Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11

Tải xuống 14 2.4 K 1

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 11 bài: Hạnh phúc của một tang gia mới nhất, tài liệu bao gồm 14 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi  môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

Hạnh phúc của một tang gia

Bài giảng: Hạnh phúc của một tang gia

 Soạn bài lớp 11: Hạnh phúc của một tang gia
1. Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia mẫu 1
1.1. Tóm tắt đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích “Số đỏ”) kể lại đám tang rầm rộ,
khoa trương, đầy những lố lăng, chướng mắt của cụ cố Hồng – một người giàu có
của giới “thượng lưu” thành thị.
1.2. Bố cục đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Phần 1 (từ đầu đến “đã gây ra cho Tuyết vậy”): Những tâm tư, niềm hạnh phúc của
mọi người trong gia đình trước cái chết của cụ cố tổ Hồng.
Phần 2 (tiếp theo đến “Đám cứ đi…”): Cảnh tượng một đám ma gương mẫu.
Phần 3 (đoạn còn lại): Cảnh hạ huyệt.
1.3 Hướng dẫn soạn bài Hạnh phúc của một tang gia
Câu 1 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
+ Nhan đề: nghịch lý, ngược đời, báo hiệu sự bất thường.
+ Tình huống trào phúng của đoạn trích: niềm vui đến từ nỗi mất mát phải cách
biệt âm dương với người thân trong gia đình mình -> tình huống hàm chứa sự chế
giễu sâu cay.
Câu 2 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
+ Cái chết của cụ cố tổ là dịp để cả nhà phô trương vẻ giàu có, hợp thời của mình
với xung quanh.
+ Những niềm hạnh phúc:
- Danh tiếng của Xuân Tóc Đỏ càng vang dội hơn trước.
- Ông Phán mọc sừng được chia thêm một phần tài sản nhờ việc bị cắm sừng.
- Cụ cố Hồng được mặc bộ đồ xô gai, chống cái gậy, khóc mếu trước mọi người.
- Ông Văn Minh vui mừng vì di chúc sẽ được thực thi.
- Tú Tân nóng lòng được dùng cái máy ảnh của mình.
- Bà Văn Minh sốt ruột vì chưa được bận đồ xô gai tân thời.

- Những ông bạn thân cụ cố Hồng đến để khoa khoang những huy chương mình
có.
- Bạn của cậu Tú Tân được trổ tài nhiếp ảnh.
- Đám trai gái có cơ hội để chim chuột nhau.

Những niềm hạnh phúc đến từ việc được trục lợi, thỏa mãn, khoe khoang.
Câu 3 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
Cảnh đám ma gương mẫu:
+ Vẻ ngoài:
- Rầm rộ, đông đúc, náo nhiệt, thu hút sự chú ý của tất thảy mọi người.
- Ai nấy cũng trưng ra vẻ mặt buồn rầu, dáng điệu buồn rầu hợp thời hoặc đến để
tỏ vẻ thành tâm chia buồn với gia chủ.
+ Thực chất:
- Là một đám ô hợp, nhố nhăng, tây ta tàu lẫn lộn.
- Những người đi đưa tang không tiếc thương, mong nhớ người khuất mà chỉ đến
để thể hiện, thỏa mãn bản thân mình.
Câu 4 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
+ Xã hội “thượng lưu” thành thị đương thời là xã hội thối nát, mục ruỗng về nhân
cách, được gói bọc bên ngoài một vẻ tân thời hợp mốt nhưng thực chất là sự lố
lăng, kệch cỡm.
+ Thái độ của nhà văn: lên án, chế giễu, khinh ghét.
Câu 5 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
Nghệ thuật trào phúng:
+ Sử dụng nghệ thuật miêu tả để tạo nên sự đối lập giữa cái bên ngoài và bản chất
bên trong của hiện tượng.
+ Giọng điệu châm biếm, chế giễu, đả kích.
+ Sử dụng thủ pháp cường điệu, nói ngược.

Luyện tập
Câu 2 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
+ Mâu thuẫn: hạnh phúc của con người đến từ chính sự mất mát, sự ra đi của người
thân trong gia đình.
+ Chân dung trào phúng: Xã hội “thượng lưu” thành thị lúc bấy giờ với sự kệch
cỡm, lố lăng bề ngoài và sự mục ruỗng, ráo cạn của tình người ở bên trong.
1.4. Ý nghĩa đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén, qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia,
Vũ Trọng Phụng đã phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của
xã hội “thượng lưu” ở thành thị những năm trước Cách mạng.
2. Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia mẫu 2
2.1. Kiến thức cơ bản về tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) quê ở làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hưng Yên, nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất ở Hà Nội. Ông viết văn sớm, có
truyện đăng báo từ 1930. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng với
hai thể tiểu thuyết và phóng sự. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng tập trung vạch trần
những ung nhọt thối tha trong xã hội Việt Nam những năm ba mươi. Những lố
lăng, kệch cỡm của lối sống Âu hoá nửa vời, những sản phẩm nhục nhã của văn
hoá nô dịch đã được ghi nhận bằng một ngòi bút sắc sảo, cay nghiệt và đanh đá.
Phóng sự, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng thể hiện thái độ gay gắt của ông với xã
hội đương thời. Vì lao động quá sức, nhà văn đã mắc bệnh lao và mất khi còn rất
trẻ, lúc mới 27 tuổi.
Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Tác
phẩm là một vở đại hài kịch nhiều màn phản ánh chi tiết một Tấn trò đời. Mỗi
chương là một tiếng cười sâu cay của tác giả ném vào mặt xã hội đương thời.
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tác phẩm. Qua miêu
tả một đám tang, nhà văn đã vạch trần thói đạo đức giả của một đại gia đình bất

hiếu, từ đó phản ánh sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Tính chất trào phúng của
đoạn trích thể hiện:
Tình huống đầy mâu thuẫn: tang gia hạnh phúc. Cái chết của cụ tổ làm cho
đám con cháu sung sướng. Niềm hạnh phúc lớn nhất, lâu bền nhất và chung
nhất mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được
thừa hưởng tài sản. Thản nhiên khi miêu tả đám tang, nhà văn đã ném vào
cái "xã hội chó đểu" những lời chửi cay nghiệt nhất.
Đám tang rất to, đầy đủ nhưng xô bồ, láo nháo, con cháu và người đi đưa
đều chẳng chú ý gì đến người chết.
Qua đám tang nhà văn đã khái quát bộ mặt của xã hội Việt Nam trong một giai
đoạn vô cùng phức tạp, giai đoạn có sự chuyển đổi mạnh mẽ về nhiều mặt do có sự
giao lưu với văn hoá phương Tây. Vũ Trọng Phụng đã ghi lại một cách chi tiết và
chân thực hiện thực xã hội qua đó thể hiện thái độ phản ứng gay gắt của nhà văn
đối với những biểu hiện tiêu cực của xã hội đương thời.
2.2. Rèn kĩ năng tìm hiểu tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
2.1.1. Tóm tắt nội dung đoạn trích:
Đoạn 1: Cái chết của cụ già và những người có công lớn nhất gây ra cái chết ấy là
Xuân tóc đỏ. Tác giả tái hiện lại quá trình chạy chữa để giải thích nguyên nhân cái
chết của ông cụ. Những bài thuốc khủng khiếp của các ông lang và sự bối rối của
cụ cố Hồng khi cha chết cũng được nhà văn chú ý miêu tả trong đoạn này.
Đoạn 2: Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải
chờ đợi quá lâu. Họ vô cùng sốt ruột vì việc chuẩn bị nghi lễ được tiến hành quá
chậm chạp. Mỗi người một tính toán, một niềm hạnh phúc riêng nên họ háo hức
chờ đợi đám tang.
Đoạn 3: Tác giả tập trung miêu tả cảnh đám tang. Đặc biệt chú ý đến những người
được hưởng hạnh phúc từ đám tang này, từ người được thuê trông coi, khách dự
đám đến cô Tuyết và đám con cháu. Nổi bật nhất trong đám tang là cô Tuyết với

phục tang mang tên Ngây thơ. Đám tang được tổ chức linh đình. Xuân xuất hiện
vào giờ chót khiến cụ bà và Tuyết rất cảm động.
Đoạn 4: Cảnh đưa tang. Đám tang được giễu qua các phố, đi đến đâu làm nhốn
nháo đến đó. Những người tham gia đám tang đều rất thời trang, họ thì thầm những
câu chuyện đang là mốt của thời thượng, họ tán tỉnh, chim chuột nhau.
Đoạn 5: Cảnh hạ huyệt. Cậu Tú Tân say sưa chụp ảnh. Cụ cố Hồng cố tỏ vẻ đau
khổ, ông Phán vừa khóc than thảm thiết vừa lén trả tiền công cho Xuân vì Xuân đã
gây ra cái chết của ông cụ.
Xem thêm các bài
tóm tắt tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
2.2.2. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của đoạn trích là: tang gia >< hạnh phúc.
Cụ Tổ chết đi, đám con cháu không hề buồn đau xót thương mà lại vô cùng
hành phúc.
Niềm hạnh phúc chung mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia
đình là được thừa hưởng tài sản. Họ được chia tài sản và ai cũng được phần. Ngoài
ra, cả người trong gia đình và những người ngoài gia đình đều được hưởng một
niềm hạnh phúc riêng.
Trong gia đình:
Cụ cố Hồng, con trai của người chết thì hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống
gậy lụ khụ, để mọi người nhìn vào cụ mà trầm trồ. Đợi phát phục, cụ "nhắm nghiền
mắt lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai...".
Đám con cháu thì được thể hiện tài hoặc được diện những bộ đồ tang thời trang
nhất mà họ vừa sáng tạo ra để khai hoá văn minh. Đứng đầu là Văn Minh, cháu
đích tôn của người chết.
Đám cháu gái, cháu dâu thì hạnh phúc vì được mặc những bộ đồ xô gai thời trang,
được khoe mình còn "một nửa chữ trinh" với những người đến đưa tang.
Cậu Tú Tân, cháu nội người chết, thì sung sướng vì được trổ tài chụp ảnh.

Nhà văn nhận xét: "... một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho
chóng cái xác chết của cụ Tổ". Chúng đúng là "một bầy" thú chứ không phải con
người. Chắc phải chứng kiến những điều ngang tai trái mắt lắm nhà văn mới có cái
nhìn và thái độ cay nghiệt như vậy.
Ngoài gia đình:
Trước hết là nhà chức trách - hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Đơ và Min
Toa, "Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như nhà buôn sắp
vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm...".
Những ông bạn của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương đến dự đám tang thì "ai
nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán não nùng" khi
"trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết".
Bộ mặt của xã hội được đại diện bởi những gia đình như thế, những người cầm
quyền như thế. Những kẻ đi đưa đám thì tranh thủ chim chuột nhau, bình phẩm
nhau. Cả một đám ma to, danh giá, không có lấy một người đau đớn hay buồn bã
khi nghĩ đến người chết. Xuân Tóc Đỏ được hưởng nhiều hạnh phúc nhất: được
thưởng tiền, được gia đình cụ cố Hồng biết ơn và nhất là được danh giá, nổi tiếng
hơn.
2.2.3. Khi miêu tả đám tang, tác giả đã kết hợp đầy dụng ý giữa tả cận cảnh
và toàn cảnh.
Toàn cảnh đám tang khiến cho người đọc hình dung được sự nhốn nháo, pha tạp
Tây Tàu của đám tang. Nó làm lộ rõ vẻ học đòi vô học và rởm đời của tang chủ.
Khi miêu tả cận cảnh, tác giả chú ý đến những hành động, những lời bàn tán thầm
thì của những người đi đưa đám. Những câu chuyện chẳng liên quan gì đến người
chết.
Nhà văn đã lặp lại điệp húc "Đám cứ đi...". Điệp khúc này có ý nghĩa châm biếm,
hài hước. Một đám ma hỗn độn và hài hước, pha tạp đủ thứ, học đòi đủ kiểu để
khoe khoang. Xe chở người chết cứ đi, người đưa cứ chim chuột nhau, con cháu cứ

hưởng thụ niềm hạnh phúc sung sướng của mình. Mỗi người một tâm lí, một mục
đích khác nhau, hội tụ lại để thực hiện "nghĩa tử là nghĩa tận" với người chết. Điểm
nổi bật nhất và chung nhất của đám người này là sự giả dối, thói đạo đức giả.
2.2.4. Lời văn trong đoạn trích đậm tính chất trào phúng, từ cách miêu tả đến
cách đặt tên đồ vật, lối so sánh ví von, cách tạo giọng văn...
Ví dụ: cảnh sát thất
nghiệp "buồn như nhà buôn vỡ nợ", Hai ông lang "từ chối chạy chữa cũng như các
vị danh y biết tự trọng", thuốc chữa bệnh thì "công hiệu đến nỗi họ mất mạng",
"Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm", "Thật là một đám ma to tát
mà có thể làm cho..."
Cách đặt tên gọi nhân vật, đồ vật cũng rất hài hước: ông TYPN, Minđơ, Mintoa,
lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng...
Tác giả đặc biệt chú ý miêu tả các chi tiết hài hước, dùng những câu văn miêu tả
đầy tính châm biếm để đả kích, bóc trần bộ mặt đạo đức giả dối của đám con cháu
đại bất hiếu và những kẻ đi đưa vô tình. Ví dụ: Những ông bạn thân của cụ cố
Hồng... đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng; Sư cụ
Tăng Phú thì sung sướng và vênh váo... là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ
vậy...
2.2.5. Qua đoạn trích, tác giả đã tập trung phê phán thói đạo đức giả của một
lớp người trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
Đó là thói hám
danh, hám lợi, thói hợm hĩnh... Cảnh đám tang là một màn bi hài kịch. Nó gợi nỗi
chua xót, cay đắng cho sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức, nhất là đạo đức gia
đình. Từ đầu đến cuối tác phẩm là tiếng cười châm biếm, chế giễu, một kiểu chế
giễu rất cay độc của nhà văn đối với những kẻ học đòi một cách vô học.
2.3. Tư liệu tham khảo tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
2.3.1. Về tác giả
... "Sáng tác và thế giới quan Vũ Trọng Phụng khác phức tạp và có nhiều mâu
thuẫn. Cuộc sống nghèo khổ bị hắt hủi, có thời kỳ ít nhiều chịu ảnh hưởng cách

mạng, khiến Vũ Trọng Phụng rất căm ghét cái xã hội thực dân phong kiến đầy bất
công, thối nát đương thời, do đó ông đã dựng lên nhiều bức tranh xã hội sinh động
bằng ngoài bút đả kích sắc sảo. Nhưng sống trong cái môi trường chật hẹp, toàn
những cái xấu xa đồi bại ở thành thị, xa cách nhân dân lao động, Vũ Trọng Phụng
thiếu một căn bản nhân đạo vững vàng, dễ tiếp thu ảnh hưởng của những tư tưởng
tiêu cực. Vì vậy, bên cạnh những giá trị hiện thực có sức mạnh tố cáo hiển nhiên,
tác phẩm Vũ Trọng Phụng có nhiều hạn chế, nhiều chênh lệch nặng nề. Chính mặt
yếu này là cơ sở cho những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa đậm nét trong nhiều sáng tác
của Vũ Trọng Phụng, nhất là những tác phẩm đề cập đến cái "dâm" (Làm đĩ, Lục
xì). Ở đó Vũ Trọng Phụng đã xa rời chủ nghĩa hiện thực và rơi vào thứ văn học tự
nhiên chủ nghĩa".
(Nguyễn Hoành Khung, Từ điển văn học, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1984)
... "Trong văn chương, tôi không bao giờ tin rằng có một cái tài nào đó chỉ nhờ
biết đặt câu, dùng từ cho khéo, biến quan sát và mô tả sự vật cho tinh mà có thể
tạo nên được những tác phẩm có giá trị thật sự. Văn học là tâm huyết, là thứ tư
tưởng- nhiệt tình tự nó hiện hình thành những nhân vật đầy sức sống, tự nó đẻ ra
những chữ có góc có cạnh, có hình, có khối, có hơi thở phập phồng trên trang
giấy.
Ở Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng- nhiệt tình ấy là gì?
Ấy là cái niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội độc ác, bất công, vô lý và "chó
đểu" thời thuộc Pháp và khát vọng muốn đập phá tan tành nó đi để xây dựng một
xã hội công bằng hơn, có nghĩa lý hơn.
Muốn đánh giá được niềm căm thù này cần tìm hiểu tình hình tâm lý xã hội của
tầng lớn thanh niên trí thức tiểu tư sản những năm 30 và số phận bế tắc đến bi
thảm của Vũ Trọng Phụng, đồng thời đặt nhà văn vào cái môi trường sống cụ thể
của ông, một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi trụy lạc của Hà Nội cũ

(phố Hàng Bạc kề bên Sầm Công, Mã Mây, Hàng Buồm...). Người thanh niên ấy,
đúng vào lúc ý thức được giá trị và vai trò của cá nhân mình trong cuộc đời nhờ
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, thì đồng thời cũng nhận ra rằng mọi ngả
đường sự nghiệp, công danh đều bị chặn lại một cách tàn nhẫn. Sức mạnh thô bỉ
của thằng thực dân và cũng đồng tiền làm chủ tất cả.
Nếu không thể lao vào bão táp cách mạng thì mọi con đường của người thanh niên
muốn tìm đến vinh quang bằng đạo đức, tài năng và lao động đều không được
chấp nhận. Một xã hội như vậy đẻ ra vô vàn những kẻ thờ bạo lực và đồng tiền,
chúng biến xã hội thành một thứ sân khấu đại hài kịch để đóng những vai thật là
nhố nhăng, bỉ ổi mà Vũ Trọng Phụng gọi là "chó đểu", hay "vô nghĩa lý"...
... Vâng, có thể nói như thế: niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội thực dân, tư sản
tàn ác, lố bịch, đểu giả, thối nát, đó là tất cả tài năng của Vũ Trọng Phụng...".
(Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Trọng Phụng và niềm căm uất không nguôi. Con đường
đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.105-107)
2.3.2. Về tác phẩm
... "Muốn đánh giá đúng một tác phẩm nghệ thuật, phải nắm được đặc điểm thể
loại và khuynh hướng, cảm hứng của nó. Số đỏ là một cuốn tiểu thuyết trào phúng
được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Về mặt là một cuốn tiểu thuyết
trào phúng, thành công của nó là đã gây được một tiếng cười, đúng hơn, một chuỗi
cười ròn rã từ đầu đến cuối, thông qua một loạt tình tiết, tình huống hài hước và
một loạt chân dung hí họa, biếm họa hết sức độc đáo và sinh động. Về mặt là một
tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, nó đã phát hiện được một cách chính xác và sâu sắc
bản chất và quy luật khách quan của xã hội ở một phương diện quan trọng.
Đặc điểm ấy của tác phẩm đặt ra một mâu thuẫn mà tác giả đã giải quyết được
một cách đầy tài nghệ. Mâu thuẫn ấy là, một mặt phải dùng lối cường điệu, phóng
đại một cách thoải mái - điều mà bút pháp trào phúng đòi hỏi- để tạo nên những
tình huống oái oăm vô lý, những tính cách quái thai, kỳ quặc; mặt khác lại không

hề được nói oan nói ức cho bất kỳ cái gì, cho bất kỳ ai mà nó đề cập đến. Mâu
thuẫn ấy giải quyết trong một truyện ngắn đã khó, trong một truyện dài càng khó
hơn nhiều.".
Nguyễn Đăng Mạnh
(Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.119-120)
3. Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia mẫu 3
3.1. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Ý nghĩa nhan đề:
- Hạnh phúc: Là niềm vui của con người khi đạt được những ước nguyện trong
cuộc sống.
- Tang gia: Là lúc mọi người buồn đau khôn xiết khi người thân ra đi mãi mãi.
=> Nhan đề của đoạn trích phản ánh rất đúng 1 sự thật mỉa mai, hài hước: con cháu
của đại gia đình này thật sự sung sướng, hạnh phúc khi cụ cố tổ chết. Đây cũng là
tình huống trào phúng chính yếu của toàn bộ chương truyện.
- Tang gia mà lại hạnh phúc. Nhà có tang mà lại vui vẻ, sung sướng.
=> Nhan đề phản ánh 1 sự mâu thuẫn trong tâm lí con người: 1 bên là sự hạnh
phúc của con người, 1 bên là sự mất mát không thể bù đắp được, vậy mà chúng lại
song hành, gắn kết với nhau, đúng là truyện bi hài đáng cười.
=> Kết luận: Như vậy, ngay nhan đề đã dự báo 1 màn bi hài kịch sắp diễn ra với
nhiều cảnh nghịch lí, nhiều pha cười ra nước mắt
Câu 2 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
a. Khi gia đình cụ cố Hồng có tang mà cái đại gia đình ấy lại "hạnh phúc". Nguyên
cớ của tấn bi hài kịch.
- Cụ cố tổ qua đời cũng đồng nghĩa với việc tờ di chúc của cụ đã tới lúc được thực
thi.

- Tình huống này đã làm bộc lộ không biết bao nhiêu mâu thuẫn trào phúng khác
đủ loại và làm đậm nét hàng loạt chân dung hài hước.
b. Niềm hạnh phúc của những người trong gia đình cụ cố tổ.
- Cụ cố Hồng:
+ Tuy 50 tuổi nhưng lâu nay chỉ mơ ước được gọi là cụ cố.
+ Dịp may đã tới, cụ nhắm nghiền mắt nghĩ đến lúc được mặc áo xô gai.
+ Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu máo diễn trò già nua, ốm yếu giữa
phố đông người để cho thiên hạ phải trầm trồ
=> Nhân vật này điển hình cho loại người ngu dốt, háo danh.
- Văn Minh - nhà cải cách y phục Âu hóa "phân vân", "đăm đăm chiêu chiêu", "vò
đầu rứt tóc" nhưng không phải vì cái chết của cụ cố tổ mà là làm thế nào để cái
chúc thư kia sớm đi vào thời kì thực hành và xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao khi hắn
có "2 cái tội nhỏ" nhưng "1 cái ơn to".
=> Đây là cơ hội để ông quảng cáo hàng, để kiếm tiền.
- Bà Văn Minh được mặc đồ xô gai tân thời và được dịp lăng-xê những mốt y
phục táo bạo nhất.
- Cô Tuyết được dịp "mặc bộ y phục Ngây thơ, xinh xinh" đồng thời "trên mặt lại
hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt 1 nhà có đám".
- Ông Phán mọc sừng cũng thật sự sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu
mình lại có giá trị đến thế và ông tin chắc rằng mình sẽ được trả công xứng đáng.
- Xuân Tóc Đỏ thì danh giá và uy tín càng cao vì chính nhờ hắn mà cụ cố tổ chết
c. Niềm vui của những người ngoài gia đình
- Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang lúc thất nghiệp thì được thuê giữ trật
tự cho đám tang, đã "sung sướng cực điểm".
- Xã hội trưởng giả bè bạn cụ cố Hồng được dịp khoe các thứ huy chương, phẩm
hàm

- Sư cụ Tăng Phú thì "sung sướng mà vênh váo" vì tin chắc rằng trong số thiên hạ
đứng xem ở các phố thế nào cũng có người nhận ra rằng "sư cụ đã đánh đổ được
Hội Phật giáo".
Câu 3 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Cảnh "đám ma gương mẫu":
- Một "đám ma to" được tổ chức "theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát bát cống,
lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích".
- Cái đáng cười: đám ma hổ lốn, tạp pí lù, đám ma mà như đám rước.
- Người đi đưa: đông đúc, sang trọng, nam nữ "chim nhau, cười tình với nhau,
Đám tang như đám hội, dòng người cứ mãi tắt bật giả dối “đám cứ đi”
=> Đám tang thành đám diễn trò bịp bợm, lố lăng, đồi bại về văn hóa.
- Hàng phố "nhốn nháo cả lên khen đám ma to", họ chú ý kiểu quần áo tang của
tiệm may Âu hóa.
- Cảnh hạ huyệt: Phán mọc sừng khóc to dúi vào tay Xuân tóc đỏ năm đồng xu gấp
tư, cụ cố Hồng khóc mếu máo ngất đi.
=> Cảnh đám tang diễn ra như một tấn hài kịch, bóc trần sự kệch cỡm, xấu xa, giả
dối. Một đám ma to tá, một đám xã hội lố lăng và đồi bại, bản chất của sự thật ẩn
nấp sau cái vẻ bề ngoài xấu xa đến xót xa.
Câu 4 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Thái độ của nhà văn đối với xã hội thượng lưu. Đó là một xã hội nhố nhăng, suy
tàn, thối nát, băng loạn những giá trị đạo đức. Miêu tả cái "đám cứ đi", nhà văn
muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu
đang hãnh tiến, đắc chí. Từ đó nhà văn đả kích châm biếm sâu cay, thâm thuý
những thói xấu xa của xã hội.
Câu 5 (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Nghệ thuật trào phóng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn trích này:
- Xây dựng những chi tiết mâu thuẫn trào phúng ấn tượng trong đoạn trích:

+ Cảnh đám ma được tổ chức rất đông rất to
+ Cảnh cậu Tú tân bắt mọi người phải đóng kịch để chụp hình
+ Cảnh ông Phán oặt người đi, khóc thảm thiết trên tay Xuân
- Nghệ thuật xây dựng và phát triển các tình huống
- Giọng văn mỉa mai, sử dụng thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một
cách linh hoạt
- Ngòi bút miêu tả sắc sảo: Những nét riêng của từng nhân vật trong đoạn trích.
3.2. Luyện tập
Câu hỏi (trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Những mâu thuẫn và chân dung trào phúng trào phúng trong đoạn trích:
*Mâu thuẫn trào phúng trong đoạn trích:
- Câu chuyện của Xuân tóc đỏ và cái chết của cụ tổ. Một kẻ có tội như Xuân ngờ
đâu lại trở thành có đại công với gia đình.
- Mâu thuẫn trào phúng còn thể hiện ngay trong tựa đề của chương này “Hạnh
phúc của một tang gia”.
- Miêu tả tỉ mỉ niềm hạnh phúc của mọi người trước cái chết của cụ cố tổ
=> Vũ Trọng Phụng đã lột bộ mặt thật của xã hội lố lăng, chuộng hình thức, không
chút tình người, vạch chân tướng của những hạng người mang danh thượng lưu trí
thức, văn minh nhưng thực chất là cặn bã đạo đức giả
* Những nhân vật trào phúng: cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tú
Tân, ông Phán mọc sừng, Xuân Tóc Đỏ. Bên cạnh đó là chân dung của những
người ngoài gia đình (hai tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa, bạn cụ cố Hồng...).
3.3. Tóm tắt
Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố
Hồng, từ khi cụ ngấp ngoái chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng
xảy ra từ khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này. Cụ
chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của “thế

hệ con cháu” hiếu thảo bằng những bộ trang phục âu hóa nửa tây nửa ta lẫn những
trò “Mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh. Cái đám ma to tát cụ cố
Hồng là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp
trung thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò nhố nhăng, phi đạo
đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là
bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc ấy.
3.4. Bố cục
Bố cục: 3 phần
- Phần 1 (từ đầu đến cho Tuyết vậy): Niềm vui và hanh phúc của các thành viên
khi cụ tổ qua đời
- Phần 2 (tiếp đến đám cứ đi): Cảnh đám ma gương mẫu
- Phần 3 (còn lại): Cảnh hạ huyệt
3.5. Nội dung chính
Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của
xã hội thượng lưu thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.
 

Xem thêm
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 1)
Trang 1
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 2)
Trang 2
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 3)
Trang 3
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 4)
Trang 4
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 5)
Trang 5
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 6)
Trang 6
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 7)
Trang 7
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 8)
Trang 8
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 9)
Trang 9
Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 10)
Trang 10
Tài liệu có 14 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống