Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát gồm 28 bài văn mẫu giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Hoa bìm - Mẫu 1
Bài thơ Hoa Bìm của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu là một áng thơ rất đẹp. Bài thơ được viết bởi thể thơ lục bát dân dã quen thuộc. Trong đó, nhà thơ sử dụng những hình ảnh hết sức mộc mạc và gần gũi. Đó là những chi tiết nhỏ bé, bình dị đến mức dễ bị bỏ qua. Nhưng chính sự tinh tế của nhà thơ, đã giúp ông tái hiện lại tất cả trong tác phẩm Hoa Bìm, từ đó tạo nên một bức tranh làng quê thân thương trong kí ức. Trong bức tranh ấy, có bờ giậu với những đóa hoa bìm tim tím, có con chuồn chuồn ớt, có cây hồng trĩu quả, có con nhện giăng tơ, có con cào cào, con dế mèn, con đom đóm. Xa xa, có cả con thuyền giấy trôi chập chờn trên dòng sông nước đục. Và mơ màng những trưa hè oi ả, ngồi lim dim trong khu vườn rộng lớn. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp bình yên của những làng quê nông thôn Việt Nam. Với lời thơ mộc mạc, không hoa mĩ, cầu kì, tác giả Đức Mậu đã thành công khắc họa vẻ đẹp trong sáng, gần gũi của quê hương trong kí ức tuổi thơ của mình.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Hoa bìm - Mẫu 2
Trong những áng thơ viết về quê hương, em đặc biệt ấn tượng với bài thơ Hoa Bìm của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Khác với những bài thơ hào hùng, tha thiết khác khi viết về quê hương, Hoa Bìm đem lại cho em một cảm giác bình yên đến khó tả. Đó là sự thoải mái, thích thú đến từ sâu trong tâm hồn, khi được trở về với nguồn cội, trở về với bến đỗ tuổi thơ. Với những hình ảnh giản dị mà thân thuộc, nhà thơ đã tái hiện lại miền quê trong kí ức của mình. Từng chi tiết nhỏ bé đã được ông khắc họa dưới góc nhìn của một đứa trẻ thơ. Đó là thế giới loài vật nhỏ như con chuồn chuồn ớt, con nhện, cào cào, dế mèn, đom đóm. Là thế giới vườn cây thân thuộc, với bờ giậu đầy những hoa bìm tim tím, với cây hồng trĩu quả. Bên cạnh đó, là những không gian quen thuộc ở dòng sông nước đục, những đứa trẻ chơi trò thả thuyền giấy. Hay những trưa hè oi ả, trốn ngủ theo bạn bè ra vườn chơi. Những kỉ niệm, những hình ảnh ấy là từng khung ảnh của miền kí ức. Mà hiện tại, tác giả dùng những gam màu trong sáng nhất, tinh khôi nhất để vẽ nên. Nhờ vậy, người đọc đã có thể đồng điệu được với nhà thơ, để cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết trong lòng ông. Đồng thời tận hưởng được một miền quê tươi đẹp mà tác phẩm đã khắc họa trong Hoa Bìm.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Hoa bìm - Mẫu 3
Hoa Bìm là một áng thơ lục bát đậm chất trữ tình của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Tác giả đã rất tinh tế khi khắc họa những chi tiết bé nhỏ nhưng đầy sức nặng và tiêu biểu của khung cảnh thôn quê mộc mạc và bình dị. Đó là bờ giậu với những đóa hoa tim tím, là con chuồn chuồn ớt, là cây hồng trĩu quả, là con nhện giăng tơ, là con cào cào, con đom đóm. Phía xa còn có cả chiếc thuyền giấy trôi trên dòng nước đục. Những chi tiết ấy vốn nhỏ bé, lẩn khuất trong không gian đồng nội rộng lớn, nay được phóng đại lên trong kí ức tuổi thơ. Tất cả đã khắc họa nên một bức tranh làng quê chân thực, sống động, dưới một góc nhìn thú vị.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Hoa bìm - Mẫu 4
Nhà Thơ Nguyễn Đức Mậu là một nhà thơ có hồn thơ mang đậm hơi thở của đồng quê. Với chất liệu là những hình ảnh dân dã, mộc mạc của vùng nông thôn nước ta trong quá khứ. Ông đã sử dụng thể thơ lục bát, để dệt tất cả lại thành một tác phẩm thơ chạm đến trái tim người đọc. Đến với Hoa Bìm, người đọc được sống lại những kỉ ức tuổi thơ đang nằm trôi trong dòng sông kí ức. Ở đó có những khu vườn xanh tốt, có chú chuồn chuồn ớt, có con nhện giăng tơ, có anh cào cào, dế mèn, đom đóm. Những con vật nhỏ bé ấy từng là cả một kho tàng đồ chơi đến từ thiên nhiên thú vị, làm say đắm bao đứa trẻ. Chúng nằm lẫn trong sắc xanh của cỏ cây, sắc tím của hoa bìm, sắc đỏ cam của hồng chín. Những gam màu ấy tô điểm cho tuổi thơ mộc mạc thêm phần rực rỡ. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã giúp em có một trải nghiệm tuyệt vời khi đắm mình vào bầu không xưa cũ ấy. Em như thực sự được sống cùng với tuổi thơ của ông bà, cha mẹ mình. Chính những cảm xúc ngỡ ngàng, yêu thích, quyến luyến và tiếc nuối về một thời đã qua ấy, khiến em yêu mến và trân trọng những vần thơ của Hoa Bìm.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Hoa bìm - Mẫu 5
Hoa Bìm là một tác phẩm thơ mang đậm hơi thở dân dã, mộc mạc đặc trưng của vùng thôn quê trong kí ức của nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã tìm ra và tái hiện lại những hình ảnh của vùng quê yên bình vốn phủ bụi trong kí ức tuổi thơ xa xăm. Đó là những sắc màu mộc mạc của cỏ cây hoa lá, là màu tím của hoa bìm, màu đỏ cam của hồng chín. Đó cũng là những cảnh vật thú vị đã từng hấp dẫn vô cùng với nhà thơ lúc còn thơ bé, như chuồn chuồn ớt, nhện giăng tơ, cào cào, dế mèn, đom đóm và cả chiếc thuyền giấy đang trôi. Tất cả những hình ảnh đó được nhà thơ truyền tải bằng nhịp điệu du dương của thể thơ lục bát - một thể thơ dân gian đã có từ lâu đời. Từ hình ảnh đến thể thơ đều rất giản dị, mộc mạc. Giúp tái hiện lại một bức tranh làng quê Việt Nam trong đôi mắt trong veo ngây thơ của một đứa trẻ con vô tư lự. Nhờ bài thơ Hoa Bìm mà em một lần nữa được sống lại, được trải nghiệm những ngày hè thơ ấu ở quê cùng ông bà.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Về thăm mẹ - Mẫu 1
Bài thơ lục bát Về thăm mẹ của nhà thơ Đinh Nam Khương là bài thơ khiến em vô cùng cảm động về tình mẫu tử. Người mẹ trong bài thơ đã hiện lên gián tiếp qua từng đồ vật trong nhà. Đó là hũ tương, là chiếc nón mê, cái áo tơi, và cả đàn gà con với cái nơm tre. Người mẹ tần tảo sớm hôm, chăm lo cho gia đình, nên nơi đâu cũng có dáng mẹ, việc gì cũng có bàn tay mẹ chăm lo. Nhờ có mẹ tảo tần chịu khó, mà người con có một mái ấm yên bình, hạnh phúc. Những từ “xưa”, “lủn củn”, “hỏng vành” đã thể hiện được phần nào sự khó khăn, thiếu thốn của ngôi nhà. Nhưng ở đó, người mẹ vẫn cố gắng dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con mình. Hình ảnh quả na cuối mùa được để dành lại trên cành đã nói lên tất cả tâm tư của mẹ. Dù là thứ nhỏ nhặt nhất, mẹ cũng nghĩ đến con, muốn để lại cho con. Ôi, tình mẹ thật là bao la và vĩ đại. Thứ tình cảm ấy đã được nhà thơ Nam Khương khắc họa bằng những hình ảnh trong sáng và giản dị nhất. Nhờ vậy, người đọc có thể cảm nhận được một cách tha thiết nhất tình mẫu tử quý giá trong bài thơ.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Về thăm mẹ - Mẫu 2
Bài thơ Về thăm mẹ của nhà thơ Đinh Nam Khương là một tác phẩm thơ chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc về tình mẫu tử. Người mẹ trong bài thơ không trực tiếp xuất hiện, mà gián tiếp hiện lên qua hình dáng của những đồ vật trong ngôi nhà. Từ chum tương, bếp lửa, đàn gà con, đến cái áo tơi, nón mê, tất cả đều có bóng dáng tần tảo vun đắp của mẹ ở trong đó. Chính người mẹ ấy đã thầm lặng làm tất cả, chịu đủ vất vả, để giữ gìn mái ấm đơn sơ cho người con. Tình thương của mẹ được tác giả gói trong một hình ảnh “trái na cuối vụ”. Tuy chỉ là một trái na chín bình thường, nhưng đó là biểu tượng của tình mẹ cao cả. Những thứ gì ngon, đẹp mẹ đều dành lại phần con. Sự chắt chiu, nhường nhịn ấy là kết quả của một trái tim đầy tình yêu thương của mẹ. Thật đáng trân trọng biết bao tình mẫu tử thiêng liêng cao quý ấy!
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Về thăm mẹ - Mẫu 3
Bài thơ Về thăm mẹ là bài thơ giàu ý nghĩa về tình mẹ con. Qua lời tâm sự của người con, hình ảnh người mẹ hiện lên thật dịu dàng. Mẹ không xuất hiện trực tiếp, mà hiện lên qua những đồ vật, cảnh trí trong nhà. Cái nào cũng được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ và tươm tất. Điều đó gián tiếp khẳng định sự tảo tần, đảm đang của người mẹ. Chi tiết trời bỗng đổ cơn mưa ở đầu bài thơ, và sự rưng rưng ở cuối bài chính là cảm xúc của người con dành cho mẹ. Vừa yêu thương, lại vừa buồn bã khi thiếu dáng mẹ ở nhà. Những chi tiết ấy, bộc lộ một cách trực tiếp về tình cảm mà người con dành cho mẹ yêu quý.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Về thăm mẹ - Mẫu 4
Bài thơ lục bát Về thăm mẹ là những dòng tâm sự của người con danh cho mẹ của mình. Xuyên suốt bài thơ, mẹ không được miêu tả trực tiếp hay xuất hiện một lần nào. Nhưng hình bóng mẹ vẫn ngự trị trong toàn bài thơ, trong lòng nhà thơ và độc giả. Mẹ hiện lên qua chum tương đã đậy nắp, qua cái nón mê áo tơi, qua đdàn gà mới nở, qua quả na chín rụng cành. Tất cả khắc họa nên một người mẹ nghèo khó, tảo tần và giàu tình yêu thương con. Bà đã hi sinh, nhường nhịn tất cả những gì mình có cho đứa con bé bỏng. Sự vĩ đại ấy của mẹ, khiến ngôi nhà trở nên trống rỗng và lạnh lẽo khi bà đi vắng. Chỉ những hình ảnh bình dị, thân thương đó thôi, mà tác giả đã rưng rưng nghẹn ngào. Đó là sự bốc phát của những tình cảm yêu thương, quyến luyến ông dành cho mẹ trong suốt thời gian xa nhà. Tình cảm ấy bộc trực, tự nhiên, chân thành và ấm áp vô cùng. Khiến em như được đồng điệu với nhà thơ và dâng lên một dòng nước ấm trong lồng ngực khi nhớ về mẹ của mình.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát À ơi tay mẹ - Mẫu 1
Trong những tác phẩm thơ đã được đọc, em đặc biệt ấn tượng với À ơi tay mẹ của nhà thơ Bình Nguyên. Đây là một bài thơ đậm chất trữ tình, với âm hưởng và giai điệu du dương như một ca khúc ru của mẹ. Điệp từ “À ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần ở đầu các câu thơ đã ươm nhạc cho tâm hồn người đọc. Trong giai điệu dìu dặt, hấp dẫn ấy, em cảm nhận được tình mẹ thiêng liêng và cao cả. Bàn tay của mẹ nhỏ bé thế mà cũng to lớn như trời bể. Che mưa chắn gió, đem đến bình yên, an lành cho người con bé bỏng. Mẹ hi sinh tất cả chỉ mong con được ngon giấc, đủ đầy. Sự hi sinh vĩ đại không hỏi mong hồi đáp ấy, thử hỏi, còn có thể có ai ngoài người mẹ? Tất cả những cảm xúc yêu thương, trân quý của tình mẹ bao la đó, đã được nhà thơ Bình Nguyên truyền tải trọn vẹn vào bài thơ lục bát À ơi tay mẹ.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát À ơi tay mẹ - Mẫu 2
Bài thơ À ơi tay mẹ của nhà thơ Bình Nguyên thực sự là một khúc ru chứa chan tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý. Hình ảnh người mẹ được sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ, hiện lên qua biểu tượng bàn tay. Chính bàn tay tưởng như nhỏ bé ấy, lại có thể làm tất cả mọi việc. Từ chắn mưa, chặn bão đến chắt chiu, may vá, bế bồng. Trăm việc ngàn công đều do bàn tay mẹ, ấy thế mà sao mẹ vẫn dịu dàng, vẫn yêu thương, vẫn cho con đủ đầy ấm áp? Có lẽ, đó chính là sức mạnh vĩ đại của tình mẹ. Trên thế gian này, chẳng có thứ tình cảm nào có thể thiêng liêng hơn cả tình mẹ. Những nỗi niềm cao cả ấy, được nhà thơ Bình Nguyên đưa vào tác phẩm thơ uyển chuyển như một lời hát ru. Đó là lời ca, là lời tâm tình, là lời nguyện đáp của người mẹ dành cho thiên thần bé bỏng của mình. Thật ý nghĩa làm sao những áng thơ dịu dàng ấy!
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát À ơi tay mẹ - Mẫu 3
À ơi tay mẹ là một khúc hát ru được thể hiện bằng hình thức một bài thơ lục bát. Với giai điệu nhịp nhàng đặc trưng vốn có của thể thơ này, lời ru được cất lên càng thêm du dương, da diết, chở theo biết bao tình yêu thương của mẹ. Trong bài thơ, người mẹ xuất hiện gián tiếp qua hình tượng đôi bàn tay. Bàn tay mẹ vất vả, bàn tay mẹ dịu dàng, bàn tay mẹ bế bồng, chăm sóc cho con. Đó chính là hình ảnh người mẹ to lớn, vĩ đại. Mẹ cũng từng chỉ là một người con gái nhỏ bé, nhưng từ khi là mẹ của con, mẹ chẳng còn sợ điều gì cả. Mẹ yêu con, nên hi sinh mọi thứ cho con. Tất cả những tình yêu của mẹ hóa thân thành những mong cầu cho thiên thần bé nhỏ trong vòng tay mình. Bàn tay mẹ hóa thành bầu trời, thành mái ấm che chở cho con. Đọc bài thơ À ơi tay mẹ, em cảm giác như được nhỏ lại, được vùi vào vòng tay ấm áp của mẹ để cảm nhận hơi ấm của tình mẹ bao lấy quanh người. Có lẽ, trên thế giới này không có thứ gì có thể cao cả, đong đầy và bất tận như tình mẹ ấy.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát À ơi tay mẹ - Mẫu 4
Bài thơ À ơi tay mẹ là một bài thơ lục bát rất hay và ý nghĩa. Điệp từ “à ơi” được lặp lại nhiều lần, tạo giai điệu du dương như một bản nhạc ru của mẹ thường ru con ngủ thuở còn thơ bé. Những hình ảnh trong bài thơ vừa mộc mạc, giản dị lại to lớn và bao la. Tựa như tình cảm của mẹ vậy. Hình ảnh bàn tay chính là hình ảnh người mẹ tảo tần, vì con mà làm tất cả mọi điều. Mẹ yêu thương, chở che, đùm bọc cho con, để con được sống hạnh phúc, đủ đầy. Thật thiêng liêng biết bao tình mẹ cao cả, vĩ đại ấy. Chẳng gì có thể tuyệt vời hơn thế nữa! Những cảm xúc yêu thương ấy, đã được thể hiện trọn vẹn trong bài thơ lục bát À ơi tay mẹ, qua hình ảnh đôi bàn tay của mẹ.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa - Mẫu 1
Chân trâu đốt lửa là một bài thơ lục bát ngắn, mang đậm hơi thở đồng nội của vùng nông thôn miền B ắc. Tác giả đã khéo léo chọn lọc những hình ảnh đẹp, mộc mạc và tiêu biểu nhất để vẽ nên bức tranh đồng quê thân thuộc. Đó là những rạ rơm, là cánh diều, là con trâu. Tất cả hiện lên trong làn gió đông man mác, se lạnh, cùng làn khói nhẹ nhẹ của củ khoai nướng, phác họa không gian mờ ảo, thần tiên. Ở đó, có chú bé chăn trâu ngây thơ, còn ham chơi. Vì mải mê thả diều mà quên mất củ khoai nướng trong rơm khô. Củ khoai nướng cháy rồi, cậu bé tiếc lắm. Cái tiếc nuối ấy man mác, rải rắc trong không gian. Có lẽ là cậu tiếc củ khoai thơm ngon, cũng có thể cậu tiếc một chiều rong chơi đã kết thúc, đã đến lúc trở về nhà rồi. Những hình ảnh ấy bình dị, mộc mạc mà chân thực. Khiến ai cũng có thể bắt gặp chính mình rong bức tranh làng quê ấy.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa - Mẫu 2
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
Bài thơ lục bát trên của nhà thơ Đồng Đức Bốn đã gợi lên được những cảm xúc đặc biệt trong lòng người đọc. Những chi tiết như rạ rơm, con diều, chăn trâu… đã khắc họa một bức tranh đồng quê bình dị, mộc mạc. Trong bức tranh ấy, nhân vật trữ tình hiện lên qua loạt hành động chăn trâu, đốt lửa, mải mê đuổi theo một cánh diều. Sự ngây thơ, hồn nhiên của một đứa trẻ trong khung cảnh chiều đầu đông thật bình yên đến lạ. Cuối bài thơ, hình ảnh củ khoai nướng bị bỏ quên đến hóa thánh tro, khiến cho không chỉ nhân vật mà cả người đọc cũng cảm nhận được sự nuối tiếc man mác. Đó là những cảm xúc mông lung, nhẹ nhàng trước những biến chuyển của không gian trong buổi chiều đầu đông. Tất cả được nhà thơ tinh tế khắc họa qua bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa - Mẫu 3
Bài thơ Chăn trâu đốt lửa của nhà thơ Đồng Đức Bốn là một bài thơ được viết theo thể lục bát quen thuộc. Bao trùm lên bài thơ là không gian đồng quê trong sáng, mộc mạc vào buổi đầu đông. Với hình ảnh cánh đồng, rơm rạ và cả con diều đang chao lượn trên cao. Tất cả phác họa một không gian rộng lớn và thoáng đãng. Trong bầu không ấy, gió đông se lạnh từ từ len lỏi vào, đem đến những bâng khuâng khó tả. Hòa với đó, là chút gì đó tiếc nuối khi củ khoai mới vùi vào đốm lửa nay đã cháy thành tro. Sự nuối tiếc ấy, không chỉ là vì củ khoai, mà còn vì một ngày đẹp trời nay đã đi đến cuối. Hoặc cũng có lẽ, là vì mùa thu đã đi qua, mùa đông lạnh lẽo đã cập bờ. Những cảm xúc ấy không mãnh liệt mà bàng bạc, nhẹ nhàng lay động trái tim người đọc. Nó tạo nên những rung động tinh tế mà tha thiết, khó bỏ qua được cho bài thơ Chân trâu đốt lửa.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa - Mẫu 4
Bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa là một bài thơ ngắn chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ. Ấy thế mà nhà thơ Đồng Đức Bốn đã vẽ ra được cả một không gian rộng lớn mênh mang. Trong bài thơ là một cánh đồng sau mùa gặt vào chiều đông lạnh lẽo. Bầu không khí lồng lộng gió rời khiến không gian càng thêm mênh mông. Bạn nhỏ trong bài thơ hiện lên với những hành động rất quen thuộc của mọi đứa trẻ nhỏ ở nông thôn ngày trước: đi chăn trâu, thả diều trên cánh đồng sau mùa gặt. Tuổi nhỏ ham chơi, bạn nhỏ say mê đuổi theo cánh diều cao tít, mà quên đi củ khoai nướng trong đóng tro. Điều đó làm củ khoai cháy khét khiến bạn nhỏ vô cùng tiếc nuối. Người đọc cũng cảm nhận được điều đó, tình cảm đó. Nhưng đó lại chẳng phải chỉ là niềm nuối tiếc về củ khoai, mà còn là niềm tiếc nuối khi thời gian trôi qua quá nhanh, chỉ chớp mắt mà cả buổi chiều đã đi qua. Với người đọc, đó còn là sự tiếc nuối đến ngẩn ngơ về thời gian tuổi thơ vô tư lự đã qua và trôi mãi về miền quá khứ. Sự tiếc nuối mông lung, mờ mịt ấy kết hợp với gió chiều đông tạo nên những cảm xúc da diết khó tả trong lòng em. Chăn trâu đốt lửa thực sự là một bài thơ hay và ý nghĩa, chạm sâu đến trái tim người đọc.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chăn trâu đốt lửa - Mẫu 5
Chăn trâu đốt lửa là một bài thơ lục bát rất hay và ý nghĩa. Cái hay của bài thơ, đến từ vẻ mộc mạc, bình dị trong câu chữ, vần thơ mà tác giả sử dụng. Bài thơ đưa em đến với một buổi chiều mùa đông trên cánh đồng rộng lớn đã gặt xong. Ở đó có một cậu bé đang thỏa thích rong chơi, tự do tự tại. Trên đồng, cậu vừa chăn trâu, lại tranh thủ nướng ít củ khoai để ăn cho ấm bụng. Nhưng sự xuất hiện của cánh diều trong gió trời lồng lộng đã thu hút sự chú ý của cậu bé, khiến cậu say mê đuổi theo đến quên cả củ khoai, quên cả thời gian. Trẻ con là vậy, dễ thích lại nhanh quên, những trò chơi tuổi thơ cũng như cánh diều, chợt chao chợt liệng. Cậu bé ấy được tự do, thỏa thích với niềm vui của tuổi thơ trên cánh đồng, tựa cánh diều bay lượn vi vu. Niềm vui giản dị, mộc mạc ấy được tái hiện qua những vần thơ lục bát dân gian quen thuộc. Chỉ có người đọc và cả nhà thơ là vẩn vơ tiếc nuối về một điều gì đó. Có lẽ là củ khoai đã cháy thành tro, là buổi chiều đã nhanh về cuối. Và cũng có lẽ chính là tuổi thơ vô tư đã trôi qua chẳng thể nào khứ hồi thêm một lần nào nữa.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chuyện cổ nước mình - Mẫu 1
Bài thơ lục bát Chuyện cổ nước mình là một tác phẩm thơ tràn ngập niềm tự hào và yêu thương mà tác giả dành cho những câu chuyện cổ của nước ta. Ngay đầu bài thơ, tác giả đã khẳng định tình yêu của mình với truyện cổ, đồng thời chia sẻ những giá trị nhân văn của những câu chuyện ấy. Qua những nhân vật cổ tích, những tình huống bất ngờ, các câu chuyện dạy cho chúng ta những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Hướng chúng ta tới những điều hay, lẽ phải. Không chỉ thế, những câu chuyện cổ ấy còn là cầu nối để gắn kết thế hệ cha ông và con cháu ngày hôm nay. Chúng ta sẽ được gặp gỡ, thấu hiểu nhau hơn qua những câu chuyện cổ, về những phong tục tập quán, ước mơ và khát vọng của lúc bấy giờ. Đó chính là giá trị cao cả của truyện cổ mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ luôn tự hào.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chuyện cổ nước mình - Mẫu 2
Chuyện cổ nước mình là một bài thơ lục bát với nhịp thơ có tiết tấu nhịp nhàng như bài đồng dao, chứa đựng những cảm xúc chân thành của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ dành cho truyện cổ nước nhà. Đó là tình yêu thương, là niềm tự hào, trân quý. Tác giả yêu những câu chuyện cổ, bởi những câu chuyện ấy không chỉ hay, mà còn ẩn chứa những bài học nhân văn, giá trị cho con người. Tác giả tự hào, bởi những đạo lý, tư tưởng cao cả mà cha ông ta gửi gắm trong từng câu chuyện. Và trân quý, bởi chính những câu chuyện cổ ấy, là cả một vũ trụ chứa đựng biết bao điều về cuộc sống, ước mơ, hoài bão của cha ông ta của rất lâu về trước. Chính các câu chuyện ấy đã là sợi dây nối liền hai chiều lịch sử, gắn kết những thế hệ cách xa lại với nhau. Những câu chuyện cổ đã làm trọn sứ mệnh cao cả của mình trong suốt mấy trăm năm lịch sử như thế đó.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Chuyện cổ nước mình - Mẫu 3
Truyện cổ Việt Nam là một di sản tinh thần quý giá mà cha ông để lại cho con cháu. Những tình cảm yêu quý, trân trọng dành cho thể loại truyện này của người dân ta đã được nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nói hộ trong bài thơ Chuyện cổ nước mình. Trong bài thơ, những nhân vật cổ tích quen thuộc đã lớn lên cùng chúng ta lần lượt được xuất hiện. Mỗi người đều đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp, đều mang đến những bài học ý nghĩa, những ước mơ cao cả. Các tư tưởng, đạo lý quan trọng mà cha ông muốn dạy cho con cháu đã dược truyền tải nhẹ nhàng và tự nhiên qua các câu chuyện, nhân vật ấy. Nhờ vậy mà các bài học ấy chẳng hề nặng tính giáo điều hay lý thuyết. Từ Chuyện cổ nước mình, tác giả Lâm Thị Mỹ Dạ gửi gắm những yêu thương và tự hào về truyện cổ Việt Nam. Tình cảm chân thành của nhà thơ cũng là tình cảm mà trái tim em luôn ấp ủ. Vì vậy, em rất yêu thích và đồng điệu với bài thơ Chuyện cổ nước mình.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 1
Tác giả Nguyễn Đình Thi đã đưa cả đất nước Việt Nam tươi đẹp vào thi phẩm “Việt Nam quê hương ta”. Nhà thơ chỉ chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất như cánh cò, đồng lúa, ngọn núi Trường Sơn, mà như tái hiện được cả non sông gấm vóc của tổ quốc. Từ trong mảnh đất ấy, đã sinh ra những con người hiền lành, chân chất nhưng cũng vô cùng kiên cường, dũng cảm. Họ sinh ra từ làng, nên yêu làng, yêu tổ quốc. Họ sẵn sàng gác lại mọi thứ ở phía sau để chiến đấu cho độc lập tự do của dân tộc. Đó là Việt Nam trong tâm thức của nhà văn Nguyễn Đình Thi, và cũng là Việt Nam trong triệu triệu trái tim người con của mảnh đất hình chữ S này. Nhịp thơ lục bát ngân vang như câu ca, đã góp phần làm cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương trong bài thơ trở nên càng thêm tự nhiên, mạch lạc. Bởi tình yêu nước ấy ai ai cũng có, chỉ là khác nhau ở cách biểu đạt mà thôi.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 2
Việt Nam quê hương ta là một bài thơ lục bát mang đậm tình yêu quê hương xứ sở của tác giả. Xuyên suốt bài thơ, là những hình ảnh tươi đẹp và thân thương gắn liền với biết bao thế hệ người dân nước ta. Đó là những biển lúa rập rờn với cánh cò bay lượn tự do. Là những người nông dân chân chất thật thà với tấm áo vải nâu mộc mạc. Là những người anh hùng mạnh mẽ, đứng lên vì độc lập tự do, bất chấp bom lửa khói đạn mà lao ra chiến trường. Là những người con gái dịu hiền, là những người mẹ anh hùng, là những vùng đất tươi xanh khiến ai đến cũng không muốn về. Đó chính là quê hương Việt Nam trong tâm thức bao người con đất Việt. Chính bài thơ, đã gợi lên, dựng nên một cảm xúc yêu thương, tự hào khó tả trong lòng em. Khiến em muốn đứng dậy để khám phá mảnh đất hình chữ S tươi đẹp này.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 3
Bài thơ Việt Nam quê hương ta của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là một bài thơ lục bát mang đậm âm hưởng hào hùng, chứa đựng tình yêu và tự hào về quê hương mãnh liệt. Với những hình ảnh so sánh, nhân hóa đặc sắc, tác giả đã tái hiện lại đất nước và con người Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc mà đáng quý. Đó là mảnh đất hình chữ S với biển lúa mênh mông, cánh cò bay lả rập rờn, với đỉnh núi mây mờ che cả sớm chiều. Ở nơi đấy, người dân chân chất thật thà, chịu thương chịu khó. Mặc khó khăn, gian khổ, mặc kẻ thù lăm le, họ vẫn kiên cường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ mảnh đất cha ông đã dày công gây dựng. Và rồi chiến tranh qua đi, người nông dân ấy lại trở về với điền viên, được sống với chính sự hiền hòa của mình. Những vẻ đẹp ấy không chỉ là phẩm chất, mà đã trở thành một truyền thống quý báu được bao đời người dân ta đến nay giữ gìn và phát huy. Nhà thơ Đình Thi đã khéo léo lựa chọn thể thơ lục bát - thể thơ của dân tộc để khắc họa những nét đẹp vẻ vang ấy. Qua đó, ông truyền đến người đọc tình yêu, lòng tự hào sâu sắc dành cho quê hương đất nước của mình.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 4
Với tình yêu quê hương tha thiết, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại đất nước Việt Nam tươi đẹp muôn màu vào trong áng thơ Việt Nam quê hương ta. Tình yêu quê hương được tác giả thể hiện ngay từ lúc lựa chọn thể thơ để sáng tác. Thể thơ được lựa chọn là thể lục bát - thể thơ truyền thống từ bao đời nay của dân tộc ta. Những hình ảnh đất nước, con người được tái hiện trong câu thơ vô cùng mộc mạc và giản dị, đúng như con người Việt Nam ta. Đó là những biển lúa trù phú rộng mênh mông, là những cánh cò lững lờ bay qua sóng lúa, là những ngọn núi cao lập lờ sau vườn mây, là những ngày nắng chan hòa, với hoa thơm quả ngọt suốt cả bốn mùa. Trên mảnh đất thần tiên ấy, là những con người kiên cường, lương thiện. Khi có chiến tranh, họ dũng cảm đứng lên để bảo vệ mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Hòa bình, họ lại trở về với hình dáng chân chất, thật thà, làm bạn với ruộng vườn, dòng sông. Thật đáng quý, đáng tự hào biết bao. Những tình cảm tha thiết ấy của nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã hiện lên trọn vẹn qua bài thơ. Đồng thời đã tạo nên được một nhịp ngân dài đồng điệu triệu triệu trái tim khác trên mảnh đất Việt Nam. Đó là nhịp đập của những trái tim yêu nước.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 5
Bài thơ Việt Nam quê hương ta của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là một bài thơ trữ tình khơi gợi trong em những cảm xúc tươi đẹp. Với thể thơ lục bát dân gian, bài thơ đã tạo cho mình một chất rất riêng, vừa mộc mạc, giản dị, vừa tự hào, hùng tráng. Hình ảnh đất nước Việt Nam hiện lên qua từng hình ảnh thiên nhiên thân thuộc như ruộng lúa, cánh cò, hoa thơm quả ngọt. Nhưng hơn cả đó, chính là hình ảnh những người dân Việt ta kiên cường bất khuất, cần cù chịu khó. Dù bao khó khăn gian khổ, dù bao kẻ thù tàn bạo, thì nhân dân ta vẫn hiên ngang vượt qua. Những hình ảnh ấy, đã gợi lên trong em tình yêu quê hương và lòng tự hào sâu lắng về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người đất nước ta. Những tình cảm ấy sẽ đi theo em mãi đến hết cuộc đời.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Việt Nam quê hương ta - Mẫu 6
Bài thơ Việt Nam quê hương ta là một bài ca với niềm tự hào và yêu mến sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Đình Thi dành cho quê hương đất nước. Ông đã chọn lựa thể thơ lục bát để làm cầu nối truyền tải những tâm tư, cảm xúc của mình. Nhờ vậy, giai điệu bài thơ trở nên nhịp nhàng, uyển chuyển, ngấm dần vào tâm hồn người đọc. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại một Việt Nam tươi đẹp, mộc mạc và chân chất vào bài thơ với những cánh đồng, dãy Trường Sơn và cánh cò trắng muốt. Ông cũng khắc họa lại những thế hệ cha ông người Việt ta kiên cường, dũng cảm, bất khuất nhưng cũng thật hiền lành, chân chất, giàu tình yêu thương. Đến với Việt Nam quê hương ta, là đến với một Việt Nam hào hùng, mạnh mẽ. Từng câu chữ, hình ảnh trong bài thơ đều thấm đẫm tình yêu, niềm tự hào của nhà thơ dành cho tổ quốc. Và không chỉ ông, đó cũng là tình cảm của triệu triệu người dân trên đất nước hình chữ S này. Sự đồng điệu ấy giúp cho bài thơ Việt Nam quê hương ta trở thành tiếng ca chung của dân tộc Việt Nam.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Gió đưa cành trúc la đà - Mẫu 1
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà là một tác phẩm thơ ngợi ca về vẻ đẹp của phủ Tây Hồ. Tác giả đã chọn khoảnh khắc vào sáng sớm, khi mọi người còn chưa bắt đầu các hoạt động sinh hoạt để miêu tả. Nhờ vậy mà tái hiện được toàn bộ vẻ đẹp thiên nhiên của nơi đây. Đó là một không gian rộng mở, thoáng đãng và yên tĩnh. Cái nét yên tĩnh ấy được thể hiện qua tiếng chuông, nhịp chày vang khắp không gian. Phải vắng lặng đến như thế nào, thì mới có thể nghe được từng tiếng chày gỗ đánh lên áo quần bên bờ hồ như thế chứ? Âm thanh đó vang ra, lan xa vô cùng qua mọi chiều kích. Đẩy người đọc mở rộng tầm mắt hơn, nhìn ra xa hơn, bao quát hơn cả phủ Tây Hồ. Để thấy được mặt hồ buổi sớm phẳng lặng như gương, thấy sương mờ phảng phất. Khói lả lướt trên mặt hồ, sinh động như thể sắp có nàng tiên nào đó vén mây bước ra. Gió hồ nhè nhẹ đưa mây khói tản ra, để nàng liễu thướt tha được diện kiến. Ven hồ có trồng rất nhiều cây liễu. Các cành liễu lá dài rủ xuống nước, như mái tóc người con gái đang chải chuốt buổi sớm mai. Tất cả những chi tiết ấy, được tác giả dân gian khắc họa lại bằng vần thơ lục bát, vừa tự nhiên, lại mộc mạc. Từ đó thể hiện tình yêu và niềm tự hào dành cho một cảnh đẹp trữ tình của quê hương, đất nước.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Gió đưa cành trúc la đà - Mẫu 2
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà được viết bằng thể thơ lục bát - một thể thơ dân gian đặc sắc của dân tộc ta. Đến với bài thơ, người đọc được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp mộc mạc đậm chất trữ tình của vùng Hồ Tây vào buổi sớm tinh mơ. Khi những sương mờ vẫn còn giăng mắc, dùng dằng chẳng tắt trên khắp không gian, tạo nên cảnh tượng lãng mạn, lâng lâng như chốn bồng lai tiên cảnh. Lúc này, gió thổi là là, làm đung đưa cành trúc, nhưng cũng chưa đủ mạnh để tạo nên tiếng xào xạc. Chỉ có văng vẳng tiếng chuông chùa Trấn Vũ đưa từ xa tới, kéo từng hồi từng hồi, đem đến sự linh thiêng cho chốn tiên cảnh này. Cùng với đó, lại là từng hồi tiếng chày giã gạo, hay tiếng chày giặt áo bên bờ hồ. Âm thanh ấy mang lại dư vị của cuộc sống thường nhật, mang hơi thở của chốn trần gian, xua đi sự vắng lặng, lạnh lẽo của khung cảnh thiên nhiên. Có thể nói, bài ca dao đã khắc họa một cách tinh tế và ý nhị vẻ đẹp độc đáo của chốn Hồ Tây lúc bình minh. Gợi lên những rung cảm khó tả trong lòng người đọc.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Gió đưa cành trúc la đà - Mẫu 3
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà là một bài ca dao vô cùng quen thuộc khắc họa vẻ đẹp trữ tình của Hồ Tây thuộc thủ đô Hà Nội. Bao trùm toàn bài thơ là vẻ đẹp lắng đọng và bình yên. Với cành lá trúc đung đưa trong gió thoảng, với mặt hồ phẳng lặng như tấm gương soi, với làn khói mờ giăng mắc khắp không gian. Ở đó, văng vẳng tiếng chuông chùa thánh khiết, xen lẫn tiếng chày giã gạo mộc mạc. Vẻ đẹp của chốn bồng lai hòa vào với vẻ đẹp của cuộc sống thường nhật. Tạo nên một Tây Hồ rất riêng mà không nơi nào giống được.
Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát Gió đưa cành trúc la đà - Mẫu 4
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà được viết theo thể thơ lục bát dân gian quen thuộc. Nhờ vậy, đã tạo được giai điệu nhịp nhàng, du dương như một bài dân ca. Trong bài thơ, không gian hiện lên mênh mông, mờ ảo, nửa thực nửa mơ, khiến người đọc như được đến với chốn bồng lai tiên cảnh. Ở đó, bên bờ hồ có những cành trúc cao lớn, la đà bay ngang theo làn gió, có khói sương mờ bảng lảng, có mặt hồ tĩnh lặng như bóng gương soi. Trong không gian miên man chẳng có giới hạn ấy, tiếng chuông Trấn Vũ, tiếng chày Yên Thái vang lên, đem lại cảm giác chân thật hơn cho cảnh vật. Vẻ đẹp thần tiên ấy, nhờ có âm thanh của đời thường mà trở nên gần gũi, trở về với thực tại. Bài thơ đã khắc họa nên vẻ đẹp đặc trưng của Phủ Tây Hồ, giúp người đọc mường tượng ra một cảnh đẹp đặc sắc của đất nước. Đồng thời càng thêm yêu quý, tự hào về vẻ đẹp của quê hương mình.