TOP 20 bài Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian

780

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian

Đề bài: Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian (ca dao, thần thoại, truyện thuyết, truyện cổ tích) trong một tác phẩm văn học hiện đại.

Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian - Mẫu 1

Văn học tồn tại như một dòng chảy vô tận, luôn liên tục chuyển động và phát triển. Trong dòng chảy đó, việc các tác giả sử dụng, biến đổi và sáng tạo từ những nguồn tài liệu có sẵn là không thể tránh khỏi. Điều này đóng góp vào sự phong phú và đa dạng của kho tàng văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, là một ví dụ tiêu biểu cho quá trình sáng tạo, biến đổi và sử dụng các nguồn tài liệu có sẵn trong văn học.

Tác phẩm được lấy cảm hứng từ Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã không sao chép một cách đơn thuần mà vay mượn một cách có chọn lọc những chất liệu như: cốt truyện, nhân vật, mô típ,... để tạo nên một tác phẩm mới mẻ, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Nguyễn Du đã không ngừng tiến xa hơn khỏi khung cảnh cơ bản của Truyện Kim Vân Kiều, mà đã táo bạo tạo ra những biến đổi sáng tạo và phong phú. Việc bổ sung nhân vật Thúy Kiều, một nhân vật mới với đời sống tâm lý sâu sắc và đầy đau thương, không chỉ làm phong phú thêm câu chuyện mà còn tạo ra sự đồng cảm và sự chú ý đặc biệt từ độc giả. Sự thay đổi về kết thúc, từ một kết cục truyền thống sang một kết thúc mới, mang lại một thông điệp sâu sắc hơn về cuộc sống và con người. Đặc biệt, trong việc phát triển nhân vật, Nguyễn Du đã làm cho những nhân vật đã có trong Truyện Kim Vân Kiều trở nên sống động hơn bằng cách tạo ra những đặc điểm tâm lý phức tạp và mang tính nhân văn sâu sắc. Thúy Kiều, một biểu tượng của sự đẹp đẽ và tài năng, đồng thời cũng là biểu tượng của sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm trong cuộc đời, đã trở thành một biểu tượng về sự kiên định và sức mạnh trong cuộc sống, đồng thời là sự lên án sâu sắc đối với sự bất công của xã hội phong kiến. Nguyễn Du đã tận dụng những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian, nhưng thay đổi chúng để phản ánh ý tưởng và phong cách sáng tạo của mình. Ví dụ, mô típ "hòn đá thử vàng" không chỉ đơn thuần là một thử thách vật chất, mà còn là một thử thách về lòng kiên nhẫn và sự chống chọi với số phận của Thúy Kiều, từ đó khẳng định giá trị nhân văn của tác phẩm.  Sự sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, giúp Truyện Kiều trở thành một tác phẩm vĩ đại, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội phong phú và đa chiều, thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc và khẳng định tài năng vĩ đại của mình trong lịch sử văn học.

Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.

Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian - Mẫu 2

Tố Hữu được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”. Ông là một trong số ít những nhà thơ sớm được giác ngộ cách mạng và tìm được con đường đúng đắn trong khi những nhà thơ khác còn đang loay hoay thoát lên tiên, hay khép mình trong cái tôi tuyệt đối. Là một người nghệ sĩ, đồng thời là một nhà cách mạng tài năng, ông dùng ngòi bút của mình để chiến đấu và ca ngợi cuộc chiến anh hùng. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm Việt Bắc, một tác phẩm thấm nhuần hơi thở của thời đại, với âm vang của ca dao.

Âm vang của ca dao trong bài Việt Bắc không chỉ thể hiện ở phương diện nội dung mà nó được khắc họa rõ nét hơn ở phương diện nghệ thuật. Trước tiên, nó thể hiện ở cách dùng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát. Thể thơ lục bát, thấm đẫm một tình thần dân tộc từ ngàn đời. Đó là điệu hồn của biết bao câu ca dao, dân ca của người dân lao động

Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

(Ca dao)

Chất giản dị dân dã đó còn được các tác giả trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu,… Tố Hữu đã sử dụng lại thể thơ của dân tộc trong tác phẩm lớn của mình. Thể thơ lục bát đã được vận dụng nhuần nhuyễn, vừa thống nhất trong một bài thơ dài vừa biến hóa đa dạng với những câu thơ dung dị, dân dã gần với ca dao mà vẫn cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị.

Khi phân tích, ta cũng thấy nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc của ca dao, dân ca được Tố Hữu sử dụng rất thích hợp với khung cảnh và tâm trạng trong bài “Việt Bắc”, như Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn, Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu, Nước trôi lòng suối chẳng trôi, Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,…. Chất liệu văn học dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình. Như kết cấu bao nhiêu…bấy nhiêu ta đã từng bắt gặp trong câu ca dao:

Ngó lên nuộc lạt mái nhà,

Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.

Hay điệp khúc nhớ của Tố Hữu cũng gợi cho người đọc đến những câu ca dao về nỗi nhớ trong tình yêu.

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

(ca dao)

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.

(ca dao)

Ngoài ra, việc sử dụng những cách diễn đạt giàu hình ảnh, nghệ thuật hô ứng như Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng – Tiếng ai tha thiết bên cồn hay Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn – Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu, các cách chuyển nghĩa truyền thống – so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ, đã được sử dụng thích hợp, tạo nên phong vị dân gian và chất cổ điển của bài thơ.

Phong vị ấy còn thể hiện ở cách dùng lối kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca:

Bây giờ mận mới hỏi đào,

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.

Hay

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Chàng hỏi thì thiếp xin vâng

Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng.

(ca dao)

Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến đang đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào hạnh phúc về quá khứ đẹp đẽ với nghĩa tình thắm thiết – tình nghĩa nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở – người đi, lời hỏi – lời đáp ở đây có thể xem là một cách phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.

Khi phân tích, ta nhận thấy Tố Hữu đã vận dụng thành công các yếu tố của văn học dân gian từ thể loại đến chất liệu dân gian như hình ảnh, cấu trúc, từ ngữ. Nhưng ông không dùng một cách rập khuôn mà vận dụng một cách sáng tạo, thổi hơi thở mới vào những thi liệu dân gian. Cái chất dân tộc mộc mạc ấy đã góp phần thể hiện thành công nội dung của bài thơ khiến cho lời thơ như tiếng hát cất lên từ sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. Chính vì thế, những vần thơ của Tố Hữu dễ dàng đi vào lòng người đọc. Chất dân tộc ấy len lỏi vào từng câu thơ tạo nên một dấu ấn riêng cho sáng tác của Tố Hữu – vừa bình dị vừa đậm chất suy tư, chiều sâu.

Chất dân gian thấm đẫm tinh thần dân tộc ấy đã phát huy tối ưu vai trò của mình tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng như những câu hát ca dao, như lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân cần lao. Việt Bắc là một bản tổng kết của một giai đoạn lịch sử chống Pháp đầy khó khăn nhưng oai hùng của một dân tộc anh hùng. Nhưng bản tổng kết ấy không liệt kê chiến công, không phải những lời lẽ tổng kết khô khan mà bản tổng kết ấy được viết lên bằng nhạc điệu của tâm hồn. Trang thơ đã khép nhưng vẫn để lại dư âm sâu lắng cho người đọc.

10+ Phân tích, đánh giá việc khái thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian

Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian - Mẫu 3

Văn học dân gian chính là nền tảng, là nguồn cảm hứng dồi dào, tiếp thêm chất liệu sáng tạo cho văn học viết. Trong văn học dân gian, cổ tích là một trong những thể loại đặc trưng. Sang thời kì hiện đại, truyện cổ tích không mất đi hoàn toàn, nó vẫn tồn tại và phát triển ở nhiều dạng khác nhau và dấu vết của truyện cổ tích đã được tìm thấy trong sáng tác của rất nhiều nhà văn hiện đại Việt Nam, trong đó có Tô Hoài với các truyện Đảo hoang, Truyện nỏ thần, Nhà Chử, 101 truyện ngày xưa, Dế mèn phiêu lưu ký có tương quan, đối sánh với các truyện cổ tích của Nguyễn Đổng Chi.

Con người trong truyện cổ tích thường sống hồn nhiên, tự nhiên cảm tính đến thụ động, không có tác động vào hoàn cảnh, không đấu tranh vươn lên. Con người được miêu tả với tâm tính hồn nhiên, đơn giản, ít thấy ở họ sự đấu tranh nội tâm hay ý thức đổi thay. Mặc dù có phương thức sáng tác khác nhau nhưng giữa truyện cổ tích và sáng tác của Tô Hoài vẫn có những điểm tương đồng về quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là, các tác giả dân gian và Tô Hoài đều muốn khẳng định đề cao con người, đó là những con người có đạo đức, có nhân nghĩa. Nhưng cái mới của Tô Hoài ở đây đó là con người không chỉ được nhìn nhận trên bình diện đạo đức hay bình diện giai cấp – xã hội với hai tuyến đối lập: thiện – ác, giàu – nghèo, mà là con người bình thường đa chiều như trong đời sống thực tại. Những con người đó không hề được lí tưởng hóa, họ có đấu tranh tư tưởng, có đời sống nội tâm.

Nếu Truyện cổ tích  cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Tác giả dân gian , trong cổ tích , đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng. Thì Tô Hoài  lại đặc biệt quan tâm và có niềm say mê khám phá cuộc sống đời thường, chú ý nhiều tới phong tục tập quán, cảm quan hiện thực đời sống thường biểu hiện qua việc ông đã “đời thường hóa” những sự kiện lịch sử.

Điểm chung giữa truyện loài vật của Tô Hoài và truyện cổ tích loài vật là nội dung giải thích đặc điểm tự nhiên của các vật. Về dung lượng: Truyện cổ tích loài vật thường  ngắn ngọn, súc tích của ngôn ngữ và chi tiết. Truyện cổ tích nhà văn thường có dung lượng lớn hơn. Về phương pháp truyền đạt, cả truyện cổ tích và truyện loài vật của Tô Hoài đều lấy loài vật và đều nhân cách hóa chúng. Tuy nhiên, ở truyện của Tô Hoài , nhân vật tồn tại trên hai tư cách: vừa là đối tượng nhận thức phản ánh, vừa là phương tiện chuyển tải bài học giáo dục. Còn nhân vật của truyện cổ tích thì ngược lại, chỉ là phương tiện truyền tải nội dung giáo dục.Là phương tiện nên nhân vật truyện cổ tích được thay thế một cách dễ dàng.Truyện cổ tích không đặt mục tiêu miêu tả nhân vật. Ngược lại, khi xây dựng nhân vật, Tô Hoài thường chú ý khắc họa về ngoại hình, hành động, đời sống nội tâm , nhân vật hiện ra trọn vẹn hơn, có hình, có tâm trạng hơn. Biện pháp nghệ thuật của truyện cổ tích và đồng thoại có sự giống nhau là cùng lấy loài vật làm nhân vật.Điểm khác là, truyện cổ tích dùng lối ẩn dụ, kín đáo, còn truyện của Tô Hoài lại là sự cách điệu. Truyện cổ tích chủ trương nêu ra các bài học kinh nghiệm, còn truyện loài vật của Tô Hoài cung cấp kiến thức từ đơn giản đến phức tạp để chúng ta học tập, trưởng thành.

Những sáng tác của Văn học dân gian và sáng tác của Tô Hoài đều có ý thức sử dụng thiên nhiên để phản ánh những thăng trầm trong cuộc đời số phận của nhân vật. Tuy nhiên, điểm khác biệt so với những sáng tác dân gian đó là trong những sáng tác của nhà văn Tô Hoài, thiên nhiên hóa thân thành một nhân vật, đồng hành soi chiếu từng chặng đường đời của con người. Ông đã sử dụng thiên nhiên như một phương tiện đắc lực để đi vào khám phá, phản ánh thế giới nội tâm .Tô Hoài đã chuyển dịch điểm nhìn, tức miêu tả thiên nhiên không phải dưới góc độ người trần thuật mà dưới góc độ của nhân vật. Kế thừa truyền thống với phương thức mượn cảnh ngụ tình, lấy thiên nhiên làm giá đỡ tâm trạng, làm phiên bản của tâm trạng trở thành mô típ nghệ thuật của nhiều sáng tác của Tô Hoài. 

Nhân vật trong truyện cổ tích thường có tính cách bất biến.Còn ở Tô Hoài, chúng tôi cho rằng nhân vật có dấu hiệu của sự vận động và phát triển tính cách. Nhân vật được Tô Hoài miêu tả theo quá trình vận động phát triển rõ ràng, những mâu thuẫn, những đấu tranh nội tại. Thường những câu chuyện cổ tích  kết thúc có hậu nhằm giải quyết yếu tố tâm lý và giá trị giáo dục. Trong trường hợp này, có thể xem Tô Hoài đã sáng tác một kiểu “Cổ tích hiện đại” ở phần kết không có hậu. So với truyền thuyết An Dương Vương, kết thúc của Chuyện nỏ thần có phần bi thảm hơn, nhưng lại gần gũi với sự thực cay nghiệt của lịch sử. Trong truyền thuyết, người anh hùng không bao giờ chết.

Nhà văn Tô Hoài, khi sử dụng các nguồn chất liệu truyện cổ dân gian để phát triển thành những tiểu thuyết, ông cũng lưu ý loại bỏ bớt các yếu tố thần linh, ma thuật, phù phép (loại bỏ bớt chứ không phải là vứt bỏ hoàn toàn). Mục đích của nhà văn là muốn cho câu chuyện thật hơn, gần gũi hơn, giảm bớt sức mạnh của thần linh, ma thuật tức là nâng cao tầm vóc, sức mạnh của con người. Tô Hoài đã cố gắng không thần thánh hoá nhân vật. Nhân vật của ông gần gũi đời thường hơn, suy nghĩ và hành động chẳng khác gì đời thường.

Dựa trên cốt truyện cổ tích dân gian, Tô Hoài đã “mượn” một số chi tiết hoặc chỉ lấy tên nhân vật, từ đó xây dựng câu chuyện của riêng mình thông qua các thể loại như: giả cổ tích, truyện cổ viết lại hoặc truyện lồng truyện.

Điểm khác biệt lớn nhất là truyện dân gian không cần quan tâm đến lô gíc hoặc tính xác thực của câu chuyện.Ý nghĩa của truyện đã được định hướng sẵn và sẽ đạt tới mục đích như ý muốn. Đặc biệt, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố chính, nếu không nói là bắt buộc của quá trình sáng tạo truyện. Khảo sát tiểu thuyết của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy tác giả thiên về việc sử dụng kiểu cốt truyện truyền thống là cốt truyện sự kiện và tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt loại hình cốt truyện này để tạo nên sự hấp dẫn riêng cho mỗi tác phẩm.

Tô Hoài có sự chú ý đặc biệt đến việc khắc họa hình tượng nhân vật qua ngôn ngữ. Các nhân vật đều có ngôn ngữ riêng, thể hiện được dấu ấn cá nhân qua từng lời ăn tiếng nói. Về mặt từ ngữ, khi xây dựng nhân vật huyền thoại, tác giả dân gian có hệ từ riêng thể hiện sự phi thường, kỳ ảo như lớp từ giàu ý nghĩa biểu tượng, phóng đại. Kể lại truyền thuyết, Tô Hoài không sử dụng lớp từ giàu tính chất sử thi bay bổng, tráng lệ mà vẫn sử dụng vốn từ của đời sống hàng ngày giản dị, gần gũi. Ngôn từ cổ xưa tạo giọng hoài niệm đậm nét trong sáng tác của Tô Hoài. Ông nhớ và kể chuyện của đời mình, đời người bằng giọng xưa mà không cũ bởi trong “tự truyện” đã khái quát bao chuyện đời, chuyện của đất nước, dân tộc.

Qua đó, thông qua các tác phẩm của Tô Hoài, ta có thể thấy lịch sử phát triển của văn hóa, văn học một dân tộc không chỉ đơn thuần có nghĩa là quá trình sáng tạo ra những cái hoàn toàn mới, mà còn là quá trình phát hiện ra những giá trị mới trong cái cũ, là sự chuyển hóa những giá trị của quá khứ trong những điều kiện, hoàn cảnh mới vì mục tiêu thực tế của con người. Sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong sự thống nhất giữa phong cách chung của thời đại với cá tính sáng tạo ở mỗi nhà văn đã tạo ra những tiếng nói vừa mới mẻ vừa đậm đà màu sắc truyền thống.

Phân tích, đánh giá việc khai thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian - Mẫu 4

Đang cập nhật ...

Đánh giá

0

0 đánh giá