Dọc đường xứ Nghệ | Ngữ văn lớp 7 Cánh diều

10.4 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ Ngữ văn lớp 7 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Dọc đường xứ Nghệ lớp 7.

Dọc đường xứ Nghệ - Ngữ văn lớp 7

I. Tác giả Sơn Tùng

 (ảnh 1)

1. Tiểu sử

- Tên thật: Bùi Sơn Tùng (1928-2021), sinh tại làng Hoa Lũy (nay là Kim Lũy), Diễn Châu, Nghệ An

2. Sự nghiệp

- Là nhà văn Việt Nam với nhiều tác phẩm về lãnh tụ Hồ Chí Minh và các danh nhân cách mạng, danh nhân văn hóa

- Các tác phẩm tiêu biểu: Búp sen xanh, Bên khung cửa sổ, Nhớ nguồn, Kỷ niệm tháng năm…

II. Tìm hiểu tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

- Trích tiểu thuyết Búp sen xanh

b. Bố cục Dọc đường xứ Nghệ

Văn bản Dọc đường xứ Nghệ được chia thành 3 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “không cam chịu nộp mình cho giặc”): Câu chuyện tình sử Mị Châu - Trọng Thủy và đền thờ Thục Phán

- Phần 2 (tiếp theo đến “có chứa trọng quyền cao đó, con ạ”): Câu chuyện về vùng Ba Hòn và đền Qủa Sơn

- Phần 3 (còn lại): Câu chuyện về đền thờ Nguyễn Du

c. Thể loại

Văn bản Dọc đường xứ Nghệ thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử

d. Phương thức biểu đạt

Phương thức biểu đạt của văn bản Dọc đường xứ Nghệ là tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm

2. Giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Giá trị nội dung của văn bản Dọc đường xứ Nghệ

- Câu chuyện kể về hành trình đi qua các địa danh của cha con cụ Phó Bảng. Mỗi địa danh họ đi qua gắn với một câu chuyện lịch sử. Qua các câu chuyện đó, cụ Phó Bảng đã giáo dục các con những phẩm chất, đức tính làm người

- Bài học: Qua các câu chuyện lịch sử, ta thấy thêm yêu đất nước, tự hào về vẻ đẹp của non sông đồng thời nhắc nhở mỗi người phải luôn nhớ về nguồn cội, rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp để xứng đáng với lịch sử hào hùng của dân tộc

b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Dọc đường xứ Nghệ

- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, thú vị, gửi gắm những bài học lịch sử sâu sắc

- Lối viết tự sự kết hợp miêu tả với biểu cảm

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

1. Cụ Phó bảng

a. Có vốn hiểu biết sâu rộng.

- Đi đến đâu cũng kể cho các con nghe về các truyền thuyết gắn với các địa danh lịch sử

- Giải thích các địa danh gắn với các sự kiện lịch sử của dân tộc.

b. Giáo dục các con về tình yêu quê hương đất nước

- Đền thờ Thục Phán An Dương Vương: Phó bảng dạy các con là người thì phải biết giữ trọn khí tiết giống như vua Thục Phán nhận ra lỗi lầm của mình khiến đất nước rơi vào tay giặc đã tự kết liễu đời mình chứ không chịu đầu hàng trước quân giặc.

- Khi giải thích cho con về hòn Hai Vai, hòn Trống Thủng, núi Cờ Rách: muốn nói với các con nhân dân chính là những người đã tạo nên tên núi sông, đất nước, nhân dân luôn có những ước vọng cao đẹp.

- Đền Quả Sơn thờ quan Lý Nhật Quang: ông Phó đã giải thích cho các con hiểu không phải quan nào cũng là quan tham có rất nhiều vị quan tốt bụng, giúp đỡ dân mang tới lợi ích cho nhân dân.

- Thăm mộ Đại thi hào Nguyễn Du: Lan tỏa tới các con tinh thần yêu văn chương, nghệ thuật

→ Qua đó, thấy được cụ Phó bảng là người vừa có trí tuệ, tài năng, lại có tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc. Cụ giáo dục anh em Khiêm và Côn từ chính những câu chuyện giản dị về quê hương, từ những con người con người cống hiến cho quê hương đất nước để lan tỏa tình yêu nước tới hai anh em.

2. Cậu bé Nguyễn Sinh Côn (Chủ tịch Hồ Chí Minh)

a. Ham học hỏi tìm hiểu

- Đến đâu cậu bé cũng hỏi cha về các địa danh lịch sử các ngọn núi con sông.

- Sau mỗi câu chuyện cha kể cậu bé lại tự rút ra những bài học

b. Tinh thần dân thể hiện trong lời nói và suy nghĩ:

- Khi nghe cha kể về tình sử Mỵ Châu, Trọng Thủy

+ Nhận ra được âm mưu, toan tính của nhà Thục

+ Sự cả tin và coi trọng chữ tín của vua An Dương Vương và Mỵ Châu đã dẫn đến cơ sự đất nước rơi vào tay giặc.

+ Nhận ra Vua nhà Thục vẫn là người đáng tôn trọng vì có khí tiết

→ Cậu bé còn nhỏ tuổi nhưng đã hiểu được những vấn đề lớn lao của dân tộc.

IV. Đọc tác phẩm: Dọc đường xứ Nghệ

Ba cha con Phó bảng lại thủng thẳng bước trên con đường mà sông núi mây trời đẹp như bức gấm thêu. Đi hết dãy núi Cấm, sang địa phận Diễn Châu, mảnh đất nổi tiếng trong lịch sử với tên gọi Châu Diễn, Côn tần ngần nhìn ngôi đền cổ kính có nhiều toà từ trên đỉnh núi xuống tận chân núi, sát đường Thiên lí. Côn ngạc nhiên hơn khi đứng trên dốc nhìn về phía tây, đối diện với ngôi đền, dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ, càng ngắm, núi càng biến hoá những hình ảnh theo sự tưởng tượng của Côn. Hòn lèn gần nhất, nằm ở giữa cánh cổng bát ngát màu xanh, lại y như một con người cụt đầu đứng hiên ngang giữa đời. Côn nói với cha:

- Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, về tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.

Thấy con ham muốn tìm hiểu về cội nguồn, ông Sắc bước đến bên gốc cây tùng già, giở cơm nắm cho hai con ăn. Dưới bóng cây cổ thụ, ba cha con quan Phó bảng cùng nhìn về phía núi non biêng biếc trải tận chân trời xa, ông kể cho con nghe trọn câu chuyện tình sử My Châu – Trọng Thuỷ. Côn ngạc nhiên hỏi cha:

- Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?

Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa... xa lắm, con ạ.

Khiêm lắc đầu, giọng hơi kéo dài:

- Người đời xưa có lẽ họ bịa chuyện chứ nàng Mỵ Châu kiếm đâu cho đủ lông ngỗng mà rải khắp con đường dài ấy cha?

Ông Sắc cười. Côn nói, vẻ thán phục:

- Chuyện Mỵ Châu – Trọng Thuỷ hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thuỷ ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kề nhau có hoà hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng My Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.

(2) Quan Phó bảng Sắc hơi sững sờ nhìn hai con, nhìn ngôi đền thờ Thục Phán:

- Con nói đúng. Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó. Con hãy để ý về phong cảnh núi non, đền đài. Con vừa hỏi cha về hòn núi kia giống một người cụt đầu. Người ta thường gọi nó là hòn Hai Vai hoặc là núi “Tướng quân rơi đầu” đó con ạ. Còn phía xa xa kia là hòn Trống Thủng. Từ hòn Trống Thủng, một dãy núi dài dằng dặc sát chân trời, đó là núi Cờ Rách.

Hai mắt Côn chơm chớp nhìn theo hướng tay chỉ của cha. Khiêm thì ngạc nhiên thốt lên:

- Ai tưởng tượng ra đầu tiên hình dáng các hòn núi nớ hẳn là mắt tiên, cha nhể?

- Từ lòng người mà suy ngẫm ra... con ạ. Người ta còn gọi vùng núi ấy là vùng Ba Hòn. Theo chuyện kể từ hồi xửa hồi xưa thì nước ta có giặc từ phương Bắc tràn vào, dân ở khắp miền đất nước ta nhất tề đứng dậy chống giặc giữ nước. Từ vùng Nghệ Tĩnh ni có một vị tướng kéo đại binh ra Bắc đánh dư trăm trận, chẳng may trong một trận giáp chiến, con ngựa của ông vấp phải cọc, quy chân trước, bọn giặc xúm lại, ông bị một lát đại đao đi qua cổ, đầu rơi xuống đất. Ông nhoại người ra lấy được đầu lắp lên cổ và phi ngựa mở đường máu chạy trở về. Quân sĩ của ông cũng kéo cờ mở trống về theo. Trên đường về, vị tướng này đã gặp một ông lão tại phía bắc sông Mã (Thanh Hoá). Vị tướng dừng ngựa, hỏi:

- Thưa ông, từ xưa đã có người nào bị chặt đầu, lại chắp lên cổ được không?

- Thưa tướng quân, sống được ạ.

Vị tướng lại thúc ngựa phi về tới Diễn Châu, quân sĩ bủa ra tận vùng Yên Thành. Vị tướng gặp một bà già ở phía nam sông Bùng liền hỏi:

- Thưa cụ, xưa nay có người nào bị chặt đầu, lại tự mình chặp vào cổ mà vẫn sống được không?

Bà cụ lắc đầu:

- Loài quỷ, loài yêu tinh thì mới có thể bị chặt đầu này mọc ra đầu khác, còn loài người thì nếu bị chặt đầu là chết.

Bà cụ vừa nói dứt lời, đầu vị tướng quân rơi xuống đất. Và ông đã hoá thành hòn núi Hai Vai. Ngựa của ông chạy thêm một đoạn lên vùng Yên Thành, hoá núi Mã Phục, tại làng Yên Mã. Trống, cờ cũng hoá thành núi Trống Thủng, núi Cờ Rách...

Nghe cha kể xong câu chuyện, Khiêm vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi.... Côn mắt vẫn nhìn về hòn Hai Vai, nói:

- Cha ơi! Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đến là tuyệt! Phải không cha?

- Con nói đúng. Dáng núi non của quê ta thường thể hiện khát vọng của con người.

(3) [….] Quan Phó bảng Sắc đã dẫn hai con trai đi hầu khắp những nơi nổi tiếng về phong cảnh đẹp, về di tích lịch sử của Nghệ An. Ông lại đưa hai con sang Hà Tĩnh. Hai anh em Khiêm, Côn được cha dẫn về thăm nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền, thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Côn tần ngần đứng bên cha, bên anh trước mộ Nguyễn Du và chạnh lòng thầm nhớ những câu thơ trong Truyện Kiều: Sè sè nấm đất bên đường / Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh / Rằng sao trong tiết Thanh minh / Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?...

Côn hỏi cha:

- Nguyễn Du đã để lại Truyện Kiều mà bà ngoại thuộc, mẹ của con thuộc, dì An và bao nhiêu người ở làng ta đều thuộc. Công lao lớn ấy sao dân lại không làm đền thờ ông Nguyễn Du, hả cha?

- Người quê mình không coi công việc làm thơ, làm văn là trọng, con ạ. Thậm chí lại coi những người đàn giỏi hát hay là “đồ xướng ca vô loài”.

- Sao con lại thấy có ngôi đền thờ thằng ăn trộm bị đánh chết, hả cha?

Quan Phó bảng phì cười:

- Cha làm sao giải thích nổi những điều ấy với con được?

Khiêm cha da trán, nhưng đã kìm được, chỉ nói “mát” em:

- Việc đời đã dớ dận, mi lại “thông minh” dớ dận nốt.

- Hứ, - Côn lườm anh Khiêm – anh đừng có khinh em là dớ dận. Anh không để ý chứ vừa rồi ta đi qua một cái miếu thờ cả cái tên ăn trộm, ăn cướp nữa. Trước cửa miếu có một hàng chữ lớn, đắp nổi: “Đạo tặc tối linh tôn thần”

Khiêm im lặng. Ba cha con quan Phó bảng như rơi vào khoảng không và trong dòng suy nghĩ của mỗi người hiện lên một câu hỏi lớn về những việc đời…

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Buổi học cuối cùng

Tác giả - tác phẩm: Dọc đường xứ Nghệ

Tác giả - tác phẩm: Mẹ

Tác giả - tác phẩm: Ông đồ

Tác giả - tác phẩm: Tiếng gà trưa

Đánh giá

0

0 đánh giá