Giải SGK Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2 | Cánh diều

2.6 K

Lời giải Tiếng Việt lớp 3 Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2 sách Cánh diều gồm đầy đủ các phần Đọc, Viết, Nói và nghe, Góc sáng tạo giúp học sinh dễ dàng làm bài tập Tiếng Việt lớp 3 Tập 2. Mời các bạn theo dõi:

Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 1 trang 59

Tiếng Việt lớp 3 trang 59 Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng: Mỗi học sinh đọc một đoạn văn, đoạn thơ khoảng 70-75 tiếng hoặc đọc thuộc lòng một bài thơ đã học

Trả lời:

- Học sinh học thuộc lòng bài thơ, luyện tập đọc thành tiếng.

- Chú ý những từ ngữ dễ sai, đọc rõ ràng, đúng cảm xúc của văn bản. 

Tiếng Việt lớp 3 trang 59 Câu 2: Đọc và làm bài tập:

Tiết 1 trang 59 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Vào mùa lúa, người ta thường dựng những hình người bằng rơm trên cánh đồng. Đó là những chú bù nhìn rơm. Đầu chúng đội nón lá, mình mặc áo, danh hai tay, lắc qua lắc lại để đuổi chim. Từ chú bù nhìn này qua chú khác có nối một sợi dây. Dưới bụng mỗi chú có một chùm lon.

Theo Nguyễn Quang Sáng

a) Tìm trong câu thứ nhất các bộ phận câu:

- Trả lời cho câu hỏi:Ai?

- Trả lời cho câu hỏi:Làm gì?

- Trả lời cho câu hỏi:Khi nào?

- Trả lời cho câu hỏi:Ở đâu?

b) Trả lời câu hỏi:

- Vào mùa lúa, người ta dựng những chú bù nhìn trên cánh đồng để làm gì?

- Theo em, người ta gắn dưới bụng những chú bù nhìn chùm lon để làm gì?

Trả lời:

a) Vào mùa lúa, người ta thường dựng những hình người bằng rơm trên cánh đồng.

- Trả lời cho câu hỏi:Ai?- Người ta (hay người nông dân)

- Trả lời cho câu hỏi:Làm gì?- Dựng những hình người bằng rơm

- Trả lời cho câu hỏi:Khi nào?- Vào mùa lúa

- Trả lời cho câu hỏi:Ở đâu?- Trên cánh đồng

b) Trả lời câu hỏi:

- Vào mùa lúa, người ta dựng những chú bù nhìn trên cánh đồng để đuổi sâu bọ và chim hại lúa

- Người ta gắn dưới bụng những chú bù nhìn chùm lon để phát ra âm thanh dọa sâu bọ và chim hại lúa.

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 2 trang 60, 61

Tiếng Việt lớp 3 trang 60 Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

- Học sinh học thuộc lòng bài thơ, luyện tập đọc thành tiếng.

- Chú ý những từ ngữ dễ sai, đọc rõ ràng, đúng cảm xúc của văn bản. 

Tiếng Việt lớp 3 trang 60 Câu 2: Đọc và làm bài tập:

Tiếng chim buổi sáng

Tiết 2 trang 60, 61 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Sáng ra trời rộng đến đâu

Trời xanh như mới lần đầu biết xanh

Tiếng chim lay động lá cành

Tiếng chim đánh thức chồi xanh dậy cùng

Tiếng chim vỗ cánh bầy ong

Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm

Gọi bông lúa chín về thôn

Tiếng chim nhuộm óng cây rơm trước nhà

Tiếng chim cùng bé tưới hoa

Mát trong từng giọt nước hòa tiếng chim

Vòm cây xanh, đố bé tìm

Tiếng nào riêng giữa trăm nghìn tiếng chung

Mà vườn hoa cũng lạ lùng

Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim.

Định Hải

1. Bài thơ có bao nhiêu dòng nhắc lại hai từ “tiếng chim”?

Trả lời: 

Bài thơ có 8 dòng nhắc lại từ “tiếng chim” 

2. Bằng cách lặp lại liên tục các từ trên, bài thơ diễn tả điều gì?

Chọn ý đúng: 

 

Ý

Đúng

Sai

a) Tiếng chim buổi sáng rộn rã khắp nơi

 

 

b) Tiếng chim buổi sáng du dương, trầm bổng

 

 

c) Tiếng chim buổi sáng vọng đến tận trời xanh

 

 

 

Trả lời: 

 

Ý

Đúng

Sai

a) Tiếng chim buổi sáng rộn rã khắp nơi

x

 

b) Tiếng chim buổi sáng du dương, trầm bổng

 

x

c) Tiếng chim buổi sáng vọng đến tận trời xanh

 

x

 

3. Chọn câu trả lời đúng: 

a) Các hình ảnh nói về chim buổi sáng từ dòng thứ 3 đến dòng thứ 8 nói lên điều gì?

- Tiếng chim buổi sáng như ánh nắng

- Tiếng chim buổi sáng như bầy ong

- Tiếng chim buổi sáng thật là kì diệu

b) Câu thơ nào cho thấy tiếng chim buổi sáng như một dàn nhạc có sự tham gia của rất nhiều loài chim

-“Tiếng chim cùng bé tưới hoa / Mát trong từng giọt nước hòa tiếng chim”.

-“Vòm cây xanh, đố bé tìm / Tiếng nào riêng giữa trăm nghìn tiếng chung”.

-“Mà vườn hoa cũng lạ lùng / Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim”

c) Câu thơ nào cho thấy vườn hoa rất yêu thích tiếng chim buổi sáng?

-“Tiếng chim cùng bé tưới hoa / Mát trong từng giọt nước hòa tiếng chim”.

-“Vòm cây xanh , đố bé tìm / Tiếng nào riêng giữa trăm ngàn tiếng chung”.

-“Mà vườn hoa cũng lạ lùng / Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim”

Trả lời:

a) Các hình ảnh nói về chim buổi sáng từ dòng thứ 3 đến dòng thứ 8 nói lên điều gì?

-Tiếng chim buổi sáng như ánh nắng

- Tiếng chim buổi sáng như bầy ong

- Tiếng chim buổi sáng thật là kì diệu

b) Câu thơ nào cho thấy tiếng chim buổi sáng như một dàn nhạc có sự tham gia của rất nhiều loài chim

-“Tiếng chim cùng bé tưới hoa / Mát trong từng giọt nước hòa tiếng chim”.

-“Vòm cây xanh, đố bé tìm / Tiếng nào riêng giữa trăm nghìn tiếng chung”.

-“Mà vườn hoa cũng lạ lùng / Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim”

c) Câu thơ nào cho thấy vườn hoa rất yêu thích tiếng chim buổi sáng?

-“Tiếng chim cùng bé tưới hoa / Mát trong từng giọt nước hòa tiếng chim”.

-“Vòm cây xanh , đố bé tìm / Tiếng nào riêng giữa trăm ngàn tiếng chung”.

-“Mà vườn hoa cũng lạ lùng / Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim”

4. Dựa theo gợi ý từ bài thơ trên, em hãy viết:

a) Một câu tả tiếng chim buổi sáng.

b) Một câu diễn tả niềm vui của em khi nghe tiếng chim hót.

Trả lời: 

a) Một câu tả tiếng chim buổi sáng: Buổi sáng tiếng chim rộn rã khắp vườn như đánh thức mọi sự vật.

b) Một câu diễn tả niềm vui của em khi nghe tiếng chim hót: Ôi tiếng chim hót mới hay làm sao!

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 3 trang 62

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

- Học sinh học thuộc lòng bài thơ, luyện tập đọc thành tiếng.

- Chú ý những từ ngữ dễ sai, đọc rõ ràng, đúng cảm xúc của văn bản. 

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 2: Viết một bức thư hỏi thăm người thân (hoặc bạn bè) và nói về việc học tập của em (hoặc về một chuyện vui ở địa phương em)

Trả lời:

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2020

Chị Kim Anh kính mến!

Hôm nay là ngày chủ nhật, tranh thủ thời gian rảnh rỗi nên em viết thư hỏi thăm chị. Đầu thư, em kính chúc chị gái yêu của em luôn mạnh khỏe nơi đất nước Mỹ xa xôi và sẽ đạt được học bổng kì này của trường chị nhé!

Chị xa nhớ!

Dạo này chị vẫn khỏe và học tập tốt chứ?  Em vừa kết thúc học kì 1 của năm học này rồi chị ạ. Lớp em có 15 bạn đạt kết quả xuất sắc, em xếp thứ 3 của lớp chị ạ. Chị có vui cho thành tích của em không? Điểm thi môn toán của em được 10 và môn tiếng việt đạt 9 điểm. Cô giáo chủ nhiệm đã dành cho chúng em những lời chúc mừng và động viên, em cảm thấy rất vui chị ạ.

Ngoài chăm chỉ học tập, em còn tham gia rất nhiều phong trào của trường nữa đấy chị ạ. Từ hoạt động văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 đến các hoạt động thể thao. Em rất thích bộ môn khiêu vũ, nó giúp em cảm thấy thư giãn và thoải mái sau những giờ học căng thẳng. Bên cạnh đó, nhà trường đã phát động phong trào ủng hộ các bạn học sinh vùng cao có hoàn cảnh khó khăn, em đã quyên góp quần áo và truyện đọc cũ của hai chị em mình nữa đấy. Cô giáo đã nhận xét về kết quả rèn luyện đạo đức của em đạt loại tốt, luôn năng nổ và nhiệt tình trong các hoạt động. Chị thấy em gái nhỏ của chị có giỏi không nào?

Thôi, em dừng bút nhé. Tết về, em còn kể cho chị nghe nhiều chuyện hay lắm nữa cơ. Em kính chúc chị thật nhiều sức khỏe, luôn xinh đẹp và học giỏi nữa nhé. Còn em thì lúc nào cũng lấy tấm gương học tập tốt, rèn luyện tốt của chị để làm gương cho mình đấy.

Em gái của chị

Nguyễn Bảo Anh

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 4 trang 62

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

- Học sinh học thuộc lòng bài thơ, luyện tập đọc thành tiếng.

- Chú ý những từ ngữ dễ sai, đọc rõ ràng, đúng cảm xúc của văn bản. 

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 2: Nghe – viết:

Bầu trời ngoài cửa sổ

Buổi sáng, ánh nắng dịu dàng, ngọt màu mật ong từ bầu trời ngoài cửa sổ rọi vào nhà, in hình hoa lá trên nền gạch. Còn về đêm, trăng khi thì như chiếc thuyền vàng trôi trong mây, khi thì như chiếc đèn lồng thả ánh sáng xuống đầy sân. Hà thích ngồi bên cửa sổ nghe bà kể chuyện cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa…”

Theo Nguyễn Quỳnh

Chú ý: viết đúng chính tả, viết đẹp, cẩn thận từ ngữ dễ sai: dịu dàng, nền gạch, rọi vào.

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 3: Trong đoạn văn trên, vầng trăng được so sánh với những sự vật nào? Qua mỗi hình ảnh so sánh, em hình dung vầng trăng như thế nào?

Trả lời: 

- Vầng trăng được so sánh với: chiếc thuyền vàng, chiếc đèn lồng.

- Vầng trăng khi đầy khi khuyết, gần gũi, thân thuộc.

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 5 trang 62, 63

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

- Học sinh học thuộc lòng bài thơ, luyện tập đọc thành tiếng.

- Chú ý những từ ngữ dễ sai, đọc rõ ràng, đúng cảm xúc của văn bản. 

Tiếng Việt lớp 3 trang 62 Câu 2: Nghe và kể lại câu chuyện sau: Gươm thần.

Tiết 5 trang 62, 63 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Trả lời: 

Năm ấy, có một tên bạo chúa ở vùng biển xa bỗng nhiên kéo quân đánh lên vùng rừng núi của người Bana. Quân của chúng đi tới đâu, lập tức rừng xanh trở thành khoảng trắng, nương rẫy thành bãi sỏi đá, buôn làng thành đất bằng. Bọn chúng thi nhau chém giết, bức ép dân làng, bắt hết trâu, bò, heo, gà; cướp sạch lúa, bắp, chiêng ché, nốc cạn rượu ngon, mật ngọt, đốt trụi cả cửa nhà.

Người người căm hờn. Núi rừng cũng bừng bừng nổi giận. Dân khắp các Tơ-ring (khu vực cư trú gồm nhiều làng) trăm miền rừng núi đều một lòng một dạ đứng lên cầm khiên dao chống kẻ thù. Nhưng quân giặc đông, thế giặc mạnh, dân chống không nổi. Buôn làng quằn quại đau thương.

Giữa lúc ấy, ở một buôn nhỏ trong rừng sâu, có một bà tên là HơBia Đát. Một hôm, bà Đát làm rẫy mệt quá, lẩn vào một gốc cây ngồi nghỉ. Nắng trưa như đổ lửa, bà khát quá muốn tìm nước uống. Chợt trông thấy một vũng nước trong vắt sau gốc cây, bên khe đá, bà vội chạy đến cúi xuống uống một hơi. Nước mát thấm đến ruột gan. Nhưng vừa uống xong, đứng dậy, bà lấy làm lạ vì bụng nặng chình chịch và cứ to ra mãi. Rồi chỉ ba tháng sau, bà đã trở dạ và sinh được một đứa con trai.

Đứa bé ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi, chẳng bao lâu đã trở thành một chàng trai có sức khỏe lạ thường. Nhìn quê hương bị quân thù tàn phá, lòng chàng căm thù vô hạn. Chàng bèn xin mẹ, từ giã buôn làng đi khắp đó đây, tìm theo những người tài giỏi để đi giết giặc. Nhưng đi mãi, đi mãi, qua bao nhiêu buôn làng, bao nhiêu ngọn núi, chàng vẫn chưa gặp ai có tài sức đánh đuổi được kẻ thù. Càng đi nhiều, càng thấy những cảnh đau thương, tang tóc của nhân dân, chàng càng nóng lòng gặp được người tài để hợp lòng giết giặc.

Uất ức, căm hờn nhưng không biết tính sao, chàng trai dậm chân xuống đất, ngẩng mặt lên trời mà than rằng:

- Ơ ông trời, sao chẳng giúp ta rửa sạch thù này?

Chàng vừa dứt lời thì lạ thay, bầu trời đang quang đãng bỗng nhiên tối sầm lại, mây đen kéo đầy, dông bão nổi lên. Và một tiếng nổ rung trời chuyển đất làm núi đồi lảo đảo, rừng rú ngả nghiêng, đất sụt, chàng trai ngã xuống một hố nước nóng sâu thẳm, hơi bốc lên mù mịt. Vùng vẫy trong nước, chàng cố sức ngoi lên. Khi chàng ngụp đầu để bơi thì chợt thấy một vật đen đen, dài dài chìm trong sóng nước. Lấy làm lạ, chàng bèn lặn hẳn xuống, dùng răng cắn chặt lấy vật đó và bơi thẳng lên bờ. Và chàng nhận ra vật đó là một thanh thép quý. Từ lúc thanh thép được mang lên bờ, nước hồ bỗng nguội đi, sương mù cũng tan hết và đất trời lại sáng sủa như thường.

Chàng sung sướng ngắm vuốt thanh thép còn bốc khói và trong bụng thầm cảm tạ thần linh đã ban cho chàng một báu vật. Chàng vác thanh thép chạy thẳng đến nhà một người thợ rèn ở gần đấy. Chàng nhờ bác thợ rèn, rèn ngay cho mình một thanh gươm để đi đánh giặc. Nghe nói thế, bác thợ rèn vội vã làm ngay. Bác cho thanh thép vào lò, nung suốt ngày, từ sáng đến tối, đốt hết cả than mà thanh thép vẫn trơ ra không đỏ. Chàng trai cùng dân buôn phải kéo đi đốt hết cả một cánh rừng già, lấy cây đốt thành than, đem về cho bác thợ rèn nung thép. Đến đêm hôm thứ bảy, khi khối than khổng lồ cháy gần hết thì thanh thép mới đỏ và bỗng nhiên đỏ rực như mặt trời. Và dưới tay búa lành nghề của bác thợ rèn, thanh thép đỏ phút chuốc đã trở thành lưỡi gươm sắc và sáng quắc.

Các bác thợ mộc trong khéo tay nhất trong vùng cũng kéo đến, chia nhau đi tìm gỗ gáy về làm chuôi và vỏ gươm. Xong xuôi họ nâng thanh gươm trao cho chàng trai con của HơBia Đát. Chàng nhận gươm và lập tức trút ra khỏi vỏ. Một tia sáng chói lòa phóng ra. Mọi người dạt ra, lấy tay che mắt cho khỏi chóa. Gươm hoa lên, tỏa muôn ánh hào quang làm mờ cả ánh sáng mặt trời. Mặt trời cũng chói mắt liền kéo mây che kín mặt. Mặt đất tối sầm, gió bão nổi lên, sấm sét gầm thét ầm ầm. 

Chàng trai con của HơBia Đát múa gươm xông thẳng đến kẻ thù. Trong gió bão, dân các nơi cũng cầm khiên đao, cung nỏ hò reo xông tới. Sấm sét cũng chạy theo gươm thần, gầm vang liên tiếp bổ xuống quân thù. Lưỡi gươm của chàng trai vung tới đâu, quân giặc tan tới đó. Chỉ trong một đêm, lũ quân hung bạo và tên bạo chúa đều bị giết dưới lưỡi gươm thần.

Đánh tan giặc rồi, dân làng reo mừng kéo về dựng lại nhà rông, sửa sang lại buôn làng, nương rẫy. Chẳng bao lâu, khắp mọi vùng đều làm ăn thịnh vượng và chàng dũng sĩ, con của HơBia Đát năm xưa đã thành một ông già râu tóc trắng như bông. Dân làng nhớ ơn nên rất quý trọng ông già, coi ông là ngôi sao sáng trên trời cao. Do đó mọi người gọi ông là ông Tú và gọi lưỡi gươm diệt trừ bạo chúa là Gươm ông Tú.

Một hôm, ông Tú bị ốm nặng, dân buôn hết lòng chạy chữa nhưng ông không khỏi. Biết mình sắp chết, ông Tú liền đem thanh gươm thần ra, thả xuống hồ nước do đất sụt năm kia, để trả lại cho thần linh. Sóng nước nhận gươm, sôi lên sùng sục. Mặt hồ lại bốc khói mịt mù.

Đời sau truyền lại rằng, ở hồ nước đó, người Kinh đã mò được vỏ gươm, người Khơme mò được chuôi gươm, còn chính người Bana thì mò được lưỡi gươm. Người ta còn nói rằng, nếu lắp thanh gươm thần lại trọn vẹn thì sức mạnh của nó sẽ không có gì địch nổi.

Tiếng Việt lớp 3 trang 63 Câu 3: Trao đổi:

a) Câu chuyện chàng trai có sức khỏe lạ thường và thanh gươm thần thể hiện ước mơ gì của nhân dân ta?

b) Những chi tiết nào trong câu chuyện cho thấy người dân đồng lòng cùng chàng trai đánh giặc?

c) Câu chuyện trên nói lên điều gì?

Trả lời: 

a) Câu chuyện chàng trai có sức khỏe lạ thường và thanh gươm thần thể hiện ước mơ về người anh hùng và vũ khí lợi hại để chiến thắng quân giặc. 

b) Những chi tiết trong câu chuyện cho thấy người dân đồng lòng cùng chàng trai đánh giặc đó là chi tiết rèn thanh sắt thành gươm thần. 

c) Câu chuyện kể về người anh hùng dân tộc Bana. Chàng nhìn cảnh đau thương tang tóc của quê hương quyết tâm ra đi tìm người tài hợp lòng giết giặc, tấm lòng chàng đó cảm động trời đất, nhờ có thanh gươm thần trời ban, chàng đã đánh tan quân thù trả lại sự bình yên cho buôn làng.

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 6 trang 63, 64, 65

Đọc và làm bài tập

Chõ bánh khúc của dì tôi

Tiết 6 trang 63, 64, 65 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

          Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc.

          Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về.

          Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu xanh rêu lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xem một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó.

          Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được hương vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.

Theo Ngô Văn Phú

Tiếng Việt lớp 3 trang 64 Câu 1: Câu nào tóm tắt đầy đủ đặc điểm của cây rau khúc? Chọn ý đúng:

a) Cây rau khúc chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú; lá như mạ bạc

b) Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lớp tuyết cực mỏng

c) Sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.

Trả lời:

Chọn ý a)

Tiếng Việt lớp 3 trang 64 Câu 2: Tác giả tả chiếc bánh khúc như thế nào? Ghép đúng:

Tiết 6 trang 63, 64, 65 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Trả lời:

Tiết 6 trang 63, 64, 65 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Tiếng Việt lớp 3 trang 64 Câu 3: Đoạn văn tả cây rau khúc có mấy câu có hình ảnh so sánh?

a) 1 câu: Đó là câu nào?

b) 2 câu: Đó là những câu nào?

c) 3 câu: Đó là những câu nào?

Trả lời:

b) 2 câu: Đó là:

- Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. 

- Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê.

Tiếng Việt lớp 3 trang 65 Câu 4: Đoạn văn tả chiếc bánh khúc có mấy câu có hình ảnh so sánh?

a) 1 câu: Đó là câu nào?

b) 2 câu: Đó là những câu nào?

c) 3 câu: Đó là những câu nào?

Trả lời:

b) 2 câu: Đó là:

- Những cái bánh màu xanh rêu lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. 

- Cắn một miếng bánh thì như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó.

Tiếng Việt lớp 3 trang 65 Câu 5: Từ “quê hương” trong câu cuối bài đọc có tác dụng gì? Chọn ý đúng:

a) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với quê hương

b) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với tuổi thơ

c) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với người dì

Trả lời:

a) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với quê hương

Ôn tập giữa học kì 2 Tiết 7 trang 65

Tiếng Việt lớp 3 trang 65 Câu 1: Viết đoạn văn nói về một nhân vật em yêu thích trong những câu chuyện (bộ phim) em đã đọc, đã nghe và cho biết vì sao em thích nhân vật đó.

Trả lời:

Em đã đọc nhiều truyện cổ tích của thế giới nhưng em vẫn ấn tượng với truyện Cô bé Lọ Lem. Nàng Lọ Lem trong truyện thật xinh đẹp, dịu hiền và rất nết na. Cô nàng đã có quãng thời gian dài khổ cực để tìm tới một hạnh phúc trọn vẹn.

Lọ Lem thật xinh đẹp! Dáng người nàng nhỏ nhắn, dong dỏng cao. Khuôn mặt trái xoan, thanh tú nổi bật, nước da trắng hồng, mịn màng. Đôi mắt đen láy, sáng long lanh ẩn dưới hàng lông mi uốn cong tự nhiên càng làm tăng vẻ quyến rũ của đôi mắt. Hàng lông mày lá liễu dài, cong càng làm tăng vẻ tự nhiên của đôi mắt quyến rũ ấy. Chiếc mũi dọc dừa cao điểm vẻ đẹp cho khuôn mặt của nàng. Đôi môi mềm, đầy đặn, bóng như vừa được bôi một lớp son mỏng. Hàm răng trắng, đều đặn cứ lấp ló giữa hai vành môi, ẩn giấu một vẻ đẹp nền nã. Mái tóc đen, óng mượt xoã ngang vai. Thường ngày Lọ Lem chỉ mặc một bộ đổ rách rưới, vá chằng vá đụp để lau dọn nhà cửa. Khuôn mặt của Lọ Lem xinh xắn vậy mà lại luôn bị lem luốc bởi cô phải quét dọn nơi xó nhà hay gác xép bẩn thiu. Chính vì bộ dạng lem luốc nên cô mới bị gọi tên là Lọ Lem. Lọ Lem rất chăm chỉ, luôn dọn dẹp luôn chân luôn tay. Cô rất hay lam hay làm. Lọ Lem có tính nết thật tốt đẹp: hiền dịu, nết na, chăm chỉ – những đức tính, phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ.

Cuộc đời của Lọ Lem có quãng đường dài thật gian khổ mới tìm được hạnh phúc đích thực. Để dẫn tới kết quả tốt đẹp đó là cả một câu chuyện dài. Thuở nhỏ, Lọ Lem sống rất vui vẻ cùng cha mẹ trong ngôi nhà rộng rãi, thoải mái. Bỗng nhiên, mẹ nàng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Cha nàng lấy thêm vợ kế. Mụ mẹ kế đã có hai đứa con riêng trạc tuổi Lọ Lem. Hai đứa con của mụ đứa thì gầy, đứa thì béo. Sau đó, cha của Lọ Lem bị tai nạn nên cũng qua đời. Sau khi ông mất, mụ mẹ kế bắt cô bé phải phục vụ và phục tùng hai mẹ con mụ. Những bộ đổ lộng lẫy, những đôi giày tuyệt đẹp và căn phòng trang hoàng lộng lẫy đã quá xa vời với Lọ Lem. Mụ mẹ kế chỉ cho Lọ Lem mặc những bộ đồ bỏ đi, vá chằng vá đụp và đôi giày thô kệch. Mụ bắt cô phải làm lụng luôn chân luôn tay. Còn hai cô con riêng của mụ chỉ biết ăn chơi, lêu lổng, sống cuộc sống sung sướng mà lẽ ra Lọ Lem được hưởng. Lọ Lem xinh xắn chỉ được ở trên gác xép bụi bặm, bẩn thỉu, chứa đầy đồ cũ nát và cô có bạn là những chú chuột. Rồi một hôm, hoàng từ mở tiệc tiếp khách có mời cả mấy mẹ con mụ dì ghẻ và cả Lọ Lem nữa. Nhưng mụ chỉ sắm sửa, trang điểm cho mình và hai đứa con xấu xí. Mụ còn bắt Lọ Lem nhặt hạt đỗ tới bong cả tay mà không được đi dự tiệc. May có bà tiên giúp đỡ, cô đã có bộ đồ lộng lẫy, cổ xe tuyệt đẹp tới dự tiệc. Lọ Lem nhảy với hoàng tử tới sau mười hai giờ – giờ bà tiên dặn phải về nếu không phép màu sẽ bị biến mất. Cô vội vã đánh rơi chiếc giày làm hoàng tử đi tìm khắp nơi. Cuối cùng, hoàng tử đã tìm được chủ nhân của chiếc giày. Hoàng tử đã tìm thấy vị hôn thê của đời mình – Lọ Lem và cưới nàng về làm vợ. Cuộc sống của hai người rất hạnh phúc.

Lọ Lem là cô gái nết na, hiền dịu và rất xinh đẹp. Với tâm hồn trong sáng và phẩm chất tốt đẹp, cô đã tìm được đến với hạnh phúc đích thực. Qua câu chuyện, em hiểu rằng người chăm ngoan, hiền dịu, nết na sẽ được đền đáp xứng đáng.

Tiếng Việt lớp 3 trang 65 Câu 2: Viết đoạn văn nói về tình cảm, cảm xúc của em với một cảnh đẹp mà em biết

Tiết 7 trang 65 Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Cánh diều

Trả lời:

Mẫu 1:

Vào kì nghỉ hè, gia đình em đã được đến thăm thành phố Huế. Khung cảnh ở nơi đây đẹp như một bức tranh. Em đã được đi thăm rất nhiều địa điểm du nổi tiếng như Đại nội Huế, Lăng Tẩm Huế, điện Hòn Chén, núi Bạch Mã. Nhưng em cảm thấy ấn tượng nhất là vẻ đẹp của con sông Hương thơ mộng. Cùng với cây cầu Tràng Tiền đã rất nổi tiếng bắc qua con sông này. Bố mẹ em nói với em rằng con người Huế mang vẻ thâm trầm, kín đáo. Còn em cảm thấy con người ở đây rất lãng mạn, ôn hòa. Chuyến du lịch đã đem đến cho em thật nhiều cảm xúc tuyệt vời.

Mẫu 2:

Cuối học kì I, gia đình em có một chuyến du lịch đến Đà Nẵng. Em đã cùng bố mẹ đi thăm quan nhiều địa điểm nổi tiếng ở Đà Nẵng như Cầu Vàng, Bà Nà Hills, chùa Linh Ứng… Nơi nào cũng đẹp đẽ, giống như những gì em được thấy trên vô tuyến vậy. Hôm sau, gia đình em đi tắm biển ở bãi biển Mỹ Khê. Bờ biển dài và rộng, bãi cát mịn màng. Hàng dương xanh trên cồn cát ven bờ luôn rì rào khúc hát. Buổi sáng, nước biển trong xanh, những con sóng nhè nhẹ vỗ vào bờ. ông mặt trời thức dậy, biển lại thêm rực rỡ bởi những tia nắng vàng óng ả. Em mong rằng có thể quay trở lại nơi đây một lần nữa.

Mẫu 3:

Nghỉ hè năm nay, em được bố mẹ cho đi nghỉ mát ở Sầm Sơn. Cảnh biển Sầm Sơn thật đẹp. Bầu trời cao, trong xanh không một gợn mây. Ông mặt trời tỏa ánh nắng chói chang xuống khắp nơi. Bãi cát vàng trong nắng càng trở nên lấp lánh, trông tuyệt đẹp. Nước biển xanh và trong. Đứng gần biển em có thể nhìn thấy từng đợt sóng đánh vào bờ. Nhìn ra xa phía chân trời, bầu trời và biển như hòa vào làm một. Gió biển lồng lộng, cùng với tiếng sóng vỗ nghe thật vui tai. Bên cạnh bãi biển, núi Trường Lệ - một địa danh khá nổi tiếng ở đây, đứng sừng sững chạy dài theo mép nước. Phía nam dãy Trường Lệ còn có bãi tắm Tiên Ẩn, một thung lũng nhỏ với cảnh quan gần như nguyên sơ. Cuối bãi là đền Độc Cước cổ kính uy nghi, tọa lạc trên một hòn núi đá. Tất cả đều tuyệt đẹp như những bức ảnh mà em đã được xem trên mạng khi tìm hiểu về Sầm Sơn.

Xem thêm các bài giải SGK Tiếng Việt lớp 3 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Bài 14: Anh em một nhà

Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2

Bài 16: Bảo vệ Tổ quốc

Bài 17: Trái Đất của em

Bài 18: Bạn bè bốn phương

Đánh giá

0

0 đánh giá