Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm gồm 10 bài văn mẫu giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm
Dàn ý: Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu
Giới thiệu về bài thơ “Lượm” (hoàn cảnh sáng tác, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…)
2. Thân bài
a. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai chú cháu
- Hoàn cảnh gặp gỡ: ngày Huế đổ máu ở Hàng Bè - sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ (Huế ở đây chính là chỉ những con người gắn bó với mảnh đất Huế như 1 phần máu thịt, người dân Huế chính là 1 phần của Huế, vì vậy khi chiến tranh nổ ra, những người con xứ Huế đã ngã xuống ấy cũng chính là 1 phần cơ thể của Huế đang đổ máu)
- Hình ảnh Lượm trong lần gặp gỡ đầu tiên:
Hình dáng: bé loắt choắt, má đỏ bồ quân
Trang phục: cái xắc xinh xinh, ca lô đội lệch
Cử chỉ: thoăn thoắt, nghênh nghênh, huýt sáo vang, nhảy trên đường vàng… → nhanh nhẹn, hồn nhiên, đáng yêu, yêu đời
Lời nói: tự nhiên, chân thật (Cháu đi liên lạc…Thích hơn ở nhà)
Xưng hô: cháu - chú - đồng chí → nét tinh nghịch và nghiêm túc trong công việc
→ Đoạn thơ sử dụng nhiều từ láy (loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh) cùng hình ảnh so sánh (như con chim chích) đã giúp khắc họa hình ảnh một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, nhanh nhẹn và hồn nhiên, yêu đời, yêu công việc
b. Sự hy sinh anh dũng của Lượm trên đường làm nhiệm vụ
- Hoàn cảnh: "Đạn bay vèo vèo" → Tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm
- Hình ảnh của Lượm:
"Vụt qua mặt trậ
... Sợ chi hiểm nghèo"
→ Hình ảnh cậu bé dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái làm nhiệm vụ, không sợ khó khăn, nguy hiểm.
- Tư thế của Lượm lúc hi sinh:
"Một dòng máu tươi
...
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng"
→ Dù hồn đã lìa khỏi xác nhưng vẫn hòa quyện vào đồng lúa quê hương - hình ảnh miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn
→ Qua đó thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết của cậu bé - cậu đã hi sinh tính mạng mình để góp phần sức lực vào sự nghiệp bảo vệ độc lập đất nước.
→ Hình ảnh "lúa thơm mùi sữa" - chính chỉ đến cậu bé Lượm - cũng còn rất nhỏ, chưa kịp trưởng thành, chưa kịp lớn lên đã phải ra đi vĩnh viễn.
→ Từ đó, thể hiện lòng xót thương vô bờ của tác giả dành cho em:
"Ra thế
Lượm ơi...
...Lượm ơi, còn không"
→ Câu hỏi tu từ đã thể hiện sự ngỡ ngàng, giật mình của nhà thơ - dường như ông không thể tin được là em nay đã ra đi, quá xót xa, đau đớn, thương tiếc đến mức không nói thành lời.
→ Nhà thơ luôn sử dụng những hình ảnh nói giảm, nói tránh để không nói trực tiếp ra một sự thật đau lòng là Lượm đã hi sinh, nhằm giảm bớt sự đau xót của mình và mọi người.
c. Hình ảnh Lượm sống mãi cùng đất nước
- Hai khổ thơ miêu tả hình ảnh chú bé đưa thư nhí nhảnh, tinh nghịch ở đầu bài thơ được lặp lại một lần nữa.
→ Việc lặp lại hình ảnh như vậy thể hiện sự tồn tại mãi mãi của Lượm trong lòng mọi người, em sẽ còn mãi với đất nước, với những người yêu quý em.
3. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
Nội dung: Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người
Nghệ thuật: thể thơ bốn chữ, kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, sử dụng từ láy,…
- Cảm nhận của em về Lượm: cảm phục, quý mến,…
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 1
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ mà tôi cảm thấy ấn tượng nhất của ông đó là “Lượm”.
Trong bài thơ, tác giả đã khắc họa hình ảnh một cậu bé liên lạc mang vẻ hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất dũng cảm, gan dạ. Mở đầu là cuộc gặp gỡ với người chiến sĩ ở Hàng Bè vào những ngày tháng thực dân Pháp trở lại xâm lược Huế. Chiến tranh xảy ra, Lượm tham gia cách mạng với tư cách là một chiến sĩ liên lạc. Cậu được miêu tả với dáng người nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn. Cùng với đó là cái xắc đeo trên vai để đựng thư, chiếc ca lô đội lệch trên đầu:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng…”
Việc sử dụng các từ láy gồm “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” kết hợp với điệp từ “cái” có giá trị gợi tả bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát của Lượm.
Không chỉ ngoại hình, chúng ta còn thấy được nét tính cách hồn nhiên của Lượm. Điều đó được thể hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Cậu đã bày tỏ với người chiến sĩ:
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí
Cháu đi xa dần”
Những từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười”, “má đỏ” đã diễn tả được tâm trạng của Lượm, đồng thời qua đó còn khẳng định việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam.
Không chỉ vậy, khi đọc bài thơ, chúng ta còn cảm thấy ngưỡng mộ với tinh thần của Lượm. Dù vẫn còn nhỏ tuổi nhưng cậu lại có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ được giao. Khi nhận được nhiệm vụ giao lá thư đề “thượng khẩn”, Lượm đã không ngại khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ. Chiến trường hiện lên thật khốc liệt:
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề Thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo”
Lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Chính vì vậy, cậu bé liên lạc đã không quản nguy hiểm để có thể nhanh chóng đưa thư. Cách nói “sợ chi” cho thấy một tâm thế chủ động của người chiến sĩ nhỏ, cậu sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm mà không hề run sợ. Hình ảnh chiếc mũ ca lô nhấp nhô trên cánh đồng lúa đang làm đòng:
“Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng”
Một mình giữa cánh đồng quê vắng vẻ nhưng cậu bé vẫn không sợ hãi mà tiếp tục làm nhiệm vụ. Điều đó cho thấy sự dũng cảm phi thường của Lượm. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ đưa thư “Thượng khẩn”:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng mẫu tươi”
Đọc đến đây, có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy đau đớn, nghẹn ngào trước sự hy sinh của Lượm:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Có lẽ đây chính là khổ thơ xúc động nhất bởi đã nói về sự hy sinh của người chiến sĩ nhỏ tuổi. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trổ đòng. Tất cả giang rộng vòng tay đón Lượm trở về với đất mẹ.
“Lượm” là một bài thơ giàu cảm xúc, mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Tố Hữu. Bài thơ đã đem đến cho người đọc những tình cảm đẹp đẽ.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 2
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thiếu nhi Việt Nam hăng hái làm theo lời dạy của Bác Hồ:
Tuổi nhỏ làm việc nhỏ,
Tùy theo sức của mình.
Nhiều bạn đã hi sinh tuổi thơ trong sáng cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc. Hình ảnh chú bé liên lạc hồn nhiên, dũng cảm trong bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại trong em niềm cảm phục sâu sắc.
Lượm theo bộ đội làm liên lạc hồi đầu kháng chiến (cuối năm 1946). Lúc này, Pháp chưa đánh rộng ra. Quân ta đóng ở đồn Mang Cá một cứ điểm quan trọng của Huế. Trong một trận tấn công vào đồn giặc, Lượm hi sinh. Tác giả biết tin, vô cùng xúc động và đã sáng tác nên bài thơ này (1949).
Bằng cách kết hợp miêu tả với kể chuyện và biểu hiện cảm xúc, nhà thơ đã khắc họa sinh động hình ảnh chú bé Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái và dũng cảm.
Thể thơ bốn chữ cùng với nhiều từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu đã góp phần tạo nên thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
Mở đầu bài thơ, tác giả dựng lại khung cảnh buổi gặp gỡ đáng nhớ giữa hai chú cháu:
Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.
Cuộc gặp gỡ đáng nhớ bởi nó diễn ra trong thời gian, không gian đặc biệt: Ngày Huế đổ máu. Huế đổ máu, Huế chiến đấu ác liệt để ngăn chặn bàn chân xâm lược của giặc Pháp vì chúng muốn chiếm lại nước ta. Ngày ấy là ngày mọi người không thể nào quên. Hoàn cảnh điển hình đó càng tô đậm thêm tính cách của nhân vật Lượm.
Trang phục của Lượm giống như trang phục của các chiến sĩ Vệ quốc bởi Lượm cũng là một chiến sĩ thực sự. Nhưng Lượm còn rất bé nên cái xắc đeo bên mình cùng chỉ xinh xinh. Chiếc mũ ca lô đội lệch bộc lộ vẻ tinh nghịch và hiếu động.
Lượm được nhà thơ miêu tả với tấm lòng yêu mến chân thành:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Dáng Lượm loắt choắt, đã nhỏ lại gầy nhưng nhanh nhẹn và tinh nghịch. Chân thì thoăn thoắt, rất nhanh và rất nhẹ. Đầu nghênh nghênh, lúc nghiêng bên này, lúc nghiêng bên kia. Nhịp thơ nhanh gợi lên hình ảnh chú bé vui tươi, nhí nhảnh, yêu đời.
Đặc điểm bên ngoài phần nào đã thể hiện tính cách bên trong của Lượm. Ca lô không chịu đội thẳng mà đội lệch. Miệng luôn huýt sáo vang. Lượm chẳng khác nào như con chim chích bé nhỏ nhảy trên đường vàng.
Lượm hồn nhiên kể chuyện:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà
Bấy giờ, cái gian khổ của kháng chiến trường kì chưa tới. Mọi người đang sống trong không khí phấn khởi hào hứng của độc lập, tự do sau Cách mạng tháng Tám. Cái vui của Lượm bắt đầu từ niềm vui của đất nước, của dân tộc. Lượm vui trong lòng, vui ngoài nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, lời nói. Tưởng chừng cái xắc cũng vui lây, cũng nhún nhảy theo nhịp chân của chú bé. Đeo xắc là dấu hiệu của người làm cán bộ. Lượm thấy oai lắm, ra vẻ lắm nên tỏ ra rất tự hào.
Giống như các bạn cùng lứa tuổi, Lượm rất hiếu động. Đặc điểm này đã được hướng vào những công việc có ích cho kháng chiến. Hình ảnh Lượm lúc chia tay tác giả thật đẹp và đầy sức sống:
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Cả câu: Thôi chào đồng chí! cũng mang dấu ấn của niềm vui. Lượm chào chú bằng đồng chí, rất tinh nghịch, dí dỏm, mà cùng rất nghiêm túc, bởi Lượm đã tham gia kháng chiến.
Đoạn thơ dùng thể thơ bốn chữ, nhịp nhanh, cùng nhiều từ láy (loắt choắt, thoăn thoắt, nghênh nghênh) góp phần thể hiện hình ảnh Lượm - một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi) say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.
Câu chuyện của Lượm trong chuyến đi liên lạc cuối cùng được kể qua lời của người kể với những cảm xúc đau xót, tiếc thương, tự hào được biểu hiện trực tiếp và qua cả cách nhìn, cách miêu tả.
Khi nghe tin Lượm hi sinh, tác giả đau đớn thốt lên: Ra thế Lượm ơi!...
Kỉ niệm về cuộc gặp gỡ với chú bé liên lạc còn tươi nguyên trong lòng nhà thơ thì bỗng dưng có tin chẳng lành. Câu thơ bình thường bỗng nhiên bị ngắt làm đôi. Ám hiệu ngập ngừng và dấu chấm than thể hiện tâm trạng ngạc nhiên và xúc động đến bàng hoàng.
Tác giả hình dung ra tình huống hi sinh của Lượm thật cụ thể. Cũng như bao lần đi làm nhiệm vụ, Lượm dũng cảm, nhanh nhẹn, hăng hái và đầy quyết tâm, không nề nguy hiểm:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo
Chiến trường đầy khói lửa nhưng Lượm vẫn xông pha làm nhiệm vụ. Bỗng lòe chớp đỏ, Thôi rồi Lượm ơi! Kể lại, hình dung lại sự việc mà tưởng chừng như tác giả đang tận mắt chứng kiến cái giây phút đau đớn ấy nên không kiềm chế được, tự đáy lòng bật thốt lên tiếng kêu đau đớn. Câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào đầy xót thương và cảm phục của tác giả của chúng ta trước cái chết bất ngờ của người chiến sĩ nhỏ. Chú bé đã hi sinh anh dũng giữa tuổi thiếu niên hồn nhiên, tươi trẻ đầy hứa hẹn. Nhà thơ không dừng lâu ở nỗi đau xót mà ông cảm nhận rằng sự hi sinh của Lượm rất đỗi thiêng liêng, cao cả. Chú như một thiên thần bé nhỏ yên nghỉ trên cánh đồng quê hương. Lượm đã hóa thân vào đất mẹ:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Bao quanh Lượm là sự sống mơn mởn đang lên. Hương lúa thơm như mùi sữa mẹ. Sự hi sinh của Lượm vô cùng nhẹ nhàng, thanh thản. Câu thơ: Hồn bay giữa đồng khẳng định tinh thần bất tử của Lượm. Lượm đã chết cho quê hương xứ sở.
Câu thơ Lượm ơi, còn không? là một câu hỏi tu từ được tách ra thành một khổ thơ riêng có tác dụng nhấn mạnh, đặc tả nỗi đau đớn xót xa và niềm bâng khuâng, nhớ tiếc khôn nguôi của tác giả.
Hai khổ thơ cuối lặp lại như một điệp khúc khắc sâu hình ảnh đẹp đẽ của Lượm trong tâm hồn mọi người:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Lượm là bài thơ hay trong số những bài viết về tuổi nhỏ Việt Nam hồn nhiên, dũng cảm. Em thấy Lượm rất xứng đáng với những gương sáng của thanh thiếu niên thế hệ trước như Lí Tự Trọng, Kim Đồng; xứng đáng là đàn anh của những anh hùng dũng sĩ thiếu niên như Nguyễn Bá Ngọc, Kpa Klơng, Nguyễn Văn Hòa... thời đánh Mĩ.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 3
Lượm là bài thơ rất tiêu biểu cho thơ Tố Hữu trên nhiều phương diện, về mặt hình tượng, Lượm là một nhân vật nằm trong hệ thống những nhân vật trở đi trở lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, nhất là trong tập thơ Việt Bắc: những bà mẹ, người chị, anh bộ đội, đứa em,... nghĩa là hình ảnh một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Giọng kể, cách kể trung thực và sinh động trong một bài thơ bốn chữ với tiết tấu nhanh thích hợp với nhân vật được kể. Bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa nhà thơ và nhân vật, chuyến đi liên lạc cuối cùng, sự hi sinh dũng cảm của em, kết thúc là những cảm nghĩ của nhà thơ về "con người không chết" ấy.
Hình tượng nhân vật Lượm, trong năm khổ thơ đầu nếu chuyển từ thơ ca sang kí họa miêu tả chân dung, ta thấy đó là một người có thật, từ trang phục đến dáng đi, cử chỉ, lời nói. Nhưng giá trị của bức tranh không chỉ dừng lại ở những nét vẽ ngoại hình. Hoặc nói khác đi, từ những đường nét có thật của ngoại hình, vẻ đẹp bên trong của em được bộc lộ. Đó mới là điều tạo nên ấn tượng sâu sắc với nhà thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Giọng thơ dĩ nhiên là theo lời kể, một cách kể nhịp nhàng, về trang phục và dáng đi, cả nét người, khuôn mặt. Những từ "cái" đặt ở đầu câu tạo nên một cấu trúc hệ thống, vừa lặp lại vừa rất đáng ngạc nhiên hay là cảm giác ngạc nhiên trong sự lặp lại. Thích hợp với hệ thống ấy, là một loạt những tính từ, động từ chỉ vật (đồ vật) và chỉ người hoàn toàn bằng từ láy. Có những từ láy gần âm và gần nghĩa (giữa "thoăn thoắt" và "loắt choắt") bổ sung cho nhau tạo ấn tượng về sự nhỏ bé và nhanh nhẹn, nhưng cũng có những từ láy mà cả âm và nghĩa đều khác xa nhau: "xinh xinh" với "nghênh nghênh" chẳng hạn: "xinh xinh" là vẻ đẹp tươi tắn, hồn nhiên (hòa hợp giữa trang phục với dáng người thấp nhỏ), còn "nghênh nghênh" tạo dáng một trẻ em mới lớn cả sức vóc và ý chí, mong muốn sớm tự khẳng định mình. Tính đồng bộ về sự ăn nhập ngoại hình phải đến câu tiếp theo "Ca lô đội lệch", và chỉ chờ có thế là một niềm vui oà ra, cất cánh:
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
So sánh đã thay dần cho tả thực, một tính cách đã định hình. Nhà thơ không chỉ quan sát, nhìn ra mà là cảm thấy. Con đường mà em Lượm đang đi cứ lớn rộng dần ra, và là con đường rất đẹp (đường vàng). Hình ảnh con đường mang nhiều lớp nghĩa vừa chỉ hướng đi, vừa chỉ hướng dời. Đặt chân vào con đường ấy (con đường kháng chiến của toàn dân), em như bước vào ngày hội ("Mồm huýt sáo vang"). Nhịp thơ không chỉ thể hiện bước đi nhanh và ngắn như ở khổ hai mà dài hơn, xa hơn và thay cho "đi" là "nhảy". Những điệp từ và từ láy không còn cũng vì lí do ấy. Sự lớn lên trong tâm hồn, trong tư tưởng ở em giống như một bước nhảy vọt trong khi về dáng dấp, hình hài vẫn là một đứa trẻ thơ. Chính sự không ăn khớp đến so le này đã tạo cho Lượm một vẻ đẹp riêng, vượt qua cái khác lạ hình thức bên ngoài (ngộ nghĩnh) có tính chất đơn lẻ, cá nhân mà vươn tới một vóc dáng tinh thần khác mang âm vang cái hào hùng có tính chất thời đại, có tính chất toàn dân. Chỉ có điều cái "khác thường" ấy thống nhất với cái bình thường. Đứa trẻ bình thường ấy đã rất hồn nhiên:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà !
Có lẽ niềm vui lớn nhất cần được chia sẻ lúc này là niềm vui của con cá tung tăng được từ suối, ra sông, ra biển. Lượm đã là con của đất nước "con của vạn nhà" chứ không chỉ hạn hẹp là con của một nhà. Thơ không phân tích lí giải mà đơn giản chỉ giãi bày thì đó cũng là một dấu hiệu về sự hồn nhiên, hợp với tuổi nhỏ. Cũng như tâm lí thích làm người lớn, tập làm người lớn là biểu hiện của cái háo hức bên trong không giấu được của mình:
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí!
Cháu đi xa dần...
Một từ "đồng chí" mà náo nức, xôn xao. Đó là ngôn ngữ mà cũng là tiếng reo vang khi người ta có thể giã từ tuổi thơ để bước vào đội ngũ. Một thế giới mới lạ mở ra, cho dù dấu vết của tuổi thơ còn đó (cười híp mí, má đỏ bồ quân). Với nhà thơ, những kỉ niệm ấy làm sao có thể dễ dàng quên, quên đi lớp thiếu niên của nước Việt Nam độc lập, quên đi đứa cháu thật đáng tự hào và cũng rất đáng yêu của mình như thế? Trong hành trang của nhà thơ, hình tượng bé Lượm là một sự cổ vũ lớn, có một vị trí không gì thay thế được.
Giá như Lượm không mất thì chưa chắc Tố Hữu đã có được bài thơ cảm động này. Thì ra, sự ác liệt của chiến tranh đã không loại trừ một ai kể cả những em nhỏ chưa kịp thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, dũng cảm hi sinh. Hình ảnh ấy đã trở nên một thứ tượng đài bất tử. Đoạn thơ nói về cái chết anh dũng của em bắt đầu từ câu: "Ra thế - Lượm ơi!".
Một câu thơ tưởng như đơn giản vậy thôi mà hội đủ ba tính chất: nhất quán, cao trào và đột biến. Nói nhất quán vì đây là một bài thơ kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự. Tự sự là mạch nối, còn mạch chìm là cảm xúc của nhà thơ. Nói cao trào vì đây là những nỗi niềm của nhà thơ dâng lên cực điểm. Còn nói đột biến vì dòng cảm xúc từ yêu thương, phấn khởi đã thành đột ngột, hụt hẫng, đau đớn, rụng rời. Câu thơ tự nó vỡ ra thành hai nhịp, tự nó cắt rời với những khoảng trống xót xa. "Ra thế" thuộc về câu chuyện chú bé hi sinh, còn "Lượm ơi!" là tiếng khóc thầm thì bật lên thành nức nở? "Ra thế" thuộc về khách quan, còn "Lượm ơi!" thuộc về chủ quan, về nỗi đau của trái tim nhà thơ như viên đạn bắn vào. Từ cảm xúc tức thời ấy mà câu chuyện trong cái kênh "tin nhà" kia được kể lại, tất nhiên là trong tưởng tượng mà nhà thơ có thể hình dung:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao...
Chuyển thư từ, mệnh lệnh là nhiệm vụ hằng ngày của những em bé "liên lạc" như Lượm thì có gì phải kể? Nhưng mà không. Yếu tố tự sự của lời kể bỗng nhiên có ý nghĩa khi nó kết hợp làm một với yếu tố trữ tình, thông qua yếu tố trữ tình. Yếu tố trữ tình ở đây thể hiện trong việc sử dụng một thứ thời gian không xác định "Một hôm nào đó - Như bao hôm nào". Có một cái gì thật mơ hồ, một phần có lẽ vì trong chiến tranh người ta không nhớ được thật cụ thể (ngày, giờ), một phần diễn tả đúng được tính cách vô tư của Lượm. Em có biết đâu đấy là ngày định mệnh của mình. Khổ thơ chuẩn bị cho cái chết của nhân vật ở đoạn sau. Cái chết đang đến gần mà Lượm không biết, nhưng người kể thì đâu có vô tâm. Chính với ý thức ấy mà nhà thơ thay đổi đại từ xưng gọi, những đại từ đơn: cháu, chú bé, Lượm... bằng một đại từ ghép: chú đồng chí nhỏ. Cách gọi tên trang trọng này tương ứng với hành động, với sự kiện hi sinh. Vị trí của người kể chuyện khi thì hòa nhập vào nhân vật được kể, khi thì tách ra với cự li cần có để đảm bảo tính khách quan của việc trần thuật:
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo?
Đối mặt với cái chết mà Lượm không hề nghĩ đến nó mặc dù nó có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Vì yêu cầu của nhiệm vụ, Lượm đã vượt lên tất cả, đó là trường hợp tác giả đã hóa thân vào nhân vật của mình. Còn khổ thơ sau đó, ông trở lại vị trí của người quan sát:
Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng...
Tách nhà thơ ra khỏi nhân vật được kể trong thơ, nhưng thi sĩ đã tạo nên một sự hòa nhập mới giữa nhân vật trẻ thơ của mình với đồng quê, ruộng lúa, những gì thật gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Chất biểu cảm trữ tình trong thơ tự sự toả ra theo một cách riêng từ phía ấy. Và chính nó làm cho người theo dõi lo lắng đến thắt lòng. Kẻ thù (đồng nghĩa với cái chết) thì tàn bạo, hiểm độc mà chú bé của chúng ta trong trẻo, thơ ngây như một tiên đồng. Cái hồn nhiên thần thánh ở nhân vật là ở chỗ: trước họng súng của kẻ thù, em vẫn không biết giấu mình, cứ lồ lộ, không hề quan tâm đến hiểm họa bao vây. Bởi vậy, khi cái chết ập đến, câu thơ như có gì vỡ ra thật đau đớn, nghẹn ngào. Giọng trần thuật không còn ở dạng thông thường. Thay thế cho nó là một tiếng kêu thảng thốt cất lên. Tâm trạng của nhà thơ qua câu: "Thôi rồi, Lượm ơi!" chẳng những như người bước hụt mà còn có gì như bâng khuâng nửa mê nửa tỉnh. Cảm giác không tin là có thật, vì bé Lượm, vì chú tiên đồng làm sao có thể chết? Nhưng sự thực đau xót "Một dòng máu tươi" lại không thể không tin. Chỉ có điều kẻ thù cướp đi mạng sống mà không giết được cái thanh thản, hồn nhiên của một tâm hồn thơm mùi đồng quê gặt hái.
Đoạn thứ ba của bài bắt đầu bằng một câu thơ đặc biệt: "Lượm ơi, còn không?". Đặc biệt vì lẽ thứ nhất: nó tách ra thành một dòng riêng, không ăn nhập với khổ nào. Và lẽ thứ hai: không tự sự, cũng không trữ tình, nó khái quát triết học về lẽ còn mất, trước một cao cả nhân sinh. Để sau đó, hai khổ tiếp theo như một luận chứng tâm hồn: Lượm không bao giờ mất đi trong niềm mến yêu, nhớ tiếc. Lượm vẫn sống trong lòng đồng chí, đồng bào. Cấu trúc trùng điệp (hai khổ kết lặp lại hai khổ đầu của bài thơ) như một âm vang bất tử. Nó vừa là câu hỏi, vừa là những hồi âm. Sự hô ứng trong bài thơ này dễ tạo nên ở người đọc sự tri âm, đồng điệu.
Về nghệ thuật bài thơ, Tố Hữu đã bắc được một cái cầu nối với bạn đọc nhỏ tuổi bằng thể thơ bốn chữ thật trong trẻo, hồn nhiên như bà kể cho cháu, mẹ kể cho con. Cách kể cũng không một chiều, đơn điệu. Tuy vẫn sử dụng cấu trúc đường thẳng, lấy trục thời gian làm điểm tựa nhưng khi trực tiếp (đoạn một), lúc gián tiếp (đoạn hai), kết hợp giữa miêu tả (đoạn một, đoạn hai) với độc thoại (đoạn ba). Tính sinh động của bài thơ còn thể hiện ở sự ngắt nhịp như những nốt lặng trên dòng chảy tâm tình. Những khổ thơ đặc biệt như "Ra thế - Lượm ơi!", hoặc "Lượm ơi, còn không?" là những cơ hội giao tiếp (giữa nhà thơ với bạn đọc, giữa nhà thơ với nhân vật), cũng là cơ hội mà tác giả bộc lộ tâm tình. Một dụng ý không thể không nói là nhà thơ đặt nhân vật anh hùng nhỏ tuổi vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung, ngọt ngào rất quen thuộc. Với Lượm, thiên nhiên ấy như một thứ khí trời, về với nó, cá được về với nước. Sự quấn quýt giữa Lượm với cánh đồng quê phảng phất một tình mẫu tử thân thiết lạ lùng, có một cái gì thật thanh khiết bản năng. Đó là nơi ra đi (đi chiến đấu), cũng là bờ bến trở về (lúc hi sinh):
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Thiên nhiên ấy, với đầu óc còn thơ ngây của Lượm, nó chính là quê hương, và rộng hơn: nó là đất nước.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 4
Hình ảnh Lượm trong bài thơ cùng tên của tác giả Tố Hữu đã để lại dư âm, ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đó là một em bé hồn nhiên, tinh nghịch yêu đời nhưng cũng vô cùng dũng cảm, kiên cường. Gấp cuốn sách lại có lẽ không ai có thể quên được chân dung, tính cách, phẩm chất quý báu của cậu bé ấy.
Hình ảnh Lượm hiện lên thật hồn nhiên, tinh nghịch qua lời kể của người chiến sĩ, nét hồn nhiên ấy thấm đượm trong cả ngoại hình, trang phục và hành động. Hình ảnh hồn nhiên của chú bé luôn hiện hữu, nhảy nhót trước mắt người đọc với cái dáng loắt choắt, bé nhỏ, những bước chân thoăn thoắt đeo bên mình chiếc xắc để đựng những phong thư chuyển đi khắp các chiến tuyến:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Công việc của chú bé vô cùng quan trọng và cũng chứa đầy sự hiểm nguy, nhưng trên gương mặt chú bé vẫn luôn giữ được nét hồn nhiên, ngây thơ: cười híp mí, má đỏ bồ quân; có nét tinh nghịch rất trẻ con: miệng huýt sáo vang, “Như con chim chích/ Nhảy trên đường vàng” . Tác giả quả thật tài tình, khi đã tìm được một hình ảnh so sánh đẹp đẽ và chính xác đến vậy để nói về sự tinh nghịch của Lượm. Có lẽ không có hình ảnh nào phù hợp hơn hình ảnh những chú chim chích non, bé nhỏ di chuyển từ cành này qua cành khác để ví von với Lượm.
Qua hình ảnh này, ngoài nét hồn nhiên người đọc còn thấy được sự yêu đời của chú bé. Lời tâm sự của Lượm với người chiến sĩ cũng rất hồn nhiên: “Cháu đi liên lạc/ Vui lắm chú à/ Ở đồn Mang Cá/ Thích hơn ở nhà”, lời nói nhỏ đầy chân thật đó không chỉ cho thấy tinh thần làm việc hăng say, mà còn thể hiện niềm vui, sự hân hoan khi được hoạt động cách mạng, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc kháng chiến của dân tộc. Tinh thần yêu nước đó càng làm người đọc cảm phục và yêu mến Lượm hơn.
Lời chào cuối cùng giữa Lượm và anh chiến sĩ cũng thật ngộ nghĩnh: “Thôi chào đồng chí!” . Lời chào thể hiện tinh thần làm việc nghiêm trang của em. Không những vậy còn cho thấy niềm tự hào, kiêu hãnh nhưng cũng vô cùng đáng yêu của chú bé khi được đứng vào hàng ngũ những người tham gia cách mạng.
Mưa bom bão đạn đã cướp đi sinh mạng của Lượm trong một lần chú bé đi liên lạc. Vô vàn hiểm nguy phía trước không thể ngăn cản bước chân anh dũng của Lượm, chú bé “Vượt qua mặt trận/ Đạn bay vèo vèo” bởi việc đưa thư là quan trọng nhất nên một vài nguy hiểm kia có là gì với chú bé. Người đọc giật mình, sững sờ trước cái chết quá đỗi bất ngờ: “Bỗng lòe chớp đỏ/ Thôi rồi, Lượm ơi!/ Chú đồng chí nhỏ/ Một dòng máu tươi!” . Làm sao có thể tin nổi chú bé sôi nổi, nhiệt huyết, đầy tinh thần trách nhiệm ấy lại hi sinh.
Câu thơ “Thôi rồi, Lượm ơi!” được ngắt làm đôi cùng với hình thức câu cảm thán, không chỉ là tiếng nấc nghẹn của tác giả, mà khi đọc đến đây độc giả cũng phải ngưng lại bởi nỗi xót xa, đau đớn trào dâng. Câu thơ đã chạm đến những nỗi niềm cảm xúc sâu kín nhất trong lòng mỗi người đọc. Chú bé hi sinh, trở về với thiên nhiên, với đất mẹ thân yêu, tay em vẫn nắm chặt bông lúa, dù đã mất nhưng hình ảnh về sự hồn nhiên, đáng yêu và tinh thần quả cảm của em thì vẫn mãi sống trong lòng mọi người, hồn em mãi trường tồn cùng non sông, đất nước.
Góp phần tạo nên những dòng thơ thấm đẫm cảm xúc, tràn đầy xúc động không thể không kể đến những nét đặc sắc trong nghệ thuật của tác phẩm. Tố Hữu đã tỏ ra rất tài tình khi sử dụng thể thơ bốn chữ, nhịp thơ linh hoạt, sử dụng thành thạo các từ láy giàu giá trị tạo hình, lớp ngôn từ dồn nén cảm xúc đã tô đậm, làm rõ những phẩm chất đẹp đẽ của Lượm.
Gấp lại cuốn sách, dư âm, hình ảnh người anh hùng dũng cảm Lượm vẫn còn đọng mãi trong lòng người đọc. Lượm là đại diện tiêu biểu cho thế hệ anh hùng Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hi sinh vì sự độc lập, tự do của đất nước. Thế hệ trẻ chúng ta được sống trong hòa bình, tự do là nhờ công ơn to lớn của ông cha, bởi vậy, cần phải sống sao cho xứng đáng với thế hệ trước.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 5
Khi đất nước có ngoại xâm, khi nền độc lập của dân tộc bị đe dọa bởi vó ngựa của quân xâm lược thì người Việt Nam lại vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, dùng sức mạnh của mình để đánh bại dã tâm cũng như những âm mưu thâm độc, tàn bạo của kẻ thù. Và trong cuộc chiến đấu cam go, ác liệt đó người dân Việt Nam đều đồng khởi nổi dậy đấu tranh chống giặc, không chỉ những người trai tráng khỏe mạnh mà ngay cả những người phụ nữ, những người già cũng đứng lên đấu tranh. Mà đặc biệt hơn nữa, ngay cả những đứa trẻ Việt Nam, khi đất nước có chiến tranh cũng mang lòng căm thù và quyết tâm giúp sức cho cách mạng. Và hình ảnh của những chú bé liên lạc viên này được nhà thơ Tố Hữu tái hiện sống động qua bài thơ “Lượm”.
Dù tuổi đời còn nhỏ nhưng những chú bé này đã có những nhận thức sâu sắc về thực trạng của đất nước mình, cũng từ đó mà mang quyết tâm đấu tranh, góp sức vào công cuộc giải phóng đất nước, quê hương. Vì còn nhỏ nên những chú bé này không thể cầm súng ra trận địa đấu tranh trực tiếp với quân giặc mà làm những công việc đơn giản nhưng cũng không kém phần nguy hiểm, đó là những chú bé liên lạc viên, là người truyền báo tin tức cho quân ta từ vùng này sang vùng kia, trận địa này sang trận địa kia. Ta cũng phải thấy được đây là công việc rất nguy hiểm bởi tính bảo mật của thông tin cũng như việc phải đương đầu với sự giám sát của kẻ thù. Trước hết, nhà thơ Tố Hữu đã kể lại cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ của chính nhà thơ với cậu bé này
“Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè”
Sau khi kể về cuộc gặp gỡ tình cờ với chú bé liên lạc viên, nhà thơ Tố Hữu đã đi đến khắc họa vóc dáng cũng như thần thái hồn nhiên, vô tư của một cậu bé:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Đó là một chú bé liên lạc ở độ tuổi khá nhỏ, nhà thơ tuy không trực tiếp khắc họa về độ tuổi cũng như dự đoán về độ tuổi của cậu bé này nhưng qua dáng vẻ mà nhà thơ đã khắc họa ta có thể thấy được đây là một cậu bé còn rất vô tư, hồn nhiên, thể hiện ở ngay cái dáng vẻ “loắt choắt”, đôi chân nhanh nhẹn “thoăn thoắt” trên đường. Và cái vẻ hồn nhiên của cậu bé còn thể hiện ở sự vô tư, yêu đời của cậu bé “Cái đầu nghênh nghênh”, câu thơ vừa thể hiện được vẻ hồn nhiên vừa thể hiện được sự tò mò của cậu bé về thế giới xung quanh, cũng thể hiện sự vô tư, không hề có sự lo sợ hay mảy may lo lắng gì về cuộc sống chiến trường xung quanh mình:
“Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng”
Vẻ nghịch ngợm của cậu bé Lượm này còn thể hiện ngay trong cái dáng đội mũ của mình, chiếc mũ ca lô không được đội một cách nghiêm chỉnh mà bị làm cho lệch đi, có thể đây là do cậu bé cố tình đội như vậy hoặc do mải mê vui đùa trên đường làm nhiệm vụ mà chiếc mũ vô tình bị gió làm cho lệch. Trái hẳn với tính chất công việc, cậu bé Lượm lúc nào cũng yêu đời, cậu hút sáo, chân chạy nhảy như con “chim chích” trên đường. Trong không khí dữ dội của chiến tranh vào thời điểm mà bài thơ được ra đời, hình ảnh yêu đời vô tư, ngây thơ của cậu bé thật gần gũi, chân thực gợi cho người đọc cảm giác đây là một đứa trẻ đang vui chơi chứ không phải làm nhiệm vụ.
Chú bé Lượm cũng có cái vẻ lém lỉnh, hài hước đúng với tính chất lứa tuổi của mình, khi gặp tác giả cậu bé đã cười híp mắt, đôi má thì đỏ “bồ quân” và chào nhà thơ bằng lời chào của những người đồng chí thực thụ, nhưng ta vẫn cảm nhận được sự trẻ con trong câu chào ấy: “Thôi, chào đồng chí”. Dù nghịch ngợm ấy, lém lỉnh đấy nhưng chú bé này không bao giờ quên nhiệm vụ mà mình đã được giao, không vì mải mê vui chơi mà quên mất việc đưa tin của mình “Cháu đi đường cháu”.
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “Thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo”
Nhìn dáng vẻ trẻ con, hồn nhiên của Lượm ai nghĩ được cậu bé có thể hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn của mình. Nhưng đến câu thơ này vẫn hình ảnh vô tư hồn nhiên ấy, nhưng Lượm lại hiện lên như những người chiến sĩ giải phóng quân thực thụ, dù không khí mưa bom bão đạn xung quanh, mạng sống có thể mất bất cứ lúc nào nhưng cậu bé không hề sợ, không phải cậu bé không sợ chết mà vì thư cậu bé đang mang có đề “Thượng khẩn” tức là những thông tin mật rất gấp rút không thể chậm trễ vì vậy mà cậu bé bất chấp lao vào vòng đạn đạo “Sợ chi hiểm nghèo”. Những hành động của chú bé Lượm khiến người đọc không thôi cảm phục vì còn nhỏ nhưng chí khí lại không nhỏ chút nào.
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi”
Khổ thơ này nhà thơ Tố Hữu thể hiện sự bàng hoàng trước sự ra đi của chú bé Lượm, đó là khi nhà thơ chứng kiến cảnh Lượm bị trúng đạn địch và ra đi. Hình ảnh “dòng máu đỏ tươi” thật gây ám ảnh. Nó không chỉ làm cho nhà thơ mà cả người đọc cũng hết sức bàng hoàng, thương xót đến cực hạn, hình ảnh chú bé ngây thơ, yêu đời nằm đó, trên những bông lúa thật gây xúc động, đánh động vào tâm can của người đọc:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Vậy là chú bé Lượm đã ra đi, sự hồn nhiên yêu đời của chú bé chỉ còn lại trong hồi ức của nhà thơ cũng như trong tâm trí của người đọc. Hình ảnh Lượm nằm trên lúa khiến cho người đọc rơi nước mắt vì thương cảm, đau lòng vì chú bé đáng yêu ấy đã hi sinh sinh mạng bé nhỏ của mình, đó là sự dâng hiến cho quê hương, cho đất nước, dù có mất đi rồi thì hồn của cậu bé vẫn vương vấn nơi cánh đồng thơm mùi lúa. Dù mất đi rồi thì Lượm vẫn cậu bé Lượm mãi sống trong tâm trí của người đọc, đó là một hình ảnh thật đẹp.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 6
Bài thơ Lượm sáng tác năm 1949, được in trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Khi đọc tác phẩm này, trước mắt tôi hiện lên hình ảnh về một cậu bé liên lạc vẫn còn hồn nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh. Cậu xuất hiện trong bài thơ với dáng người bé nhỏ bé. Cùng với đó là chiếc mũ ca lô luôn đội lệch trên đầu. Bé nhỏ nhưng thật nhanh nhẹn và hoạt bát. Cụm từ “cái chân thoăn thoắt” đã phần nào nói lên điều đó:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng”
Tố Hữu đã sử dụng vô cùng khéo léo các từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” cộng với điệp từ “cái” để gợi tả cho người độc về ngoại hình của cậu bé. Một chú bé nhanh nhẹn, tinh nghịch và cũng thật hồn nhiên, ngây thơ.
Tiếp tục đọc đến những câu thơ tiếp theo, tôi còn thấy được sự hồn nhiên đó còn được qua niềm vui của Lượm được làm liên lạc. Lời đối thoại của cậu với tác giả đã giúp ta khẳng định được Lượm rất vui sướng khi được trở thành người chiến sĩ nhỏ:
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí
Cháu đi xa dần”
Những từ ngữ miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười” cho thấy sự thích thú của cậu khi được làm nhiệm vụ liên lạc. Một cậu bé nhỏ tuổi như lượm đáng lẽ trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt chỉ mong muốn được ở nhà bên cha mẹ. Nhưng ở đây cậu lại thích đi làm liên lạc, ở đồn Mang Cá hơn là ở nhà. Đọc đến đây, tôi càng ngưỡng mộ hơn về sự dũng cảm, gan dạ của Lượm.
Lượm còn là một cậu bé có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao. Sự dũng cảm đó được thể hiện qua việc không sợ nguy hiểm:
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề Thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo”
Với lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Cậu bé liên lạc đã không quản nguy hiểm để có thể nhanh chóng đưa thư. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Trong lòng cậu không hề sợ hãi nguy hiểm xung quanh mình mà chỉ nghĩ đến nhiệm vụ cấp bách cần phải hoàn thành lúc này. Hình ảnh chiếc mũ ca lô nhấp nhô trên cánh đồng lúa đang làm đòng:
“Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng”
Một mình giữa cánh đồng quê vắng vẻ nhưng cậu bé vẫn không sợ hãi mà tiếp tục làm nhiệm vụ của mình. Điều đó cho thấy sự dũng cảm phi thường của một Lượm. Nhưng rồi, thật xót xa khi đọc những câu thơ tiếp sau đó, chú bé liên lạc dũng cảm của chúng ta đã hy sinh:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng mẫu tươi”
Giọng thơ đến đây trở nên nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Lượm ngã xuống nhưng hồn Lượm vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Đây có lẽ là khổ thơ hay nhất nói về sự hi sinh của những người chiến sĩ. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trổ đòng... Tất cả giang rộng vòng tay đón Lượm trở về với đất mẹ. Tuy rằng Lượm đã ra đi, nhưng chắc chắn vẫn còn những cậu bé liên lạc như Lượm tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của cậu trên con đường giành lại độc lập cho đất nước.
Tóm lại, qua bài thơ “Lượm”, Tố Hữu đã khắc họa được hình ảnh chú bé liên lạc một cách vô cùng chân thực. Khi đọc xong bài thơ này, tôi như cảm phục thêm về một thế hệ Việt Nam anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân, tính mạng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, đặc biệt là những chú bé liên lạc như trong bài thơ.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 7
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ nổi tiếng của ông đó chính là “Lượm” đã đem đến những giá trị tinh thần to lớn cho lớp thanh niên yêu nước, là bài ca hồn nhiên cổ vũ cho cách mạng Việt Nam.
Lượm mở đầu bằng hoàn cảnh Tố Hữu đã gặp được chú bé liên lạc Lượm. Đó là “ngày Huế đổ máu” - khi Huế bắt đầu cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần hai, lúc này tác giả có dịp ra Hà Nội và tình cờ gặp Lượm một cậu bé liên lạc, dũng cảm.
Nhà thơ đã khắc họa trước mặt người đọc hình ảnh một cậu bé Lượm hiện lên với một vẻ tinh nghịch, đáng yêu:
“Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…”
Dáng người nhỏ “loắt choắt”, với hành trang là một cái xắc nhỏ “xinh xinh”. Và đôi chân nhanh nhẹn “thoăn thoắt” cùng cái đầu lúc nào cũng ngó nghiêng “nghênh nghênh”. Tác giả dùng những từ láy đặc biệt như vậy để miêu tả dáng vẻ của nhân vật Lượm khiến cho hình ảnh cậu trở nên sinh động gần gũi. Đọc những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, cùng với sử dụng các từ láy làm cho giọng thơ trở nên nhịp nhàng, vui tươi, càng phù hợp với độ tuổi của nhân vật Lượm hơn. Câu luôn hồn nhiên, vô tư như những đứa trẻ khác, cái miệng nhỏ xinh “huýt sáo vang” tạo nên những khúc nhạc nhí nhảnh, đôi chân nhỏ nhắn nhảy chân sáo trên con đường làng thân thuộc, khiến Tố Hữu liên tưởng đến loài chim chích nhỏ nhắn và đáng yêu.
Nhưng điều khiến chúng ta cảm thấy ấn tượng hơn chính là lòng dũng cảm của Lượm:
“Cháu đi liên lạc,
Vui lắm chú à.
Ở đồn Mang Cá,
Thích hơn ở nhà!”
Cháu cười híp mí,
Má đỏ bồ quân:
- “Thôi, chào đồng chí!”
Cháu đi xa dần…”
Tuy còn nhỏ nhưng Lượm lại tham gia công việc làm liên lạc, vận chuyển thư từ cho bộ đội ta - một công việc nguy hiểm, cần sự thông minh, nhanh nhạy và lòng dũng cảm mà không phải đứa trẻ nào cũng có được. Ẩn chứa trong thân hình bé nhỏ ấy là một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, tuy em tuổi còn nhỏ nhưng cũng chẳng thua kém bất kỳ người trưởng thành nào. Công việc em đang làm đã góp phần rất to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chính tỏ ý thức giác ngộ cách mạng trong Lượm đã xuất hiện từ rất sớm, đánh dấu một tài năng, một tâm hồn lớn đáng ngưỡng mộ và tự hào. Với bản thân Lượm, công việc này không chỉ là nhiệm vụ mà nó còn là một niềm vui, niềm đam mê. Câu không thích ở nhà mà muốn tham gia góp sức vào công việc chung của đất nước.
Đặc biệt là hình ảnh Lượm đưa thư “Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo” đầy hung hiểm chứng minh khí chất anh hùng và lòng dũng cảm của cậu bé chẳng ngại gian khó, quên mình vì nhiệm vụ “thượng khẩn” thì “sợ chi hiểm nghèo”. Thử đặt mình vào trong hoàn cảnh như vậy, đến một người trưởng thành đôi khi còn cảm thấy sợ hãi. Vậy mà ở đây chú bé liên lạc này lại chẳng chút sợ hãi. Thế mới cảm nhận được sự dũng cảm của một chiến sĩ nhỏ tuổi.
Nhưng rồi bỗng Tố Hữu bật thốt lên trong sửng sốt và đau đớn “Thôi rồi/Lượm ơi”. Lượm đã anh dũng hy sinh vì nhiệm vụ, hình ảnh “một dòng máu tươi” như đánh thẳng vào trái tim người đọc, khiến dòng nước mắt chỉ trực trào ra, thương tiếc cho người chiến sĩ nhỏ tuổi anh hùng. Em đã hy sinh khi tuổi đời còn xanh đến thế, thân em nằm trên lúa, đôi tay còn nắm chặt lấy bông đầy lưu luyến, em chưa muốn đi, em vẫn chưa làm được gì nhiều cho cách mạng cho quê hương mà, thật tàn nhẫn và đau thương quá. Xung quanh phảng phất hương thơm của sữa lúa, hồn em “bay giữa đồng”.
Những dòng thơ cuối tuy lặp lại những câu thơ đầu bài, nhưng lại mang một sắc thái khác, đau thương khôn tả. Đó giống như là những hoài niệm về một cậu bé hồn nhiên, vui tươi thuở ban đầu, nay đã về với đất mẹ thân yêu. Tuy đau thương nhưng cái chết của Lượm là cái chết anh hùng và đầy tự hào, không hề bi lụy, vật vã, Lượm hi sinh đã để lại cho những người ở lại một bài học to lớn, một tấm gương sáng mãi muôn đời về lòng dũng cảm cùng tinh thần cách mạng sâu sắc, mãi mãi vì một nền độc lập hoàn toàn cho dân tộc.
Bài thơ Lượm đã để lại cho bạn đọc yêu thơ Tố Hữu một ấn tượng sâu sắc. Những cảm xúc đơn giản được khơi gợi nhưng có sức lắng đọng. Đồng thời người đọc càng thêm tự hào về một thế hệ trẻ của đất nước Việt Nam anh hùng.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 8
Trong những năm tháng cam go của dân tộc, tất cả mọi người dân Việt Nam ta từ già trẻ, gái trai, ai ai cũng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trong đó, hình ảnh những cậu bé đang lứa tuổi nhi đồng là hình ảnh không có gì xa lạ. Và cũng đã có không ít trong số đó, đã nằm lại mãi mãi. Nhà thơ Tố Hữu đã được gặp và làm quen với một chú bé liên lạc như thế. Tuy còn nhỏ nhưng em đã anh dũng hy sinh vì độc lập dân tộc. Cảm động trước điều đó, Tố Hữu đã viết nên bài thơ Lượm.
Bài thơ được viết bằng thể thơ bốn chữ, với nhịp thơ ngắn, nhanh, góp phần lột tả, khắc họa được tinh thần nhí nhảnh, hồn nhiên của chú bé Lượm.
Mở đầu bài thơ, chính là cuộc gặp gỡ đầy tình cờ giữa hai người đồng chí ở hai lứa tuổi khác nhau. Ngay từ lần đầu, nhà thơ đã hết sức ấn tượng với người chiến sĩ nhỏ tuổi ấy:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh…
Một cậu bé, với dáng người nhỏ nhắn, mang theo chiếc xắc xinh xinh vui sướng đi làm nhiệm vụ. Cũng như bao chú bé liên lạc khác, em thường phải đối mặt với những nguy hiểm. Nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng đến em chút nào. Em vẫn giữ trong mình những nét hồn nhiên, vô tư của lứa tuổi. Điều ấy thể hiện từ ngoại hình với đôi má ửng đỏ bồ quân. Từ dáng đi nhí nhảnh, cái đầu nghênh nghênh, cái miệng chúm chím huýt sáo… Và cả từ suy nghĩ ngây thơ, bộc trực của em, qua câu nói:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!
Nói rồi, em lại vội chạy đi làm nhiệm vụ. Để lại trong lòng tác giả những ấn tượng khó mờ. Và khi mà ông vẫn đang chờ đợi được có một cuộc gặp gỡ thứ hai với người liên lạc nhỏ tuổi ấy thì em đã qua đời. Trong một lần đi đưa tin qua cánh đồng lúa, em bị phát hiện và bị bắn trúng. Thế là một thiên thần nhỏ đã ra đi trong sự đau khổ, bàng hoàng của mọi người. Khi biết tin, nhà thơ cảm giác như chết lặng, ông không thể tin được rằng, cậu bé nhỏ nhắn, đáng yêu đang còn vô vàn những ước mơ và khát vọng ấy đã ra đi mãi mãi. Em còn quá nhỏ, còn chưa được hưởng niềm vui của ngày độc lập. Sự đau xót khôn cùng ấy, khiến nhà thơ chỉ có thể thốt ra hai từ:
Ra thế
Lượm ơi!
Nhà thơ mường tượng ra hình ảnh xót xa của một chú bé đang nằm giữa đồng, máu chảy đỏ như hoàng hôn. Những bông lúa vẫn đang trổ bông, chờ ngày gặt chín. Nhưng em đã ra đi, không chờ được ngày trưởng thành. Nhưng, sự hi sinh của em chắc chắn sẽ góp phần cho công cuộc chiến đấu của dân tộc. Rồi nay mai, khi hòa bình lập lại, trái chín thơm ấy cũng đã có bàn tay em góp vào.
Lượm ơi, còn không?
Đó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ đang hỏi Lượm, hỏi những người xung quanh hay đang hỏi chính mình? Và có lẽ, câu hỏi này vốn không có, không cần câu trả lời. Bởi nhà thơ tin rằng, Lượm còn sống, em sẽ còn sống mãi trong trái tim mọi người. Dù thời gian có trôi qua, thế giới có xoay vần, thì em vẫn sẽ mãi in sâu trong kí ức của dân tộc này. Như để khẳng định cho niềm tin ấy, hình ảnh của chú bé Lượm hồn nhiên lại được hiện lên ở hai khổ thơ cuối. Vẫn câu thơ đó, vẫn hình ảnh đó, nhưng lại có phần xót xa, buồn bạn.
Thông qua việc sử dụng nhiều từ láy cùng lối thơ tự sự, kể lại một câu chuyện. Bài thơ đã thàn công khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 9
Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lượm là bài thơ tự sự - trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chú bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ.
Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca nô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
con chim chích
Nhảy trên đường vàng...
Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích - nhảy trên đường vàng... gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết:
Ngày mai trên quãng đường trắng
Có em bé lại dẫn đường bên anh.
Miệng cười chân bước nhanh nhanh,
Như con chim nhỏ trên cành vui tươi.
Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quý Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy!
Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé:
Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!
Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm
Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu của Lượm.
Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc:
Ra thế
Lượm ơi!
Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ:
Một hôm nào đó
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ
Bỏ thư vào bao.
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư để "thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo?
Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa:
Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!
Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ, ở trên nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bằng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng.
Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú - cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ của em giữa đồng lúa quê hương:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng...
Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm ơi còn không?
Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được!
Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn sống mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc.
Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán... Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 10
“Lượm” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm - một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Bài thơ “Lượm” được sáng tác năm 1949 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Và hình ảnh của những chú bé liên lạc tuy tuổi đời còn nhỏ nhưng vô cùng dũng cảm, gan góc đã gây xúc động mạnh mẽ đối với nhà thơ. Mở đầu tác phẩm, Tố Hữu đã giới thiệu hoàn cảnh gặp gỡ chú bé:
“Ngày Huế đổ máu,
Chú Hà Nội về,
Tình cờ chú cháu,
Gặp nhau Hàng Bè”
Đó là khi thực dân Pháp bắt đầu tấn công ra Huế, để lại những hậu quả nặng nề. Người chú ở Hà Nội để làm công tác kháng chiến, tình cờ gặp gỡ và trò chuyện với chú bé liên lạc. Một hoàn cảnh hết sức hợp lý. Tiếp đến hình ảnh chú bé liên lạc hiện lên với những nét miêu tả:
“Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh”
Cậu bé liên lạc xuất hiện chỉ với vài nét khắc họa những để lại ấn tượng sâu sắc. Đó là một cậu bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn thể hiện qua đôi chân lúc nào cũng thoăn thoắt. Vì tuổi còn nhỏ nên cậu vẫn còn rất hồn nhiên, chiếc mũ ca-lô đội lệch sang một bên thật nhí nhảnh. Cậu vừa chạy nhảy, vừa huýt sáo làm vang cả cánh đồng. Cách so sánh “như con chim chích” khiến cho người đọc cảm nhận rõ hơn về tâm hồn ngây thơ của cậu:
“Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…”
Sự hồn nhiên tiếp tục được bộc lộ qua cách trò chuyện của cậu với nhân vật trữ tình. Công việc liên lạc nguy hiểm đối với cậu là một niềm yêu thích. Cậu không hề cảm thấy sợ hãi mà còn thích thú với công việc của mình. Ở cậu bé, ta như thấy được sự dũng cảm, gan dạ đằng sau vẻ ngoài hồn nhiên, ngây thơ:
“Cháu đi liên lạc,
Vui lắm chú à.
Ở đồn Mang Cá,
Thích hơn ở nhà!”
Cậu bé Lượm ở trong bài thơ cảm thấy say mê với công việc của mình. Cậu cũng thật hóm hỉnh khi cất tiếng chào:
“Cháu cười híp mí,
Má đỏ bồ quân:
- Thôi, chào đồng chí!
Cháu đi xa dần…”
Lời chào tiếp tục cho thấy sự hồn nhiên con trẻ của cậu. Nhưng đồng thời cũng thể hiện lòng tự hào của cậu bé. Cách chào “đồng chí” của Lượm như khẳng định cậu cũng giống như người chiến sĩ kia, đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Tuy chỉ mới nhỏ tuổi, nhưng cậu lại đầy ý thức trách nhiệm với đất nước.
Rồi giọng điệu của nhân vật trữ tình trong bài thơ bỗng thốt lên: “Ra thế/Lượm ơi!”. Đọc đến đây, ta cảm nhận được sự bất ngờ, xót xa của nhân vật trữ tình. Để rồi sau đó hiểu được lí do của cảm xúc đó:
Một hôm nào đó,
Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhỏ,
Bỏ thư vào bao,
Vụt qua mặt trận,
Ðạn bay vèo vèo,
Thư đề “Thượng khẩn”,
Sợ chi hiểm nghèo!
Sau lần chia tay đó, chú bé vẫn tiếp tục công việc liên lạc của mình. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ, với lá thư đề “thượng khẩn” trong tay, Lượm đã không ngại nguy hiểm băng qua mặt trận đầy mưa bom bão đạn. Sự gan dạ của cậu khiến người đọc phải cảm thấy ngưỡng mộ. Nhưng cũng thật đau xót:
Bỗng lòe chớp đỏ,
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ,
Một dòng máu tươi!”
Lượm đã hy sinh, nhưng sự hy sinh đó đã để cho ta một lòng cảm phục sâu sắc về một người chiến sĩ nhỏ nhưng thật dũng cảm. Cậu chính là đại diện cho một thế hệ trẻ của Việt Nam: “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Hình ảnh của Lượm ở cuối bài thơ như một lời tưởng niệm dành cho cậu bé:
“Cháu nằm trên lúa,
Tay nắm chặt bông,
Lúa thơm mùi sữa,
Hồn bay giữa đồng”
Cho dù Lượm đã hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ còn rất nhiều chú bé liên lạc khác giống như Lượm đang tiếp nối công việc của cậu.
Như vậy, bài thơ Lượm đã làm sáng lên hình ảnh của người anh hùng nhí tên Lượm, đó là một cậu bé liên lạc tuổi đời còn rất nhỏ nhưng tinh thần kiên cường, dũng cảm của em lại không thua kém một người lính cách mạng nào. Hình ảnh của em luôn hiện lên trong lòng bất cứ một bạn đọc nào với sự hồn nhiên, ngây thơ lạc quan yêu đời song cũng không kém phần xót xa, đau đớn.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 11
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu, trong các tác phẩm của ông, bài thơ “Lượm” để lại cho tôi nhiều cảm xúc. Tác phẩm kể lại câu chuyện tình cờ gặp chú bé Lượm ở hàng Bè, được trò chuyện và nghe Lượm tâm sự về công việc liên lạc. Cùng với đó, nhà thơ còn miêu tả hình ảnh cậu bé liên lạc hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng rất dũng cảm, gan dạ. Đó là một cậu bé khoảng chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Dáng người bé nhỏ, với hành trang là một cái xắc xinh xinh. Đôi chân thật nhanh nhẹn, cái đầu thì nghiêng nghiêng. Cách so sánh “như con chim chích” khiến cho người đọc cảm nhận rõ hơn về tâm hồn ngây thơ của cậu. Hồn nhiên là vậy, nhưng với nhiệm vụ nguy hiểm, Lượm vẫn không hề sợ hãi. Nhận được lá thư đề “thượng khẩn”, cậu nhanh chóng làm nhiệm vụ giao thư. Câu thơ “Sợ chi hiểm nghèo” đã cho thấy lòng dũng cảm của cậu bé. Hình ảnh lượm đã hy sinh trên cánh đồng lúa của quê hương thực sự gây ám ảnh cho tôi. Khi đọc bài thơ, tôi như cảm phục thêm về một thế hệ Việt Nam anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân, tính mạng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 12
Bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại cho tôi thật nhiều ấn tượng. Tác giả đã khắc họa hình ảnh một cậu bé liên lạc mang vẻ hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất dũng cảm, gan dạ. Mở đầu là cuộc gặp gỡ với người chiến sĩ ở Hàng Bè vào những ngày tháng thực dân Pháp trở lại xâm lược Huế. Chiến tranh xảy ra, Lượm tham gia cách mạng với tư cách là một chiến sĩ liên lạc. Cậu được miêu tả với dáng người nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn. Cùng với đó là cái xắc đeo trên vai để đựng thư, chiếc ca lô đội lệch trên đầu. Không chỉ ngoại hình, chúng ta còn thấy được nét tính cách hồn nhiên của Lượm. Điều đó được thể hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Những từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười”, “má đỏ” đã diễn tả được tâm trạng của Lượm, đồng thời qua đó còn khẳng định việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam. Không chỉ vậy, khi đọc bài thơ, tôi còn cảm thấy ngưỡng mộ với tinh thần của Lượm. Dù vẫn còn nhỏ tuổi nhưng cậu lại có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ được giao. Khi nhận được nhiệm vụ giao lá thư đề “thượng khẩn”, Lượm đã không ngại khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ. Cách nói “sợ chi” cho thấy một tâm thế chủ động của người chiến sĩ nhỏ, cậu sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm mà không hề run sợ. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ. Khi đọc khổ thơ viết về sự hy sinh của Lượm, tôi cảm thấy đau đớn, nghẹn ngào. Lượm ngã xuống giữa cánh đồng của quê hương. Có thể thấy, Lượm là một bài thơ giàu cảm xúc, mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của Tố Hữu.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 13
Một trong những bài thơ mà em cảm thấy ấn tượng nhất của nhà thơ Tố Hữu là “Lượm”. Với tác phẩm này, tác giả đã khắc họa hình ảnh trung tâm là Lượm - một cậu bé vẫn còn nhỏ tuổi nhưng rất dũng cảm. Lượm hiện lên với dáng người nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn. Cái xắc xinh xinh đeo trên vai. Cùng chiếc mũ ca lô đội lệch trên đầu. Miệng thì huýt sáo vang. Với cách so sánh “như con chim chích” đang “nhảy trên đường vàng”, chúng ta cảm nhận được vẻ hồn nhiên, ngây thơ của nhân vật này. Không chỉ vậy, tác giả còn khắc họa nét tính cách gan dạ và dũng cảm của nhân vật này. Trong công việc, cậu luôn sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ. Một mình băng băng với lá thư đề “thượng khẩn” trong tay. Lượm không sợ nguy hiểm nơi mặt trận với đạn bay vèo vèo. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ. Hình ảnh “một dòng máu tươi” như dội thẳng vào trái tim người đọc một sự thật phũ phàng, khiến dòng nước mắt chỉ trực trào ra, thương tiếc cho người chiến sĩ nhỏ tuổi anh hùng. Lượm đang nằm trên lúa, đôi tay còn nắm chặt lấy bông lúa. Xung quanh phảng phất hương thơm của sữa lúa mà hồn vẫn đang “bay giữa đồng”. Những dòng thơ cuối tuy lặp lại những câu thơ đầu bài, nhưng lại mang một sắc thái khác, đau thương khôn tả. Đó giống như là những hoài niệm về một cậu bé hồn nhiên, vui tươi thuở ban đầu, nay đã về với đất mẹ thân yêu. Tuy đau thương nhưng cái chết của Lượm là cái chết anh hùng và đầy tự hào. Bài thơ đã khơi gợi cho người đọc những cảm xúc thật đẹp đẽ.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 14
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc và ấn tượng. Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình đã giới thiệu hoàn cảnh gặp cậu bé Lượm. Đó là “ngày Huế đổ máu” - lúc này tác giả có dịp ra Hà Nội và tình cờ gặp Lượm. Những câu thơ mở đầu gợi ra hình ảnh một cậu bé liên lạc còn nhỏ tuổi nhưng rất nhanh nhẹn và đáng yêu. Dáng người bé “loắt choắt”, với hành trang là một cái xắc “xinh xinh”. Đôi chân “thoăn thoắt” chạy trên đường và cái đầu lúc nào cũng “nghênh nghênh”. Tính cách của Lượm hồn nhiên, ngây thơ như bao đứa trẻ khác với hành động “huýt sáo vang” tạo nên khúc nhạc nhí nhảnh. Nhưng điều khiến chúng ta cảm thấy ấn tượng hơn chính là lòng dũng cảm của Lượm. Tuy còn nhỏ nhưng cậu đã tham gia công việc làm liên lạc, vận chuyển thư từ cho cán bộ. Hình ảnh Lượm đưa thư “Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo”, quên mình vì nhiệm vụ “thượng khẩn” thì “sợ chi hiểm nghèo” khiến tôi cảm thấy thật ngưỡng mộ, tự hào. Những câu thơ cuối nhắc đến sự hy sinh của cậu bé Lượm. Hình ảnh “một dòng máu tươi” như đánh thẳng vào trái tim người đọc, khiến dòng nước mắt chỉ trực trào ra, thương tiếc cho người chiến sĩ nhỏ tuổi anh hùng. Bài thơ Lượm đã để lại cho bạn đọc yêu thơ Tố Hữu một ấn tượng sâu sắc.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 15
Tôi rất yêu thích bài thơ Lượm của tác giả Tố Hữu. Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là một cậu bé liên lạc được tác giả khắc họa vô cùng sinh động. Lượm hiện lên với dáng người bé nhỏ bé, chiếc mũ ca lô đội lệch trên đầu. Cậu bước đi với đôi chân thoăn thoắt, miệng huýt sáo. Các từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” cộng với điệp từ “cái” tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu của cậu bé liên lạc nhỏ tuổi, hiếu động. Trở thành một chiến sĩ liên lạc, được tham gia cách mạng với Lượm là một niềm sung sướng, tự hào. Giọng thơ hồn nhiên cho thấy được cảm xúc của cậu. Dù vẫn còn nhỏ tuổi, nhưng Lượm lại có một tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao. Sự dũng cảm đó được thể hiện qua việc không sợ nguy hiểm. Lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ đưa thư “Thượng khẩn”. Giọng thơ trở nên nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Cậu ngã xuống nhưng hồn vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa. Dù đã ra đi nhưng hình ảnh Lượm nằm trên thảm lúa, tay nắm chặt bông nhẹ nhàng giống như cậu chỉ đang chìm trong giấc ngủ. Bài thơ đem đến cho tôi nhiều cảm xúc, khiến tôi cảm phục và ngưỡng mộ người anh hùng thiếu niên nhỏ tuổi mà dũng cảm.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 16
“Lượm” là một bài thơ giàu cảm xúc, khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc với những phẩm chất thật đáng quý. Hình ảnh trung tâm trong bài thơ là Lượm - một cậu bé còn nhỏ tuổi, ngây thơ. Nhà thơ đã khắc họa nhân vật này với dáng người bé nhỏ bé, chiếc mũ ca lô đội lệch trên đầu. Các từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” cùng với điệp từ “cái” tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu. Không chỉ ngoại hình, Lượm còn hiện lên với tính cách dũng cảm, kiên cường. Giữa chiến trường khốc liệt - “đạn bay vèo vèo”, cậu chẳng hề thấy sợ hãi. Lá thư đề “thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Từ “sợ chi” như một lời khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ. Cậu bé nằm trên lúa, hương lúa thơm đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trổ đòng... Bài thơ đem đến cho chúng ta tình yêu mến, sự tự hào cũng như cảm phục về chú bé liên lạc.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 17
“Lượm” là một bài thơ nổi tiếng của Tố Hữu. Đến với bài thơ, người đọc sẽ thấy được hình ảnh của người chiến sĩ liên lạc nhỏ tuổi, nhưng đầy dũng cảm. Dáng người nhỏ “loắt choắt”, với hành trang là một cái xắc nhỏ “xinh xinh”. Và đôi chân nhanh nhẹn “thoăn thoắt” cùng cái đầu lúc nào cũng ngó nghiêng “nghênh nghênh”. Tác giả dùng những từ láy đặc biệt như vậy để miêu tả dáng vẻ của nhân vật Lượm khiến cho hình ảnh cậu trở nên chân thực. Tuy còn nhỏ nhưng Lượm lại tham gia công việc làm liên lạc, vận chuyển thư từ cho bộ đội ta - một công việc nguy hiểm, cần sự thông minh, nhanh nhạy và lòng dũng cảm mà không phải đứa trẻ nào cũng có được. Ẩn chứa trong thân hình bé nhỏ ấy là một tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, tuy em tuổi còn nhỏ nhưng cũng chẳng thua kém bất kỳ người trưởng thành nào. Công việc em đang làm đã góp phần rất to lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Hành trình thực hiện nhiệm vụ của Lượm cũng đầy gian khó. Đặc biệt là hình ảnh Lượm đưa thư “Vụt qua mặt trận/Đạn bay vèo vèo” đầy hung hiểm chứng minh khí chất anh hùng và lòng dũng cảm của cậu bé chẳng ngại gian khó, quên mình vì nhiệm vụ “thượng khẩn” thì “sợ chi hiểm nghèo”. Việc sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả và tự sự ở đây giúp tác giả khắc họa chân dung cũng như lòng dũng cảm của nhân vật Lượm.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 18
Bài thơ Lượm của Tố Hữu gây cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm này tái hiện một cách sống động hình ảnh của chú bé liên lạc, với vẻ hồn nhiên, dũng cảm, gan dạ. Mở đầu là một cuộc gặp gỡ ấn tượng với một chiến sĩ tại Huế, thời điểm mà thực dân Pháp tái chiếm đất nước. Lượm tham gia vào cuộc chiến với tư cách là một chiến sĩ liên lạc, được miêu tả với dáng người nhỏ bé nhưng vô cùng nhanh nhẹn. Niềm vui của Lượm khi làm liên lạc được diễn đạt qua những từ ngữ trực tiếp như “vui”, “thích”, “cười”, “má đỏ”, đồng thời cũng khẳng định sự hy vọng và niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam khi tham gia vào cuộc chiến đấu. Tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh của Lượm khi nhận nhiệm vụ giao thư cũng là điểm nhấn của tác phẩm. Đọc về sự hy sinh của Lượm, tôi cảm thấy đau đớn và xúc động. Tác phẩm này thực sự là một biểu tượng về tinh thần anh hùng của thế hệ trẻ Việt Nam.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 19
“Lượm” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm - một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hình ảnh Lượm hiện lên với vài nét khắc họa những để lại ấn tượng sâu sắc. Đó là một cậu bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn thể hiện qua đôi chân lúc nào cũng thoăn thoắt. Vì tuổi còn nhỏ nên cậu vẫn còn rất hồn nhiên, chiếc mũ ca-lô đội lệch sang một bên thật nhí nhảnh. Cậu vừa chạy nhảy, vừa huýt sáo làm vang cả cánh đồng. Cách so sánh “như con chim chích” khiến cho người đọc cảm nhận rõ hơn về tâm hồn ngây thơ của cậu. Không chỉ là hình ảnh của Lượm, Tố Hữu còn kể lại hành trình thực hiện nhiệm vụ của Lượm. Với lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Cậu bé liên lạc đã không quản nguy hiểm để có thể nhanh chóng đưa thư. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Trong lòng cậu không hề sợ hãi nguy hiểm xung quanh mình mà chỉ nghĩ đến nhiệm vụ cấp bách cần phải hoàn thành lúc này. Lượm đã hy sinh trên cánh đồng lúa của quê hương. Cậu bé là một người chiến sĩ dũng cảm, gan dạ. Khi đọc xong bài thơ này, tôi như cảm phục thêm về một thế hệ Việt Nam anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân, tính mạng cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Đoạn văn Ghi lại cảm nghĩ về bài thơ Lượm - mẫu 20
Bài thơ Lượm của Tố Hữu đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng tôi về hình ảnh Lượm. Hình ảnh người chiến sĩ liên lạc nhỏ tuổi xuất hiện trong bài thơ với dáng người bé nhỏ bé. Cùng với đó là chiếc mũ ca lô luôn đội lệch trên đầu. Nhà thơ đã sử dụng các từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” “'thoăn thoắt”, “nghênh nghênh” kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ “cái” nhằm tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu của người liên lạc nhỏ. Sự hồn nhiên của Lượm còn được thể hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Cuộc trò chuyện của Lượm với người chú cho thấy niềm sung sướng, hạnh phúc của cậu khi được làm công việc liên lạc. Những từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích” hay hành động “cười híp mí”, “má đỏ” đã khẳng định được việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm hạnh phúc của thế hệ trẻ Việt Nam. Không chỉ vậy, tôi còn thêm cảm phục vì Lượm còn là một cậu bé có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao. Lá thư đề “Thượng khẩn” cần nhanh tới tay người nhận. Chính vì vậy, Lượm liên lạc đã không quản nguy hiểm để có thể nhanh chóng đưa thư. Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ. Hình ảnh Lượm hi sinh được tác giả khắc họa ở hai khổ cuối đặc biệt gây ám ảnh cho tôi. Giọng thơ đến đây trở nên nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Lượm ngã xuống nhưng hồn Lượm vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Bài thơ “Lượm” đã khắc họa được hình ảnh chú bé liên lạc một cách vô cùng chân thực.