TOP 20 bài Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học

1 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học

Đề bài: Thực hiện theo nhóm học tập nội dung sau: Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua phân tích một số tác phẩm cụ thể lấy từ văn học Việt Nam (thơ, truyện, kịch).

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học - Mẫu 1

Kính thưa quý thầy cô và các bạn. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau bước vào một hành trình thú vị, khám phá về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học. Đây là một chủ đề không chỉ đầy thách thức mà còn rất hấp dẫn, vì nó là nền tảng của sự phát triển và đa dạng hóa trong ngành nghệ thuật. Trên hành trình này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá sâu hơn về cách những tác giả thông qua việc sáng tạo và tái chế các yếu tố văn học đã tồn tại, để tạo ra những tác phẩm mới mẻ, độc đáo và ý nghĩa.

Vấn đề về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo không chỉ là một khía cạnh kỹ thuật của việc viết văn, mà còn là một phần quan trọng của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Khi một tác giả lấy cảm hứng từ những tác phẩm trước đó, họ không chỉ đơn giản là sao chép, mà còn làm mới và làm giàu thêm ý nghĩa, tạo ra một sản phẩm mới với cái nhìn và cảm xúc riêng. Qua cuộc thảo luận hôm nay, chúng ta hy vọng sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về tầm quan trọng của việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học, cũng như cách mà những yếu tố này góp phần làm nên sự độc đáo và giá trị của một tác phẩm nghệ thuật. Hãy cùng nhau khám phá và thảo luận để hiểu sâu hơn về chủ đề này và trao đổi ý kiến của mình trong quá trình học tập và nghiên cứu văn học.

Văn học, với bản chất nghệ thuật đặc biệt của nó, là nơi mà các tác giả sử dụng ngôn ngữ để phản ánh tư tưởng, cảm xúc và quan điểm của mình về thế giới xung quanh. Trong quá trình sáng tác, họ không chỉ dựa vào trải nghiệm và cảm nhận cá nhân mà còn mượn một số yếu tố từ các tác phẩm khác. Tuy nhiên, việc mượn không đồng nghĩa với việc sao chép. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo và mang dấu ấn riêng, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố mượn và sáng tạo trên cơ sở đó. Mượn là việc sử dụng các yếu tố từ các tác phẩm khác như cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ, hình ảnh, ngôn ngữ... Mục đích của việc mượn là để làm phong phú thêm nội dung và hình thức của tác phẩm, tạo sự liên kết với các tác phẩm khác và giúp tác giả truyền đạt quan điểm, tư tưởng của mình. Ví dụ, việc Nguyễn Du lấy cảm hứng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sáng tạo ra Truyện Kiều hay việc nhiều nhà văn Việt Nam chuyển thể vở kịch Hamlet của Shakespeare sang sân khấu.

Tuy nhiên, việc mượn chỉ là bước khởi đầu. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố đã mượn để phù hợp với mục đích sáng tạo của mình. Cải biến có thể thể hiện qua việc thay đổi cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ... và sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo và độc đáo. Ví dụ, Nguyễn Du đã cải biến nhiều chi tiết trong Truyện Kiều để tạo ra một tác phẩm mới với nội dung và ý nghĩa mới, hoặc Shakespeare đã thay đổi nhiều yếu tố trong vở kịch Hamlet để phản ánh văn hóa và xã hội của nước Anh. Sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, thể hiện bản sắc riêng của mỗi tác giả. Sáng tạo là khả năng kết hợp hài hòa giữa việc mượn và cải biến, đồng thời thể hiện tư tưởng, quan điểm và tình cảm của tác giả qua tác phẩm của mình. Ví dụ, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sáng tạo độc đáo, thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và tài năng nghệ thuật của ông, trong khi Hamlet của Shakespeare là một sáng tạo phản ánh những suy tư về cuộc đời và con người.

Vay mượn, cải biến và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Vay mượn là nền tảng để cải biến và sáng tạo. Cải biến là cầu nối giữa vay mượn và sáng tạo. Sáng tạo là yếu tố quyết định giá trị của tác phẩm. Việc sử dụng hợp lý các yếu tố vay mượn, cải biến và sáng tạo góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. Khi vay mượn, cần ghi rõ nguồn gốc để thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả và tác phẩm gốc. Cải biến và sáng tạo là yếu tố thể hiện bản sắc riêng của tác giả.

Hiểu được tầm quan trọng của vay mượn, cải biến và sáng tạo giúp chúng ta đánh giá cao giá trị của tác phẩm văn học, đồng thời sáng tạo hiệu quả trong các lĩnh vực khác nhau.

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học - Mẫu 2

Chào các bạn, sau đây tôi xin giới thiệu với các bạn về sự vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua vở kịch Hồn Trương Ba, da Hàng Thịt của tác giả Lưu Quang Vũ.

Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ, bài viết nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng này.

Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác – đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung. Trong bài nói này, tôi không so sánh một cách toàn diện giữa một truyện cổ dân gian và một vở kịch dài hiện đại, cũng không so sánh về toàn bộ nội dung tư tưởng, mà chỉ so sánh về tư tưởng triết học – phần cốt lõi của cả hai tác phẩm.

Truyện cổ dân gian: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:

- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.

Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Tự nhiên, bên Kỵ Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi. Đế Thích cười bảo: Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.

Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: Trương Ba đâu? Vợ Trương Ba sụt sịt: Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi  Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?. Suy nghĩ một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?. Vợ Trương Ba đáp: Có một người Hàng thịt mới chết tối hôm qua. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người Hàng thịt mà bảo: Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời. Nói chuyện trong nhà người Hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người Hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ con người Hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.

Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh Hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận ra là chồng mình. Quan hỏi rằng: Chồng chị ngày thường hay làm gì?. Đáp: chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi. Quan lại hỏi vợ người Hàng thịt: chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?. Đáp: chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn. Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh Hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người Hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba. Vì thế mới có câu Hồn Trương Ba, da Hàng thịt.

Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát. Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí là Trương Ba – chồng mình – thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống. Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì quyết định xử ngay cho anh hàng thịt mang hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba. Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là Trương Ba – người sinh thời chơi cờ rất giỏi.

Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản – đề cao, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh hồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn – truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích và không hề gây tranh cãi.

Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lý học và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ nhận thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại. Vở kịch của Lưu Quang Vũ: Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba. Trương Ba đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba mấy nén hương và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và chết. Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà ta vô tình thắp ba nén hương cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh Hàng thịt mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh Hàng thịt để sống lại.
Gia đình người Hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì người Hàng thịt đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà Hàng thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ Trương Ba nhận chồng, Trưởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trương Ba (trong xác anh Hàng thịt) về nhà Trương Ba. Nhưng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc chồng phải sang giúp chị Hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về. Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với mình. Hồn Trương Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh Hàng thịt.

Lý trưởng vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà Hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà Hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà Hàng thịt đến nửa đêm thì được về. Trời đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị Hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì chị ta giữ lại mời rượu rồi mời ở lại. Hồn Trương Ba lúc đầu định xuôi theo nhưng đã đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ta, về nhà. Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, đòi ăn ngon, nước cờ đi cũng khác. Lý trưởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, người con dâu cũng than phiền bố chồng thay đổi. Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người Hàng thịt diễn ra; qua đó, xác người Hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó, cu Tị nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Trương Ba từ chối, xin cho cu Tị sống, còn mình xin trả lại xác cho người Hàng thịt và chấp nhận cái chết. Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây vườn trò chuyện với vợ.

Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa vào ký ức, tình cảm và ý thức của hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba). Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại. Trưởng Hoạt, bạn của Trương Ba, khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới) về tình bạn giữa hai người, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông Hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể.

Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó. Đầu tiên, hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình. Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm). Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị Hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị Hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác chồng mình không phải là của chồng mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quý hơn vì nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba cũng bị rung động trước sự gần gũi với vợ người Hàng thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị. Vợ Trương Ba cũng dần cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của hồn Trương Ba. Đến đây, ta đã thấy sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh hồn cùng những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân xác.

Đỉnh cao của tư tưởng triết lý trong vở kịch là sự đối thoại giữa linh hồn và thân xác. Cuộc đối thoại này cho thấy con người ta có hai phần là linh hồn và thể xác. Hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lý tính phải bắt đầu từ cảm tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường; cảm xúc thẩm mỹ phải dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác… Thể xác cũng có tính độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lý, không thể bỏ qua. Nhưng, linh hồn phải kiểm soát những nhu cầu đó, phải điều chỉnh, thăng hoa, “Người” hóa, văn hóa hóa những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu bản năng và nếu cần, biết đè nén, biết hy sinh nó. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất; trong đó, linh hồn giữ vị trí chủ đạo, nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu và ham muốn, nhất là khi bị hoàn cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Ở đây, cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác – tức của những nhu cầu tầm thường – đối với linh hồn – tức là đối với khát vọng sống cao khiết.

Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là một hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức. Từ sự lý giải lại một cách biện chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết lý nhân sinh của thời đại, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn và thể xác, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết, nhưng hồn Trương Ba vẫn sống – sống trong tình cảm của mọi người, sống mà không cần mượn đến thân xác của ai hết.

Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân vật trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tị – một em bé hàng xóm vừa chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người khác: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Vì thế, ông đã xin cho cu Tị được sống lại, còn mình thì xin được chết. Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con người.

Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.

Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịt còn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe dọa.

Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu hình mang tính tiên nghiệm. Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện.

Trên đây là nội dung chia sẻ của tôi. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ cô và các bạn để bài của tôi hoàn thiện hơn.

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học - Mẫu 3

Xin chào thầy cô và các bạn. Sau đây em sẽ thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Văn học là dòng chảy miên man, không ngừng vận động và phát triển. Trong dòng chảy ấy, việc các tác giả vay mượn, cải biến và sáng tạo là điều không thể tránh khỏi. Đây là một vấn đề quan trọng, góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng cho kho tàng văn học. Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một ví dụ điển hình cho sự vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học.

Tác phẩm được lấy cảm hứng từ Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã không sao chép một cách đơn thuần mà vay mượn một cách có chọn lọc những chất liệu như: cốt truyện, nhân vật, mô típ,... để tạo nên một tác phẩm mới mẻ, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Về cốt truyện, Nguyễn Du giữ nguyên khung sườn cơ bản của Truyện Kim Vân Kiều. Tuy nhiên, ông đã cải biến một số chi tiết như: bổ sung thêm nhân vật Thúy Kiều, thay đổi kết thúc của tác phẩm,... Những cải biến này đã góp phần làm mới câu chuyện, khơi gợi sự đồng cảm cho người đọc và thể hiện quan điểm của Nguyễn Du về cuộc đời và con người. Về nhân vật, Nguyễn Du tiếp thu những nhân vật có sẵn trong Truyện Kim Vân Kiều nhưng đã thổi hồn vào họ, biến họ thành những nhân vật có chiều sâu tâm lí và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Ví dụ, nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, mang số phận bi thảm. Qua đó, Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng đối với người phụ nữ và lên án xã hội phong kiến bất công. Về mô típ, Nguyễn Du sử dụng nhiều mô típ quen thuộc trong văn học dân gian như: mô típ "con vua lấy chồng", "hòn đá thử vàng", "chữ trinh".... Tuy nhiên, ông đã cải biến những mô típ này để phù hợp với ý tưởng và phong cách sáng tác của mình. Ví dụ, mô típ "hòn đá thử vàng" được Nguyễn Du sử dụng để thử thách phẩm giá của Thúy Kiều và khẳng định giá trị nhân văn của tác phẩm. Sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, giúp cho Truyện Kiều khẳng định giá trị và đóng góp vào sự phát triển của văn học. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội sinh động, thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc và khẳng định tài năng xuất chúng của mình.

Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.

Trên đây là phần thuyết trình của em. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.

10+ Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học - Mẫu 4

Xin chào thầy cô và các bạn. Sau đây em sẽ thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Truyện Kiều, kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, không chỉ vang danh bởi giá trị nhân đạo sâu sắc mà còn bởi tài năng nghệ thuật xuất chúng của tác giả, thể hiện qua việc vay mượn, cải biến và sáng tạo một cách độc đáo.

Nguyễn Du đã vay mượn cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác phẩm văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, ông không đơn thuần sao chép mà đã biến hóa, sáng tạo trên cơ sở tiếp thu những giá trị văn hóa, nghệ thuật của tác phẩm gốc.

Trên nền tảng cốt truyện vay mượn, Nguyễn Du đã thổi hồn vào Truyện Kiều bằng những cải biến độc đáo. Ông thay đổi tính cách, số phận của một số nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều. Kiều trong Truyện Kiều không chỉ là một người con gái tài sắc vẹn toàn mà còn là một người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp, giàu lòng nhân ái, luôn khao khát tự do và hạnh phúc. Những nhân vật khác như Từ Hải, Thúy Vân, Hoạn Thư... cũng được xây dựng với những nét tính cách mới, độc đáo hơn so với nguyên tác.

Cùng với việc thay đổi nhân vật, Nguyễn Du còn bổ sung thêm nhiều chi tiết, tình tiết mới, làm cho cốt truyện thêm sinh động, hấp dẫn. Ông cũng thay đổi kết thúc của tác phẩm, thể hiện niềm tin vào con người và tương lai tươi sáng.

Về nghệ thuật, Nguyễn Du sử dụng thể thơ lục bát một cách linh hoạt, sáng tạo, tạo nên nhịp điệu thơ vừa du dương, êm dịu, vừa bi ai, thê lương. Ngôn ngữ thơ trau chuốt, giàu sức gợi cảm, thể hiện tài năng nghệ thuật xuất chúng của Nguyễn Du.

Sự sáng tạo của Nguyễn Du còn thể hiện ở giá trị tư tưởng và nghệ thuật của Truyện Kiều. Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, đề cao vẻ đẹp tâm hồn con người, đặc biệt là người phụ nữ. Truyện Kiều cũng thể hiện lòng yêu nước, thương dân của tác giả.

Nhờ sự vay mượn, cải biến và sáng tạo độc đáo, Truyện Kiều đã trở thành một kiệt tác văn học Việt Nam, được nhiều thế hệ độc giả yêu thích và trân trọng. Tác phẩm là minh chứng cho tài năng nghệ thuật phi thường của đại thi hào Nguyễn Du.

Trên đây là phần thuyết trình của em. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.

Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học - Mẫu 5

Xin chào thầy cô và các bạn. Sau đây em sẽ thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.

“Mỗi nghệ sĩ ngôn từ chân chính đều góp vào kho tàng văn hoá nhân loại cái độc đáo của riêng mình. Nhưng cái độc đáo thể hiện trong các tác phẩm của bậc thầy này hay bậc thầy khác đó, lại có mối liên hệ năng động với những cái do các nhà văn khác sáng tạo”. Đây là câu nói quen thuộc về mối liên hệ mang tính tất yếu trong sáng tác văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tạo dựa trên Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt.

Bản thân chủ đề tư tưởng của Kim Vân Kiều truyện bộc lộ minh bạch ngay từ lời thuyết minh của tác giả ở đầu mỗi chương truyện. Tư tưởng của Kim Vân Kiều truyện là đề cao phẩm chất đạo đức của nhân vật Kiều theo khuôn khổ đạo đức Nho giáo, câu chuyện Tài mệnh tương đố là phương tiện để tác giả tài tử - giai nhân chuyển tải mục đích tối cao đó: Qua rất nhiều bất hạnh và những xung đột mâu thuẫn phức tạp xen kẽ nhau dó, tác giả xây dựng từ nhiều mặt nghiêng, nhiều góc độ tính cách bi kịch của Vương Thúy Kiều, tỏ bày nhiều phương diện phẩm chất tốt đẹp trong tính cách của nàng, giành được sự đồng tình sâu sắc của mọi người. Nói về tư tưởng của Nguyễn Du, về chủ ý của ông khi kể Đoạn trường tân thanh trước hết là nói về các triết lí chủ yếu mà ông tâm đắc và thấy câu chuyện về nàng Kiều trong Kim Vân Kiều truyện là một minh chứng, ông thể hiện nó ở quan điểm đánh giá đối với các sự kiện, nhân vật khi kể chuyện. Trong Đoạn trường tân thanh, tư tưởng của Nguyễn Du trước hết thể hiện ở triết luận chữ tài — xuyên suốt tác phẩm và là nội dung quan trọng nhất. Đăng lên một triết luận chua chát ở đầu và cuối tác phẩm, đặt nhân vật Thúy Vân trong thế đối sánh với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du bày tỏ thái độ không thừa nhận tư tưởng tài mệnh tương đố và gợi người đọc băn khoăn về một nghĩa khác của chữ tài. Tài mà Nguyễn Du dùng để nói về Kiều (Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau) nếu hiểu là tài năng thì không thể lí giải nguyên nhân nỗi khổ của đời Kiều, nếu hiểu tài là tình thì chưa đủ thuyết phục vì Tam Hợp đạo cô đã từng nói Kiều khổ vì sắc sảo khôn ngoan cộng thêm với một chữ tình. Khi lí giải bằng tư tưởng triết học Trung  Quốc đời Tống vể chữ tài cùng với quan niệm của người xưa về tài trong Từ điển Từ Hải (tài: tài năng/ thảo mộc chi sơ/lực), có thể hiểu rằng: Tài mà Nguyễn Du muốn nói là nguyên nhân nỗi khổ của Kiều (khi xung khắc với Mệnh) chính là năng lực sống (theo triết học đời Tống: Tính ví như mặt nước phẳng/ Tình là mặt nước nổi sóng, va động/ Tài là lực làm cho mặt nước nổi sóng). Chính vì ham muốn sống mà những nhân dục” trong Kiều không phù hợp với “thiên lí” đương thời nên xã hội ấy vùi dập nàng là điều đương nhiên. Bản thân Nguyễn Du cũng nhận thấy ở con người thời đại một sức sống nồng nhiệt, say mê mà phần lớn là không được cuộc đời đáp ứng, cất tiếng kêu mới về khúc đoạn trường của Kiều cũng là cất lên tiếng nói thời đại...Tất nhiên cách hiểu này cũng chỉ là tương đối và cũng là một cảm nhận của người viết mà thôi.

Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.

Trên đây là phần thuyết trình của em. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.

Đánh giá

0

0 đánh giá