Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 10: Văn bản mới nhất, tài liệu bao gồm 7 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Soạn bài lớp 10: Văn bản
Bài giảng: Văn bản
1. Soạn bài lớp 10: Văn bản mẫu 1
1.1. Kiến thức cơ bản
1.1.1. Khái niệm văn bản
Văn bản là sản phẩm được tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Nó thường gồm nhiều câu và là một chỉnh thể về mặt nội dung và
hình thức.
1.1.2. Các đặc điểm của văn bản
Văn bản bao giờ cũng tập trung nhất quán vào một chủ đề và triển
khai chủ đề đó một cách trọn vẹn.
Các câu trong văn bản có sự liên kết với nhau chặt chẽ bằng các
liên từ và liên kết về mặt nội dung. Đồng thời, cả văn bản còn phải
được xây dung theo một kết cấu mạch lạc, rõ ràng.
Mỗi văn bản thường hướng vào thực hiện một mục đích giao tiếp
nhất định.
Mỗi văn bản có những dấu hiệu hình thức riêng biểu hiện tính hoàn
chỉnh về mặt nội dung: thường mở đầu bằng một tiêu đề và có dấu
hiệu kết thúc phù hợp với từng loại văn bản.
1.1.3. Các loại văn bản thường gặp
Dựa theo lĩnh vực và chức năng giao tiếp, người ta phân biệt các loại văn
bản sau:
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (thư, nhật kí...).
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (thơ, truyện ngắn,
tiểu thuyết, kịch, tuỳ bút,...).
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học (sách giáo khoa, tài
liệu học tập, bài báo khoa học, luận văn, luận án, công trình khoa
học,...).
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ (đơn,
giấy khai sinh, giấy uỷ quyền,...). Các loại văn bản này thường có
mẫu biểu quy định sẵn về hình thức.
1.2. Rèn kĩ năng
1. Các văn bản (1), (2), (3) được người đọc (người viết) tạo ra trong
hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các văn bản ấy là phương tiện để
tác giả trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm... với người đọc. Có văn
bản gồm một câu, có văn bản gồm nhiều câu, nhiều đoạn liên kết chặt chẽ
với nhau; có văn bản bằng thơ, có văn bản bằng văn xuôi.
2. Văn bản (1) đề cập đến một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là
việc giao kết bạn bè), văn bản (2) nói đến thân phận của người phụ
nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập tới một vấn đề chính trị (kêu
gọi mọi người đứng lên chống Pháp). Các vấn đề này đều được triển
khai nhất quán trong từng văn bản. Văn bản (2) và (3) có nhiều câu
nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng và được liên kết với nhau
một cách chặt chẽ (bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ).
3. Ở văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này
được trình bày theo thứ tự "sự việc" (hai sự so sánh, ví von). Hai cặp
câu này vừa liên kết với nhau bằng ý nghĩa, vừa liên kết với nhau bằng
phép lặp từ ("thân em"). Ở văn bản (3), dấu hiệu về sự mạch lạc còn được
nhận ra qua hình thức kết cấu 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài.
Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu "Hỡi đồng bào toàn quốc!".
Thân bài: tiếp theo đến "... thắng lợi nhất định về dân tộc ta!".
Kết bài: Phần còn lại.
4. Mục đích của việc tạo lập văn bản (1) là nhằm cung cấp cho người
đọc một kinh nghiệm sống (ảnh hưởng của môi trường sống, của
những người mà chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành
nhân cách của mỗi cá nhân); văn bản (2) nói lên sự thiệt thòi của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến (họ không tự quyết định được thân phận
và cuộc sống tương lai của mình mà phải chờ đợi vào sự rủi may); mục
đích của văn bản (3) là kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến
tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.
5. Văn bản (3) là một văn bản chính luận được trình bày dưới dạng
"lời kêu gọi". Thế nên, nó có dấu hiệu hình thức riêng. Phần mở đầu của
văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi (Hỡi đồng bào toàn quốc!) để dẫn
dắt người đọc vào phần nội dung, để gây sự chú ý và tạo ra sự "đồng
cảm" cho cuộc giao tiếp.
Phần kết thúc là hai khẩu hiệu (cũng là hai lời hiệu triệu) để khích lệ ý chí
và lòng yêu nước của "quốc dân đồng bào".
6. Văn bản (1) nói đến một kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên
thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một
vấn đề chính trị.
Ở các văn bản (1) và (2) chúng ta thấy có nhiều các từ ngữ quen
thuộc thường sử dụng hàng ngày (mực, đèn, thân em, mưa sa,
ruộng cày...). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị (kháng
chiến, hòa bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc...).
Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện bằng những hình
ảnh giàu tính hình tượng. Trong khi đó, văn bản (3) lại chủ yếu
dùng lí lẽ và lập luận để triển khai các khía cạnh nội dung.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định: văn bản (1) và
(2) thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, văn bản (3) thuộc phong cách
ngôn ngữ chính luận.
7. a) Phạm vi sử dụng của các loại văn bản:
Văn bản (2) dùng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật.
Văn bản (3) dùng trong lĩnh vực giao tiếp về chính trị.
Các bài học môn Toán, Vật lí, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,...
trong SGK dùng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học.
Đơn xin nghỉ học, giấy khai sinh dùng trong giao tiếp hành chính.
b) Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản
Văn bản (2) nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Văn bản (3) nhằm kêu gọi,
hiệu triệu toàn dân đứng lên kháng chiến. Các văn bản trong SGK nhằm
truyền thụ các kiến thức khoa học ở nhiều lĩnh vực. Văn bản đơn từ và
giấy khai sinh nhằm trình bày, đề đạt hoặc ghi nhận những sự việc, hiện
tượng liên quan giữa cá nhân với các tổ chức hành chính.
c) Về từ ngữ
Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên
tưởng nghệ thuật.
Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị xã hội.
Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các
chuyên ngành khoa học.
Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.
d) Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản:
Văn bản (2) có kết cấu của ca dao, sử dụng thể thơ lục bát.
Văn bản (3) có kết cấu ba phần rõ ràng mạch lạc.
Mỗi văn bản trong SGK cũng có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các
phần, các mục...
Đơn và giấy khai sinh, kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu
thường được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.
2. Soạn bài lớp 10: Văn bản mẫu 2
2.1. Khái niệm, đặc điểm
a. Câu 1 (trang 23 - 24 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
- Mỗi văn bản trên được người nói tạo ra trong hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ
- Văn bản (1) đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin. Văn bản (2) biểu lộ thái
độ, tình cảm. Văn bản (3) vừa thông báo thông tin vừa hướng tới hành
động.
- Văn bản (1) có 1 câu tục ngữ. Văn bản (2) gồm nhiều câu (bài ca dao).
Văn bản 3 gồm nhiều đoạn liên kết chặt chẽ với nhau.
b. Câu 2 (trang 23 – 24 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
- Văn bản (1) đề cập đến một kinh nghiệm trong cuộc sống (nhất là việc
kết giao bạn bè). Văn bản (2) nói đến thân phận của người phụ nữ trong
xã hội xưa. Văn bản (3) đề cập tới một vấn đề chính trị (Kêu gọi mọi
người đứng lên chống thực dân Pháp).
- Các vấn đề này đều được triển khai nhất quán trong từng văn bản. Văn
bản (2) và (3) có nhiều câu, nhưng chúng có quan hệ ý nghĩa rất rõ ràng
và được liên kết với nhau chặt chẽ bằng ý nghĩa hoặc bằng các liên từ.
c. Câu 3 (trang 23 – 24 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
- Văn bản (2), mỗi cặp câu lục bát tạo thành một ý và các ý này trình bày
theo thứ tự “sự việc” (hai sự so sánh, ví von), hai cặp câu này liên kết với
nhau bằng phép lặp từ (”thân em”).
- Văn bản (3) có hình thức mạch lạc thể hiện qua hình thức kết cấu 3
phần:
+ Mở bài: Gồm phần tiêu đề và câu “Hỡi đồng bào toàn quốc!”.
+ Thân bài: Tiếp theo đến “…thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
+ Kết bài: Phần còn lại.
d. Câu 4 (trang 23 – 24 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
Văn bản (3) thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận, được dùng trong lĩnh
vực giao tiếp chính trị và được trình bày dưới dạng “lời kêu gọi”. Phần
mở đầu của văn bản gồm tiêu đề và một lời hô gọi (Hỡi đồng bào toàn
quốc!) để đẫn dắt người đọc vào phần nội dung. Phần kết thúc gồm hai
khẩu hiệu khích lệ ý chí và lòng yêu nước của “quốc dân đồng bào”.
e. Câu 5 (trang 23 – 24 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
- Văn bản (1) mục đích nói về sự ảnh hưởng của môi trường sống, những
người chúng ta thường xuyên giao tiếp đến việc hình thành nhân cách của
mỗi cá nhân => Vấn đề xã hội.
- Văn bản (2) mục đích nói về thân phận long đong, lận đận của người
phụ nữ trong xã hội xưa => Vấn đề xã hội.
- Văn bản (3) là lời kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại cuộc chiến tranh
xâm lược lần hai của thực dân Pháp => Vấn đề chính trị.
2.2. Các loại văn bản
a. Câu 1 (trang 25 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
So sánh văn bản (1) và (2) với văn bản (3):
- Về nội dung: văn bản (1) nói đến kinh nghiệm sống, văn bản (2) nói lên
thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, văn bản (3) đề cập đến một
vấn đề chính trị.
- Về từ ngữ: ở các văn bản (1), (2), có nhiều từ ngữ quen thuộc thường sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày (mực, đèn, thân em, mưa sa, ruộng
cày,…). Văn bản (3) lại sử dụng nhiều từ ngữ chính trị (kháng chiến, hòa
bình, nô lệ, đồng bào, Tổ quốc,…).
- Hình thức nghệ thuật: Nội dung của văn bản (1) và (2) được thể hiện
bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng, văn bản (3) chủ yếu dùng lí lẽ
và lập luận để triển khai nội dung.
=> Từ những phân tích trên, chúng ta khẳng định: văn bản (1) và (2)
thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, văn bản (3) thuộc phong cách
ngôn ngữ chính luận.
b. Câu 2 (trang 25 sgk Ngữ văn 10 Tập 1)
a. Phạm vi sử dụng các văn bản:
-Văn bản (2) dùng trong lĩnh vực giao tiếp nghệ thuật.
- Văn bản (3) dùng trong lĩnh vực giao tiếp về chính trị.
- Các bài học môn Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí,…
trong SGK dùng trong lĩnh vực giao tiếp khoa học.
- Đơn xin nghỉ học, giấy khai sinh dùng trong giao tiếp hành chính.
b. Mục đích giao tiếp cơ bản của mỗi loại văn bản.
- Văn bản (2) nhằm bộc lộ, tình cảm, cảm xúc.
- Văn bản (3) nhằm kêu gọi toàn dân đứng lên kháng chiến.
- Các văn bản trong SGK nhằm truyền thụ các kiến thức khoa học ở nhiều
lĩnh vực.
- Văn bản đơn từ và giấy khai sinh nhằm trình bày, đề đạt hoặc ghi nhận
sự việc, hiện tượng liên quan giữa cá nhân với các tổ chức hành chính.
c. Về từ ngữ:
- Văn bản (2) dùng các từ ngữ thông thường, giàu hình ảnh và liên tưởng
nghệ thuật.
- Văn bản (3) dùng nhiều từ ngữ chính trị.
- Các văn bản trong SGK dùng nhiều từ ngữ, thuật ngữ thuộc các chuyên
ngành khoa học.
- Văn bản đơn từ hoặc giấy khai sinh dùng nhiều từ ngữ hành chính.
d. Cách kết cấu và trình bày ở mỗi loại văn bản.
- Văn bản (2) có kết cấu ca dao, thể thơ lục bát.
- Văn bản (3) có kết cấu 3 phần rõ ràng, mạch lạc.
- Mỗi văn bản trong SGK có kết cấu rõ ràng, chặt chẽ với các phần, các
mục,…
- Đơn và giấy khai sinh có kết cấu và cách trình bày đều theo mẫu thường
được in sẵn chỉ cần điền vào đó các nội dung.