TOP 20 bài So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu

1.5 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu

Đề bài: So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu được sáng tác theo những phong cách nghệ thuật khác nhau.

TOP 20 bài So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu (ảnh 1)

Dàn ý So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu

a. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.

- Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí.

b. Thân bài

* Điểm chung

- Sáng tác năm 1948.

- Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.

- Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu lửa.

* Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng

- Xuất thân:

+ Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.

+ Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.

- Hoàn cảnh chiến đấu:

+ Chiến trường vùng biên giới Việt - Lào khắc nghiệt.

+ Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.

+ Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh hoàng.

+ Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.

- Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:

+ "Không mọc tóc", "quân xanh màu lá", hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp kẻ thù.

- Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:

+ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Một lòng hy sinh cho Tổ quốc, không tiếc thân mình.

+ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ...Áo bào thay chiếu anh về đất": Cái chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.

- Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:

+ Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.

+ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", khao khát tình yêu, hạnh phúc.

=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, là động lực để người lính trở nên mạnh mẽ kiên cường trong chiến đấu.

* Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu

- Xuất thân:

+ Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.

- Điều kiện chiến đấu:

+ Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.

+ Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.

+ Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.

=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn.

- Ngoại hình:

+ Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó là hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực "Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày" => Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị.

- Vẻ đẹp tâm hồn

+ Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.

+ Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng có chung hoàn cảnh, gắn bó sâu sắc, đồng cam cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.

+ Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát, hy sinh trong chiến tranh.

+ Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu.

c. Kết bài

- Khái quát cảm nhận chung về hai bài thơ.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 1

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn 1945-1975, thời kỳ đầy biến động và chiến tranh. Cả hai đều chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, và tác phẩm của họ nhiều lúc trở thành bản ghi chép đầy cảm xúc về đất nước và nhân dân.  Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng, ông có nhiều đóng góp lớn cho văn học Việt Nam. Trích đoạn từ "Đất Nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" không chỉ tập trung vào khía cạnh lịch sử và chiến tranh mà còn nêu bật sự quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình tượng đất nước không chỉ là một vùng đất trải dài mà còn là nguồn cảm hứng vô tận và nguồn năng lượng bất tận từ tâm hồn nhân dân. Tố Hữu, một nhà thơ và chính trị gia nổi tiếng, đã để lại nhiều tác phẩm với chủ đề Đất Nước và cuộc chiến tranh giành độc lập. Bài thơ "Việt Bắc" của ông tập trung vào mảnh đất nổi tiếng với cuộc kháng chiến chống Pháp, và qua đó, ông tạo nên một bức tranh hùng tráng về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương.

Nét chung về hình ảnh đất nước trong hai đoạn trích. Cả hai tác giả đều chú trọng vào hình ảnh của một đất nước độc lập, tự do, nơi con người tự hào làm chủ đất nước của mình. Hình ảnh đất nước không chỉ là một địa lý mà còn là nguồn tình yêu và tự hào, đặc biệt trong những trang sử hào hùng của dân tộc. Cả hai tác giả đều nhấn mạnh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước không chỉ là một vùng đất mà còn là sự hiện thân của những người dân yêu nước, họ là những người làm nên vẻ đẹp, hùng vĩ của đất nước.

Đất nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một đề tài mà là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, và tâm huyết của mỗi người con Việt Nam. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ mỹ thuật để tạo ra những hình ảnh sống động, cảm xúc sâu sắc, và lời thơ sâu sắc. Đất nước không chỉ là một không gian địa lý mà còn là không gian tinh thần, mang theo những giá trị văn hóa, lịch sử và tình nghĩa đồng bào. Từ những đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước không chỉ là hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên, những dòng sông, núi non, mà còn là những kí ức lịch sử, những trận chiến anh hùng, và tình cảm tương thân tương ái giữa những con người Việt Nam.

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước"

Đất nước không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh và đoàn kết mà còn là nơi gắn bó tâm linh, nơi chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự nhạy bén trong việc chọn lọc ngôn ngữ, hình ảnh, và biện pháp diễn đạt để làm cho đất nước trở nên thực tế và gần gũi với độc giả. Những đường văn của ông không chỉ là những câu thơ đơn lẻ, mà là một sự kết hợp tinh tế của từ ngữ, âm nhạc, và tâm trạng. Cuối cùng, qua những bài thơ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ đất nước, và niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đất nước trong thơ ông không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một thực tế sống động, đầy sức sống và ý nghĩa sâu sắc.

Trong bài thơ "Việt Bắc," Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh và hào hùng của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến.

" Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sang như ngày mai lên"

Các đường Việt Bắc được mô tả như những dải đất "rầm rập như là đất rung," tượng trưng cho sự chấn động và mạnh mẽ. Hình ảnh quân đội và dân công điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu sung cùng mũ nan, tạo nên một bức tranh sống động về sự đoàn kết và sự quyết tâm. Bằng cách sử dụng từ láy và biện pháp so sánh cường điệu, Tố Hữu tạo ra những hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn, như bước chân nát đá muôn tàn, lửa bay, sương dày. Những tượng tươn này không chỉ thể hiện sự hy sinh và kiên trì của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và lòng yêu nước. Cuối cùng, hình ảnh "đèn pha bật sang như ngày mai lên" thể hiện hy vọng và ánh sáng trong tương lai, tạo nên một tác phẩm thơ đầy tính chất tâm linh và ý nghĩa. Tố Hữu đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố này để tạo ra một bức tranh hùng vĩ về sức mạnh của đất nước trong kháng chiến.

Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ. Tố Hữu tập trung vào mảnh đất Việt Bắc, tạo nên một bức tranh anh hùng về chiến tranh chống Pháp. Ông thể hiện sự lưu luyến và nhớ nhung giữa những người chiến sĩ và những người ở lại. Nguyễn Khoa Điềm trình bày Đất Nước như một thực thể toàn vẹn, kết hợp lịch sử, văn hoá và tâm hồn dân tộc. Ông tập trung vào ý nghĩa của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn đất nước.

Nhìn chung, cả hai bài thơ của Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Cảm hứng về độc lập, tự do, tình yêu Tổ quốc, truyền thống bất khuất và vai trò quan trọng của nhân dân làm nên đất nước đã được thể hiện một cách độc đáo qua từng nét văn hóa, nghệ thuật của hai nhà thơ tài năng.

TOP 20 bài So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu (ảnh 2)

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 2

Trong hoài niệm của kí ức, bức tranh vạn vật thiên nhiên tứ bình của núi rừng Tây Bắc hiện lên thật sinh động và chân thực trong thơ của Tố Hữu

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh rao cài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng ….

Bằng sự ướm hỏi chân thành đầy tinh xảo, người ra đi đã biểu lộ sự lưu luyến và nhớ nhung với kẻ ở lại. Với hình thức tu từ mang dấu hỏi ở cuối câu thơ, lời giãi bày đã được bộc lộ đầy tâm tình mà không cần lời đáp. Hoa núi của rừng sâu là hình ảnh quen thuộc từng gắn bó với kháng chiến gian nan chống Pháp, ta nhớ hoa nhớ người chính là nhớ vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên của Việt Bắc và tình người nồng ấm nơi đây. Những câu sau là một loạt những hình ảnh thân mật và thân thương của đất trời và vạn vật thiên nhiên Việt Bắc. Một bức tranh tứ bình đẹp tuyệt được trải ra trước mắt người đọc. Khunh cảnh vạn vật thiên nhiên thật thơ mộng. Đầu tiên là sắc xanh bạt ngàn của núi rừng khi Việt Bắc vào đông. Những ngọn đuốc tượng trưng sáng rực được hình thành bởi hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi. Trong cái nền khoảng trống đẹp tươi của vạn vật thiên nhiên, vẻ đẹp và khí thế của con người hiện lên vững chãi với gài thắt lưng:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Xuân qua, hạ đến, vạn vật thiên nhiên của Việt Bắc được tổ điểm bởi tiếng ve râm ran nơi rừng phách hổ vàng. Hình ảnh thiếu nữ hiện lên gắn bó giao hòa với vạn vật thiên nhiên, cùng sự cần mẫn hái măng một mình. Bức tranh mùa hạ như một bức sơn mài vừa mang chất văn minh lại đậm chất cổ xưa .

Khép lại bộ tranh tứ bình ấy chính là những đường nét về mùa thu nên thơ cùng tiếng hát chia tay giã biệt bạn hữu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Bức tranh vạn vật thiên nhiên đẹp xiết bao với trăng thu được tưới bởi không khí tự do. Sự thân thương, thân mật và mộc mạc của con người và vạn vật thiên nhiên như đã hòa làm một. Vẻ đẹp của con người hiện lên qua tiếng hát ngọt ngào đầy nghĩa tính với kháng chiến và cách mạng. Sự trong trẻo của giọng hát, sự thủy chung ân tình của đồng bào dân tộc bản địa. Đây phải chăng chính là nghĩa tình mười lăm năm gắn bó mặn nồng … Cảm nhận vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên và con người trong Việt Bắc  Đây thôn Vĩ Dạ qua việc nghiên cứu và phân tích lối thớ của Tố Hữu khiến người đọc cảm nhận được thâm thúy và cụ thể .

Khi nghiên cứu và phân tích Việt Bắc  Đây thôn Vĩ Dạ, tất cả chúng ta thấy thi nhân họ Hàn cũng sử dụng câu hỏi tu từ ngay trong những tiến trình thơ của mình nhưng lại mang ý niệm trách mọc nhẹ nhàng. Sự mộc mạc thân mật thân quen của làng quê Việt hiện lên chân thực trong những câu thơ của Hàn Mạc Tử. Đó là một miền quê nơi sông Hương thơ mộng và trữ tình. Hiện lên trên cả là hình ảnh những hàng cau thẳng tắp vươn lên trong nắng sớm, sau đó là một khu vườn mướt xanh của lá với sắc ngọc tinh khôi. Trong khoảng trống bình dị ấy, vẻ đẹp của con người hiện lên quá đỗi mộc mạc với khuôn mặt chữ điền ẩn hiện xa xa sau những chiếc lá trúc. Khung cảnh thôn Vĩ hiện lên ấm ấp thân quên chỉ sau vài nét phác họa của người thi nhân. Vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên dung dị ẩn sau từng câu chữ tả cảnh. Xa xa hơn chính là đất trời, là sông nước và gió mây. Vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của con người, có chút gì đó là buồn thương, là xa cách, là chia tay. Gió  mây vốn xa nhau giờ đây lại như xa hơn bởi cách dùng từ độc lạ của Hàn Mặc Tử. Biện pháp nhân hóa được nhà thơ sử dụng tài tính với hình ảnh dòng nước buồn thiu. Tâm hồn còn người đã thổi vào cảnh một sự luyên tiếc xa xăm, một nỗi nhớ u hoài không dứt.

Việt Bắc  Đây thôn Vĩ Dạ đều mang vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên và con người, đều mang màu sắc tâm trạng về khung cảnh sông nước quê hương và thiên nhiên. Bút pháp điêu luyện đã chắp cánh và thổi hồn cho thiên nhiên hiện lên sinh động, chân thực và có chút thơ mộng. Cả hai tác phẩm đều thể hiện sự tài hoa trong ngòi bút của Tố Hữu và Hàn Mặc Tử.

Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc chia ly, xa cách, tâm trạng nhớ nhung trong tình yêu. Việt Bắc thể hiện nỗi nhớ da diết nhẹ nhàng của người ở với người đi sau mười lăm năm gắn bó qua việc khơi lại những kỉ niệm và kí ức trong quá trình gian khổ chống Pháp. Đều là những cây bút tài hoa, mang màu sắc thơ trữ tình, mặc dù với Tố Hữu đó là chất trữ tình cách mạng, còn trong thơ Hàn Mặc Tử lại là chất trữ tình lãng mạn điển hình. Đây thôn Vĩ Dạ cho thấy sự khắc khoải nhớ nhung khôn cùng mang màu sắc bi ai và chia ly. Việt Bắc thể hiện nghĩa tình gắn bó qua giọng thơ nhẹ nhàng, qua vẻ đẹp và những khung cảnh quen thuộc gần gũi của núi rừng Việt Bắc.

Có thể nói, Việt Bắc  Đây thôn Vĩ Dạ là hai tác phẩm biểu lộ thâm thúy và rõ nét vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên và con người, trải qua đó cũng cho thấy sự tài hoa phát minh sáng tạo trong phong thái của hai nhà thơ. Dù sống ở những thời đại khác nhau, với tiến trình lịch sử dân tộc cũng khác nhau, nhưng ở họ là sợi dây liên kết, là những cảm hứng phát hiện về vạn vật thiên nhiên và con người.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 3

Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.

“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Hay:“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ.

Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.

Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa sáng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.

10+ So sánh 2 tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu đôi lứa

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 4

Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.

Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.

Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính.

Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc.

Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, người lính Tây Tiến hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàng. Nói về họ, Quang Dũng vẫn dùng từ đoàn binh – gợi cảm giác về một đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.

Hình ảnh quân xanh màu lá ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.

Đối lập vẻ ngoài tiều tụy là khí phách bên trong, kết hợp từ dữ oai hùm gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với cọp trêu người thì người lính cũng có oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.

Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

(Đồng chí – Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế.

(Cá nước – Tố Hữu).

Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:

Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân.

Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nỗi nhớ người yêu nhớ dáng kiều thơm nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.

Trong chặng đường hành quân gian khổ, thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ thử thách ý chí nghị lực của người lính. Cùng hoạt động trên địa bàn rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu gắn bó mật thiết với thiên nhiên núi rừng nơi đây, nhưng mỗi người lính lại mang cảm hứng khác nhau tạo nên nét đẹp rất riêng, rất độc đáo trong Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu.

Tác giả Quang Dũng và Tố Hữu đều nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. , ta thấy rằng những đoàn quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp đều được tái hiện bởi vẻ đẹp hào hùng, bởi lý tưởng cao đẹp và ý chí kiên cường bất khuất trong cái gian nan, hiểm nguy, thiếu thốn nơi chiến trường. Cả hai đoạn thơ đều mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn khi tái hiện không khí kháng chiến sục sôi trên các ngả đường đồng thời thể hiện niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới ba mươi người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm nào, dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới.

Giờ đây, chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vây quân giặc đang co cụm ở những cứ điểm cuối cùng:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm xưa là rừng núi là đêm (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ rầm rập tiến quân ra trận. Từ láy rầm rập là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ rầm rập đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc hành quân diễu binh hùng tráng:

Xuân hãy xem cuộc diễn binh hùng vĩ

Ba mươi mốt triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ.

Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm màu sắc hùng tráng. Từ cái nhìn chung ở câu một và hai đến đây, tác giả đi vào cái nhìn cụ thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì các câu sau, tác giả tả bằng thị giác: Quân đi điệp điệp trùng trùng. Từ láy điệp điệp trùng trùng thật giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gọi lên trong ta những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết:

Từ nơi em gửi tới nơi anh

Những đoàn quân trùng trùng ra trận

Như tình yêu nối trời vô tận

Ở đây ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế của đoàn quân ra trận đã được nâng ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng.

Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cùng đã có câu thơ rất hay Đầu súng trăng treo.

Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tiếp theo đoàn dân công là những đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chi bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo hùng mạnh của lực lượng cơ giới quân ta. Hai câu thơ có hai hình ảnh đối lập: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày với Đèn pha bật sáng như ngày mai lên đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những người ra trận. Nếu ở đoạn thơ trước, chúng ta phải mai phục, nương náu nơi rừng sâu, núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ thăm thẳm sương dày để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.

Tuy nhiên, hai đoạn thơ còn thể hiện những nét riêng biệt trong phong cách sáng tác của hai tác giả. Quang Dũng không hề né tránh những hiện thực khó khăn thiếu thốn của người lính phải trải qua. Không chỉ miêu tả vẻ ngoài mang đậm trang trí của người lính thời xưa Quang Dũng còn tập trung khắc họa vẻ đẹp tâm hồn bên trong tiềm ẩn nhiều nét mộng mơ hào hoa rất Tây Tiến.

Người lính hào hoa, phóng khoáng, được tái hiện trong khung cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc, trong đói khổ, thiếu thốn và căn bệnh sốt rét hoành hành mà vẫn hiên ngang, bất khuất. Trong khi đó, Tố Hữu chủ yếu ngợi ca sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, hình ảnh người lính hiện ra giản dị, nhưng dũng cảm, hiện ra trong đoàn quân đông đảo, hào hùng.

Nếu Quang Dũng dùng thể thơ thất ngôn với nhiều từ ngữ Hán – Việt: đoàn binh, biên giới, kiều thơm tạo nên không khí hùng tráng phảng phất không khí thời xưa, giọng thơ cổ điển mà hiện đại. Còn Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống, bằng những từ láy tượng thanh, gợi cảm, ngôn ngữ sử thi hùng tráng, giọng thơ sôi nổi hào hùng, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh tổng kết về không khí sôi động, hào hùng, lớn mạnh của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp.

Có những nét khác biệt ấy là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật khác nhau của hai tác giả. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Hồn thơ ông mang nét phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn. Còn Tố Hữu viết Việt Bắc trong thời kì thắng lợi, giải phóng miền Bắc, lịch sử bước sang trang mới, nên thơ ông có phần lạc quan và có niềm tin hơn. Bên cạnh đó, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị, do đó, ông thiên về ngợi ca lòng tin với cách mạng, với chiến thắng dân tộc.

Cả hai tác giả đều có trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực để khắc họa hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đó là sự bước tiếp nối với hình tượng sĩ phu yêu nước trong quá khứ, và là hình tượng mở đầu cho hình tượng chiến sĩ giải phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là những tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Từ hình tượng người lính có thể khắc họa lên một đất nước với nhiều đau thương mà anh dũng:

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 5

Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nhà thơ Thanh Hải và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp vào kho tàng thơ ca Việt Nam hai bài thơ về thiên nhiên rất hay đó là "Mùa xuân nho nhỏ" và "Sang thu". Hai bài thơ, hai cảm xúc nhưng lại chung nguồn cảm hứng và tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện qua những hình ảnh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ.

Nếu như bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải viết về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước cùng những khát vọng đẹp đẽ của nhà thơ thì thi phẩm "Sang thu" của Hữu Thỉnh lại viết về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Tuy cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng mỗi thi phẩm lại có những nét đặc sắc riêng, độc đáo.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết về mùa xuân tươi đẹp xứ Huế. Ngay trong phần mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh mùa xuân tươi đẹp:

"Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng"

Thanh Hải đã không lựa chọn miêu tả chi tiết mùa xuân xứ Huế, ông chỉ sử dụng vài nét chấm phá để vẽ lên bức tranh mùa xuân của mình. Đó là một bông hoa nhỏ "tím biếc" "mọc " lên giữa "dòng sông xuân", đó là âm thanh chim "chiền chiện" đang ca hót líu lo giữa bầu trời cao rộng. Tất cả đều đang gợi lên hình ảnh về một mùa xuân tươi vui, rộn rã.

Ở ngay dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã cố ý đặt từ "mọc" lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của những dấu hiệu về mùa xuân khi xuất hiện. Đóa hoa "tím biếc" phải chăng là một đóa lục bình đang trôi nhẹ trên sông Hương xanh biếc, một biểu tượng của xứ sở Huế thân yêu? Và những chú chim "chiền chiện" - kẻ báo tin của mùa xuân thì đang cất lên những tiếng hót rộn rã mừng mùa xuân đang về. Từ "ơi" được nhà thơ đặt ngay đầu câu thơ như tiếng gọi tha thiết, thân thương với những chú chim đang ca hót. Tiếng hót ấy khiến cho nhà thơ phải bồi hồi, xúc động mà trách cứ trong niềm thương mền:

"Hót chi mà vang trời"

Lời trách cứ ấy nghe thật đậm phong vị của xứ Huế. Tiếng chim trên cao gọi mùa xuân như đang cô đặc lại, lắng xuống, tạo thành những giọt mật của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời đang rơi xuống đất. Hay phải chăng đó là những giọt mưa xuân đang phấp phới bay trong không gian ngập sắc xuân? Nhưng dù đó là gì thì cũng khiến nhà thơ Thanh Hải vô cùng xúc động, bồi hồi mà đưa bàn tay "hứng" lấy từng "giọt long lanh" đó. Động tác "hứng" của nhà thơ thật nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi nó chứa đựng sự nâng niu, trân trọng mà ông dành cho mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ông đã biến mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình để cầm, nắm, chạm, nếm thử một cách thích thú.

Bức tranh thiên nhiên được nhà thơ dựng lên trong tình yêu tha thiết với thiên nhiên, muốn tận hưởng mùa xuân từ những giây phút đầu tiên. Mùa xuân trên quê hương xứ Huế của ông là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nhất, thân thương nhất, giản dị nhất.

Còn đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông lại chọn viết về mùa thu. Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên với những hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, thân thương:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về"

Mùa thu đối với Hữu Thỉnh được gợi mở bằng những dấu hiệu thật quen thuộc: đó là hương ổi chín đang lan toả trong làn "gió se" lành lạnh, là màn sương mù bao phủ khắp xóm thôn. Ổi vốn là thức quả quen thuộc của người dân Việt Nam, nó xuất hiện để báo hiệu cho mùa thu của thiên nhiên, đất trời. Và "hương ổi" là thứ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ, để ông nhận ra sự xuất hiện đột ngột của mùa thu:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se"

Từ "bỗng" được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ cho thấy cảm giác đột ngột, bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi ông chợt nhận ra mùi thơm của "hương ổi" đang lan tỏa trong không khí. Đó là dấu hiệu của mùa thu, những dấu hiệu sớm nhất, quen thuộc nhất, thêm vào đó là làn gió se lạnh khô đang bao trùm lấy không gian.

Một dấu hiệu khác báo hiệu mùa thu về đó là màn sương mù đang "chùng chình" đi qua ngõ xóm. Động từ "chùng chình" diễn tả sự chậm rãi một cách cố ý. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến nó như có linh hồn. Nó đang chậm chạp đi qua từng ngõ nhỏ, báo hiệu sự chớm thu của đất trời. Và cũng chính lúc này, nhà thơ mới giật mình, thảng thốt mà nhận ra rằng:

"Hình như thu đã về".

Hữu Thỉnh đã tinh tế nắm bắt những tín hiệu chớm thu của đất trời đồng thời ông cũng thấy những chuyển biến của thiên nhiên khi bước vào thu:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu"

Mùa thu, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp thật khác biệt. Nếu như dòng sông mùa hạ cuồn cuộn chảy những nước thì giờ đây nó lại dịu lại, "dềnh dàng", chậm chạp, thong thả chảy trong êm đềm. Những chú chim nhỏ mùa hạ đã ca hót suốt mùa thì nay lại "vội vã" chuẩn bị để đi tránh rét. Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp đối lập cùng hai từ láy tượng hình "dềnh dàng", "vội vã" để diễn tả sự đối lập của vạn vật khi màu thu sang.

Nhưng đặc biệt nhất trong bức tranh thiên nhiên này phải kể tới hình ảnh "đám mây mùa hạ". Đám mây ấy chẳng còn mang hơi nóng của mùa hạ nhưng cũng chưa hoàn toàn có được sự thanh thoát, nhẹ nhàng của mùa thu. Đám mây mùa hạ ấy hình như còn tiếc nuối điều gì với mùa hạ mà mới chỉ "vắt nửa mình sang thu". Đây là hình ảnh miêu tả liên tưởng nhân hoá rất độc đáo trong các tác phẩm thi ca viết về thiên nhiên của Việt Nam!

Mùa thu đã sang thế nhưng đất trời vẫn còn hơi nắng. Những cơn mưa mùa hè bất chợ cũng đã dần vơi đi. Cả những tiếng sấm cũng đã dịu bớt. Tất cả đều báo hiệu một mùa thu đã sang:

"Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi"

Hai bài thơ tuy được viết trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều khắc hoạ hình ảnh của thiên nhiên cùng tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, niềm cảm hứng dạt dào với cảnh sắc quê hương. Nếu như Thanh Hải cho ta cảm nhận một mùa xuân êm đềm, rộn rã của con người trong thời kì xây dựng đất nước thì Hữu Thỉnh lại mang đến cảm nhận về một mùa thu yên bình, dân dã, quen thuộc. Cả hai thi phẩm đều mang đến cho người đọc những cảnh sắc thiên nhiên quê hương đẹp đẽ, khó quên!

Hai bài thơ Sang thu và Mùa xuân nho nhỏ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc của hai nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh và Thanh Hải. Hai bài thơ đã góp phần vào những thi phẩm viết về thiên nhiên đặc sắc nhất trong thi đàn Việt Nam.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu - Mẫu 6

"Tây Tiến” của Quang Dũng  và "Đồng chí” của Chính Hữu là hai bài thơ đã làm nổi bật hình tượng người lính hiên ngang, kiên cường nhưng cũng rất đỗi mơ mộng, lạc quan, yêu đời. 

"Tây Tiến" và "Đồng chí" là hai tác phẩm thơ tiêu biểu cho hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại thể hiện những nét riêng biệt về vẻ đẹp của người lính.

Về đề tài: "Tây Tiến" miêu tả hình ảnh đoàn binh Tây Tiến và con người Tây Bắc trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ tập trung khắc họa vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn và bi tráng của đoàn binh Tây Tiến."Đồng chí" tập trung miêu tả chân dung người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những phẩm chất cao đẹp. Bài thơ thể hiện tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người lính.

Về cảm hứng: "Tây Tiến" thể hiện cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Lãng mạn thể hiện qua vẻ đẹp thiên nhiên, con người Tây Bắc và vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến. Bi tráng thể hiện qua bi kịch hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. "Đồng chí" thể hiện cảm hứng hiện thực kết hợp với lãng mạn. Hiện thực thể hiện qua việc khắc họa chân dung người lính giản dị, mộc mạc. Lãng mạn thể hiện qua tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó.

Bên cạnh đó về giọng điệu: "Tây Tiến" có giọng điệu đa dạng, khi bi tráng, hào hùng, khi trữ tình, bâng khuâng. "Đồng chí" có giọng điệu chủ yếu là bình dị, mộc mạc, gần gũi. Về ngôn ngữ được sử dụng trong thơ: "Tây Tiến" sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, thể hiện cảm xúc mãnh liệt của tác giả."Đồng chí" sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống của người lính. Trong "Tây Tiến" nhà thơ Quang Dũng sử dụng nhiều hình ảnh thơ hùng vĩ, tráng lệ, thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng của đoàn binh Tây Tiến. "Đồng chí" thì sử dụng những hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lính.

Cả hai tác phẩm đều thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng đối với người lính. Cả hai tác phẩm đều sử dụng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, thể hiện cảm xúc mãnh liệt của tác giả. "Tây Tiến" tập trung miêu tả vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn và bi tráng của đoàn binh Tây Tiến. "Đồng chí" tập trung miêu tả chân dung người lính giản dị, mộc mạc với những phẩm chất cao đẹp.

"Tây Tiến" và "Đồng chí" là hai tác phẩm thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng đối với người lính. Mỗi tác phẩm có những nét đặc sắc riêng, góp phần tô điểm thêm cho bức tranh về người lính trong thơ ca Việt Nam.

Đánh giá

0

0 đánh giá