Tài liệu tác giả tác phẩm Buổi học cuối cùng Ngữ văn lớp 7 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Buổi học cuối cùng lớp 7.
Buổi học cuối cùng - Ngữ văn lớp 7
I. Tác giả An-phông-xơ Đô-đê
1. Tiểu sử
- An-phông-xơ Đô-đê (1840-1897), nhà văn Pháp.
- Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, sau này gặt hái được nhiều thành công và được đông đảo bạn đọc yêu mến.
2. Sự nghiệp văn học
- Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng như: Một thời niên thiếu, Những cuộc phiêu lưu kì diệu của Tactaranh ở Taraxcông…
- Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" (1874).
II. Tìm hiểu tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ
Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học tiếng Đức. Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát.
b. Bố cục Buổi học cuối cùng
Văn bản Buổi học cuối cùng được chia thành 3 phần:
- Phần 1 (từ đầu đến “vắng mặt con”): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2 (tiếp đó đến “nhớ mãi buổi học cuối cùng này”): Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
c. Tóm tắt
Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM".
d. Thể loại
Văn bản Buổi học cuối cùng thuộc thể loại truyện ngắn
e. Phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt của văn bản Buổi học cuối cùng là tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm
2. Giá trị nội dung, nghệ thuật
a. Giá trị nội dung của văn bản Buổi học cuối cùng
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”
b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Buổi học cuối cùng
- Miêu tả nhân vật qua ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng.
- Ngôi kể thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực, hấp dẫn.
- Ngôn ngữ tự nhiên với giọng kể chân thành, xúc động.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Quang cảnh trên đường đến trường và ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng
- Tâm trạng của Phrăng trước buổi học: thoáng ý nghĩ trốn học và rong chơi ngoài đồng nội nhưng cưỡng lại được và sau đó chú bé ba chân bốn cẳng chạy đến trường
- Quang cảnh đường phố: Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị - nơi luôn lan ra những tin chẳng lành:
+ Những cuộc thất trận
+ Những vụ trưng thu
+ Những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức...
- Quang cảnh trường học khác hẳn với thường ngày: Trường học yên tĩnh, bình lặng y như 1 buổi sáng chủ nhật (khác hẳn thường ngày luôn ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố với:
+ Tiếng ngăn bàn đóng mở
+ Tiếng mọi người đồng thanh nhắc lại rất to các bài học
+ Tiếng thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn
- Thầy giáo Ha-men với thái độ, hành động khác hẳn với thường ngày:
+ Nói thật nhẹ nhàng khi Phrăng đến muộn (trước đây khi học sinh đến muộn thầy sẽ rất giận dữ nên khi bước vào Phrăng đã đỏ mặt tía tai vì sợ hãi)
+ Thầy mặc chiếc ao đơ-ranh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu - trang phục trang trọng chỉ được mặc vào dịp đặc biệt - nhưng lại mặc vào một buổi học bình thường như thế này
- Những khách đến tham gia buổi học bất ngờ, kì lạ không báo trước trên những hàng ghế trống cuối lớp:
+ Cụ già Hô-de trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép
+ Bác phát thu trước đây
+ Cùng nhiều người dân làng khác
→ Tất cả đều có vẻ buồn rầu
⇒ Tất cả những hình ảnh khác thường ấy khiến cho Phrăng vô cùng ngạc nhiên, khó hiểu
⇒ Đồng thời không khí tĩnh lặng, trang nghiêm khác thường của buổi học hôm ấy chính là dấu hiệu, điềm báo cho một cuộc khủng hoảng - sự tĩnh lặng trước cơn bão.
2. Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người
a. Cậu bé Phrăng
- Khi biết được đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng:
+ Choáng váng đến sững sờ khi nghe thầy thông báo
+ Tự giận mình vì những lần trốn học đi chơi
+ Nhìn những cuốn sách tiếng Pháp như những người bạn cố trí nay phải đau lòng giã từ (dù trước đây thấy thật nặng nề, chán ngán)
+ Nuối tiếc, nhớ thương người thầy sẽ không còn được gặp nữa
+ Cảm thấy tội nghiệp người thầy đã từng chán ghét, sợ hãi
- Khi học buổi học cuối cùng:
+ Chăm chú lắng nghe những điều thầy nói và thấy chúng thật dễ dàng → Cảm thấy chưa bao giờ mình chăm chú lắng nghe đến như thế
+ Cảm thấy kính yêu thầy, yêu thương thầy hơn
+ Tự nhủ sẽ luôn nhớ mãi buổi học tiếng Pháp cuối cùng này
→ Trong buổi học cuối cùng này Phrăng đã cảm nhận được cái hay, ý nghĩa của tiếng Pháp - tiếng mẹ đẻ của mình và tình cảm thầy trò thiêng liêng.
→ Chính vì thế mà Phrăng luôn cảm thấy nuối tiếc, cụm từ "giá như" được lặp lại nhiều lần, thể hiện sự tiếc nuối vô cùng tận của cậu đối với những ngày tháng đã qua, và với cả tiếng Pháp
b. Thầy Ha-men
- Thái độ với học sinh khác hẳn với thường ngày:
+ Không giận dữ hay trách phạt khi Phrăng không đọc được bài mà chỉ dịu dàng nhắc nhở em
+ Nói rất nhiều những lời hay dành cho tiếng Pháp - đây là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất
+ Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải từng chữ đến như hôm nay, như muốn truyền hết toàn bộ tri thức của mình ngay lập tức cho học sinh
+ Đứng lặng im trên bục giảng, đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình
- Những quan niệm, tư tưởng của thầy:
+ Cảm thấy ai cũng đáng tự chê trách khi nghĩ rằng còn khối thì giờ để học, và giờ đây không còn cơ hội nữa
+ Sẽ thật xấu hổ khi một người dân xứ An-dát lại không biết viết, biết đọc tiếng Pháp
+ Phải luôn giữ lấy tiếng Pháp và không được lãng quên nó, bởi khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chỉ cần vẫn còn giữ vững tiếng nói của dân tộc thì giống như được nắm chìa khóa chốn lao tù
→ Người thầy khẳng định sức mạnh và ý nghĩa to lớn của tiếng nói dân tộc - tiếng Pháp
→ Cùng niềm mong mỏi ở các em học sinh hãy giữu gìn, trân trọng và truyền lưu tiếng Pháp.
c. Các nhân vật khác
- Cụ Hô-de:
+ Mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép và cặp kính lớn đặt trên trang sách
+ Khi đọc sách, cụ nâng cuốn sách bằng hai tay
+ Cụ đọc rất chăm chú, đánh vần từng chữ như bọn trẻ, giọng đọc run run vì xúc động, rất kì cục
→ Những chi tiết đó thể hiện sự nâng niu, quý trọng của cụ Hô-de đối với tiếng Pháp cùng với đó là sự đau khổ khôn kể khi từ đây tiếng Pháp không còn được học, được viết ở xứ An-dát nữa.
- Các em học sinh:
+ Hết sức chăm chú và im phăng phắc trong giờ học
+ Không để ý đến cảnh vật xung quanh, kể cả những trò nhỏ nhất, tất cả đều cặm cụi viết
+ Tất cả vừa muốn cười nhưng cũng muốn khóc
→ Cũng như Phrăng, các em học sinh ai cũng trân quý những giây phút học tiếng Pháp cuối cùng này. Các em tập trung hết sức, như muốn níu kéo từng giây phút cuối cùng của buổi học.
3. Cảnh kết thúc buổi học
- Âm thanh:
+ Tiếng chuông nhà thờ điểm mười hai giờ
+ Tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về
→ Những âm thanh tuyên bố chấm dứt buổi học tiếng Pháp cuối cùng - từ bây giờ tiếng Đức sẽ thay thế cho tiếng Pháp được học ở An-dát.
- Hình ảnh trong lớp học:
+ Thầy Ha-men đứng dậy trên bục giảng, mặt tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu
+ Thầy khuyên mọi người hãy yêu nước và giữ gìn tiếng nói của dân tộc
+ Cầm một viên phấn, dằn mạnh hết sức, viết thật to dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”
→ Thầy ha-men là người có tấm lòng yêu nước và ý thức giữ gìn tiếng nói của dân tộc.
- Hình ảnh kết thúc văn bản: thầy Ha-men đứng tựa vào tường, không nói gì mà chỉ ra hiệu cho học sinh rời khỏi lớp
→ Thể hiện sự đau xót đến không thể đứng vững, không thể nói được thành lời của người thầy giáo trước giây phút chia xa này
→ Đồng thời thể hiện nỗi đau của một người dân xứ An-dát khi từ đây không còn được dạy và học tiếng Pháp nữa.
→ Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của thầy Ha-men nói riêng và người dân nước Pháp nói chung.
IV. Đọc tác phẩm: Buổi học cuối cùng
(1) Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-man (Hamel) đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội.
Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế! Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng cỏ Ríp-pe (Rippert), sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường.
Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân: “Lại có chuyện gì nữa đây?”.
Bác phó rèn Oát-stơ (Wachter) đang đọc cáo thị cùng cậu học việc, thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo:
- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!
Tôi tưởng bác nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảnh sân nhỏ nhà thầy Ha-men.
Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ta tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy xuống bàn:
- Yên một chút nào!
Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng Chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào!
)2) Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng:
– Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.
Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de (Hauser), trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa. Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần sờn mép, để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách.
Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
– Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin (Berlin) là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren... Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã.
(3) Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...
Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư?... Giờ đây, tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ2. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày Chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi...
Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi:
– Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi... con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học.”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến... Ôi! Tại hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: “Thế nào? Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!...”. Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách. Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó. Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?...
(4) Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù...
Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi.
Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc, những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp... Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
- Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy... Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảnh sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiếng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi.
Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kì cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc... Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!
(5) Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ... Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế.
– Các bạn, – Thầy nói – hỡi các bạn, tôi... tôi...
Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu.
Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUỐN NĂM!”.
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: “Kết thúc rồi... đi đi thôi!”.
Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Tác giả - tác phẩm: Người đàn ông cô độc giữa rừng
Tác giả - tác phẩm: Buổi học cuối cùng
Tác giả - tác phẩm: Dọc đường xứ Nghệ
Tác giả - tác phẩm: Mẹ