chuối biểu tượng. Do có được sức xuân, tình xuân tiềm tàng từ bên trong nên khi gặp được “hơi xuân”, cây chuối càng thêm tươi tốt. Xuân Diệu trong khi bình bài thơ này đã lưu ý người đọc lý giải tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm” mà viết “tốt lại thêm”, ông cho rằng: “Lại tốt thêm" thì có bề dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu, chẳng qua theo đà, theo thời mà thêm tốt, bớt tốt, còn “tốt lại thêm” tức là vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Ngay từ lúc bén hơi thì tốt thêm. Đây thật là những lời bình tinh tế, sâu sắc. Khi nói đến mùa xuân Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến “hơi xuân”, sức xuân nét tiêu biểu, đặc thù của nó chứ không cốt ghi nhận ở phương diện thời gian.

Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối. Đây là loại cây có buồng “Đầy buồng lạ” và kỳ diệu hơn là hương thơm của buồng chuối ngào ngạt, quyến rũ suốt đêm. 

Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:

Tình thư một bức phong còn kín
 Gió nơi đâu gượng mở xem.

Có lẽ khi viết những câu này, Nguyễn Trãi đã được gợi ý từ một vế cầu đối “Thư lai tiêu diệp văn do lục” (Thư viết trên lá chuối gửi đến lời văn còn xanh). Cho dù sự phán đoán trên đây là đúng thì công lao của Nguyễn Trãi cũng rất lớn. Từ cách diễn đạt của người xưa, Ức Trai sáng tạo ra một hình tượng vừa chân thực vừa mới mẻ. Bằng cái nhìn tinh tế rất nghệ sĩ, Nguyễn Trãi thấy tàu lá chuối kia như là một bức thư tình còn đang phong kín, chứa chất trong đó bao ngọt ngào ân ái và e ấp của một tình yêu buổi đầu trao gửi còn rất đỗi ngập ngừng. “Phong còn kín” vừa nói được sự trắng trong vừa nói được ý e lệ, giữ gìn.

Câu kết bài thơ kết lại bằng 6 chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên tưởng nghệ thuật rất nghệ sĩ. Đọc câu này, ta có thể hình dung: Gió xuân từ nơi xa thổi đến, như một bàn tay run rún và hồi hộp vì xúc động, gió gượng nhẹ, mơn man và khẽ khàng trân trọng mở dần dần bức tình thư kia… Cảm nhận bài thơ như một chỉnh thể, chúng ta có thể nghĩ đến cây chuối và gió xuân cũng như cô gái và chàng trai. Chàng trai say mê, trẻ trung nhưng cũng rất ý nhị, tinh tế. Cô gái thì trinh trắng và e ấp… Hai câu thơ nói trên ít nhiều cũng có yếu tố tả thực: đọt chuối non đang vươn dần lên, đang mở dần ra trong gió xuân. Nhưng điều quan trọng hơn là Nguyễn Trãi đã gửi vào đó cảm hứng tươi mát của một khách đa tình mà tao nhã.

Trên đây là bài trình bày của tôi. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng rất mong nhận được những nhận xét góp ý để bài làm của mình hoàn thiện hơn.

Câu 2 trang 43 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Giả định một số tình huống người nghe có thể chưa đồng tình với một vài vấn đề bạn trình bày, bạn cần chuẩn bị tâm thế tiếp nhận câu hỏi trên tinh thần cầu thị để có những trao đổi, phản hồi tích cực nhất

Trả lời:

1. Trong trường hợp muốn trình bày bài nói của mình bằng nội dung bài viết, bạn có thể tận dụng dàn bài và nội dung đã viết để điều chỉnh thành bài nói.

2. Trường hợp bạn muốn trình bày bài nói của mình về một văn bản thơ tự chọn thì quy trình và các bước thực hiện vẫn dựa vào những hướng dẫn trong SGK.

3. Bạn cần lưu ý:

- Xem lại SGK để thực hiện yêu cầu lựa chọn từ ngữ, cách thức trình bày phù hợp với văn bản nói; luân chuyển cả ở hai vai: nghe và nói.

- Rèn luyện kĩ năng giới thiệu, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một bài thơ dựa trên các tiêu chí kĩ năng trình bày, tương tác với người nghe như trong bẩng kiểm (trích) dưới đây.

Nội dung kiểm tra

Đạt

Chưa đạt

Kĩ năng trình bày, tương tác với người nghe

Bố cục bài nói rõ ràng, các ý kiến được sắp xếp hợp lí.

 

 

Tương tác tích cực với người nghe trong suốt quá trình nói.

 

 

Diễn đạt rõ ràng, gãy gọn, đáp ứng yêu cầu của bài nói

 

 

Kết hợp sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để làm rõ nội dung trình bày.

 

 

Phản hồi thỏa đáng những câu hỏi, ý kiến của người nghe.

 

 

Đánh giá

0

0 đánh giá