Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài
Đề bài: Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài hoặc cùng nói về một loại nhân vật.
Dàn ý Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài
a. Mở bài
Nêu vấn đề cần nghị luận: so sánh yếu tố kì ảo trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên và yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích Thạch Sanh.
b. Thân bài
+ Điểm tương đồng, ví dụ: cùng xuất hiện những mô típ như: vong hồn vẫn tồn tại sau khi chết hoặc trong thế giới thần linh cũng có sự phân chia Thiện – Ác.
+ Điểm khác biệt, ví dụ: Truyện Thạch Sanh đề cao triết lí sống “ở hiền gặp lành”, kẻ ác phải chịu báo ứng còn tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đề cao sự cứng cỏi, can đảm của kẻ sĩ, đấu tranh tìm sự công bằng không phải cho mình mà cho người yếu thế.
c. Kết bài
Khái quát ý nghĩa của vấn đề, ví dụ: Văn học dân gian có vai trò như thế nào với văn học viết? Nhà văn cần tiếp nhận văn học dân gian một cách sáng tạo ra sao?,...
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 1
Việc sử dụng yếu tố kì ảo của hai tác phẩm có nhiều điểm tương đồng. Trước hết, trong cả hai tác phẩm Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên và truyện cổ tích Thạch Sanh đều xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thật. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, hình ảnh các nhân vật kì ảo được miêu tả vô cùng chi tiết, ẩn giấu những ý nghĩa như hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi là tên tướng bại trận của Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, tranh miếu chiếm đền Thổ Công. Đây là hiện thân của cái ác, lừa lọc, giả dối. Hay hình ảnh nhân vật Thổ Công giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, chết vì cần vương.. Diêm Vương là người đứng đầu Minh ti, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Đây đều là những nhân vật kì ảo, không có thực, góp phần thể hiện cốt truyện. Còn trong truyện cổ tích Thạch Sanh, cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như: Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh.. , đồ vật thần kì như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Tiếp đó, sự tương đồng còn được thể hiện trong mô típ của cả hai tác phẩm: vong hồn vẫn còn tồn tại sau khi chết, trong thế giới thần linh có sự phân chia Thiện- Ác… Đây là mô típ với những tình tiết khá quen thuộc xuất hiện trong nền văn học Việt Nam từ thể loại truyện cổ tích thần kì tới truyện truyền kì.
Mặc dù vậy, yếu tố kì ảo được sử dụng có những điểm khác biệt nhất định. Đầu tiên, sự xuất hiện của nhân vật chính trong cả hai tác phẩm: Truyện Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên với nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu vô cùng cụ thể: tên, nơi sinh gắn với những địa điểm có thật “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Truyện cổ tích Thạch Sanh, nhân vật chính Thạch Sanh có nguồn gốc xuất thân kì ảo: Là thái tử do Ngọc hoàng cử xuống đầu thai làm con của hai vợ chồng già nghèo khó nhưng tốt bụng luôn giúp đỡ mọi người…Tiếp đó, sự khác nhau được thể hiện trong kết thúc truyện: Nếu như trong Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên, Tử Văn trở về, nhận chức phán sự đền Tản Viên thì ở truyện cổ tích Thạch Sanh, Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại ngôn vua. Hơn thế nữa, về giá trị của tác phẩm được thể hiện qua mô típ chuyện cũng có nhiều điểm riêng biệt: Truyện cổ tích Thạch Sanh đã đề cao triết lý sống: “ ở hiền gặp lành”, kẻ ác phải chịu báo ứng còn trong Chức phán sự đền Tản Viên đề cao sự cứng cỏi, can đảm của kẻ sĩ, đấu tranh tìm sự công bằng không phải cho mình mà cho người yếu thế.
Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 2
Tô Hoài và Kim Lân là hai trong những tác giả xuất sắc của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều được truyền cảm hứng từ cuộc sống thực tế của người nông dân Việt Nam vào thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám. Hai tác phẩm đáng chú ý của họ là “Vợ nhặt” và “Vợ Chồng A Phủ”. Dù tác phẩm này phản ánh cuộc sống của hai nhân vật khác nhau, nhưng cả hai đều có một kết thúc mở. Đó là nơi niềm hy sinh của họ được chuyển hóa thành hy vọng vào một cuộc sống mới, tự do và hạnh phúc.
Tổng quan về hai tác phẩm này, cả hai đều có nhân vật chính là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuộc sống của họ đều khó khăn và bất hạnh, nhưng vẫn giữ được những phẩm chất đẹp và quan trọng hơn cả là họ đang trải qua quá trình giác ngộ cách mạng.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” kể về Mị - một cô gái nghèo khó sống tại vùng cao. Dù cuộc sống vất vả, Mị vẫn yêu đời và tin vào lao động. Cô bị bán cho gia đình Thống Lí Pá Tra để trả nợ và phải sống trong thân phận nô lệ, bị đau đớn và làm việc vất vả, nhưng vẫn luôn mong muốn sống. A Phủ cũng bị bắt về nhà Thống Lí Pá Tra sau khi đánh con quan, trở thành người đi ở đợ cho nhà Thống Lí. Hai người nô lệ gặp nhau, cảm thông và giúp đỡ nhau. Một đêm, khi Mị đang ngồi sưởi lửa, cô thấy giọt nước mắt của A Phủ, khiến cô bất ngờ và quyết tâm giải thoát cho anh ta. Mị lấy con dao nhỏ để cắt dây trói và giải thoát cho A Phủ. Sau đó, hai người lẳng lặng chạy xuống dốc núi để trốn thoát khỏi bọn phong kiến. Câu chuyện này thể hiện sức sống và lòng đấu tranh của con người dưới áp lực của bọn phong kiến. Mị đã biết cách vùng lên để giành quyền sống, hành động giải thoát cho A Phủ cho thấy ý chí mạnh mẽ của cô. Kết thúc của câu chuyện nhấn mạnh tinh thần đấu tranh của người dân chống lại bọn địa chủ phong kiến, theo quy luật tất yếu là có áp bức là có đấu tranh.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được trích từ bộ tiểu thuyết “Xóm ngự cư” được viết ngay sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành công. Nội dung chính của tác phẩm là phản ánh cuộc sống của những người dân nông thôn sống trong xóm ngụ cư. Nhân vật chính là anh chàng Tràng, một người lái xe bò cho thuê. Vì khó khăn trong cuộc sống, Tràng không thể tổ chức một đám cưới đúng nghĩa. Anh tình cờ gặp được vợ trên đường trở về và họ chỉ tổ chức một bữa cơm đơn giản, trên cái dĩa xỉn xò có một ít rau chuối thái lát và một đĩa muối kèm cháo nồi. Trong ngày cưới của họ, khi họ đang hạnh phúc, tiếng trống thuế và tiếng khóc đau buồn của hàng xóm vang lên vì có người vừa qua đời xa nhà. Cuộc sống thực tế được tái hiện qua tác phẩm này. Truyện xảy ra trong bối cảnh nạn đói năm 1945, thời điểm lịch sử đầy thách thức, khi người dân phải chịu đựng sự áp bức, bóc lột và cảnh đói khốn. Dưới hoàn cảnh đó, người nông dân đã khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật và chia cho những người nghèo. Sau nhiều năm vất vả, những người dân nông thôn đó đã đứng lên, đấu tranh và tìm kiếm con đường của họ bằng cách tham gia vào cách mạng. Kết thúc truyện được mô tả bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay trong gió, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Hai truyện kể về hai số phận khác nhau của người nông dân, nhưng kết thúc của chúng đều là kết thúc mở. Điều này cũng nhấn mạnh sự thay đổi tư tưởng của các nhà văn. Trong quá khứ, Nam Cao đã viết về đề tài nông dân với tác phẩm Chí Phèo, nhưng kết thúc của nó lại đi vào ngõ cụt. Nhưng trong các tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ Chồng A Phủ”, chúng ta đã thấy được một tương lai tươi sáng cho người nông dân, nhờ vào sự thành công của Cách mạng Tháng Tám lật đổ chế độ phong kiến cổ hủ, lạc lậu.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 3
Cả hai tác phẩm "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên" và truyện cổ tích "Thạch Sanh" đều sử dụng yếu tố kì ảo, và điều này tạo ra nhiều điểm tương đồng giữa chúng. Trước hết, trong cả hai tác phẩm, chúng ta thấy xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thực. Trong "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên", các nhân vật kì ảo được mô tả rất chi tiết, mang đầy ý nghĩa sâu xa. Hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, hay nhân vật Thổ Công - người giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, tất cả đều là hiện thân của cái ác và giả dối. Trong khi đó, Diêm Vương, người đứng đầu Minh ti, cũng là một nhân vật kì ảo, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Tương tự, trong truyện "Thạch Sanh", cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh và các đồ vật thần kỳ như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Ngoài ra, cả hai tác phẩm đều có mô típ về vong hồn tồn tại sau khi chết và sự phân chia Thiện - Ác trong thế giới thần linh, những yếu tố này là những điểm quen thuộc Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế.
Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế. Sự khác biệt tiếp theo nằm ở kết thúc của hai tác phẩm. Trong "Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên", Ngô Tử Văn trở về và nhận chức phán sự đền Tản Viên, thể hiện sự công bằng và can đảm của một kẻ sĩ trong việc đấu tranh cho sự công lý, không chỉ cho bản thân mà còn cho những người yếu thế. Trong khi đó, ở truyện cổ tích "Thạch Sanh", Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại ngôi vua, thể hiện triết lý sống "ở hiền gặp lành" và nguyên tắc báo ứng của kẻ ác. Về giá trị của tác phẩm, mỗi tác phẩm đều đặt nặng vào một mô típ chuyện riêng biệt. "Thạch Sanh" nhấn mạnh vào triết lý sống và nguyên tắc báo ứng, trong khi "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên" đề cao sự cứng cỏi và can đảm trong việc tìm kiếm công bằng và sự công lý. Điều này thể hiện sự đa dạng và sâu sắc của văn học dân gian, mỗi tác phẩm mang một thông điệp riêng biệt và giá trị độc đáo của mình.
Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 4
Để thu hút được người đọc mỗi tác phẩm sẽ có những yếu tố riêng. Một trong số những yếu tố làm nên sự thành công đó là yếu tố kì ảo. Đặc biệt là yếu tố kì ảo trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” và trong truyện cổ tích “Thạch Sanh”. Thông qua việc so sánh về yếu tố kì ảo sẽ giúp chúng ta thấy rõ dấu ấn sáng tạo của Nguyễn Dữ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn học dân gian.
Trong câu chuyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” yếu tố kỳ ảo đầu tiên phải kể đến đó là sự xuất hiện của các nhân vật từ cõi âm ti, khác hẳn với các thể loại truyện thông thường mà nhân vật là thần thánh, thanh cao không nhiễm bụi trần, điều đó đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm mới, kích thích trí tò mò cũng như gây ấn tượng sâu sắc với độc giả về cốt truyện. Nhân vật ở cõi âm đầu tiên, là khởi nguồn nên mọi diễn biến sau đó chính là tên tướng giặc họ Thôi bại trận, chết trên đất Việt, sau đó trở thành yêu quái chiếm miếu của Thổ công, quấy nhiễu dân chúng. Có thể thấy rằng đây là nhân vật phản diện điển hình nhất của truyện, lúc còn sống thì tên này làm giặc, chính vì thế khi chết đi cũng chỉ có thể làm yêu quái nhiễu loạn nhân gian, đời đời bị người ta khinh ghét sợ hãi. Không chỉ vậy tên giặc này còn phản ánh một hiện thực của đời sống ấy là nạn tham quan hoành hành, làm cho nhân dân lầm than, điều đó thể hiện qua việc hắn đút lót tham quan, bưng bít cả thượng đế để làm trò bạo ngược. Đến khi nhân vật Ngô Tử Văn đại diện cho chính nghĩa, thay trời hành đạo tự tay đốt đi ngôi đền, khiến hắn không còn chỗ trú, thì tên này lại ngang nhiên giả dạng tiến vào giấc mộng của Tử Văn, cảnh cáo bắt chàng dựng lại đền bằng những lời lẽ rất mực oai nghiêm, văn vở. Nhưng thấy Tử Văn vẫn điềm nhiên thấy chết không sờn thì quay ra tức giận, trở mặt làm trò dọa dẫm "Phong đô không xa xôi gì, tuy ta hèn nhưng há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta rồi sẽ biết". Và y như rằng ngay tối ấy tên giặc này đã không tha cho Tử Văn mà khiến chàng phải xuống hầu cõi âm ti. Trước điện Diêm Vương, tên này lại lần nữa đóng vai Thổ công bị đốt đền, lời lẽ điêu ngoa, lươn lẹo, nhằm buộc tội khiến Tử Văn phải bị trừng phạt. Tuy nhiên đến lúc thấy Tử Văn có bằng cớ chứng minh tội trạng của hắn, thì tên này lập tức lật mặt giở giọng nhân từ, cầu xin Diêm Vương tha cho Tử Văn nhằm thoát tội, với lời lẽ thể hiện sử giả nhân giả nghĩa vô cùng: "...xin đại vương tha cho hắn để có cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa, nếu chẳng may trị tội nó sợ sẽ làm hại đến đức hiếu sinh", câu nào câu ấy cũng lấy nhân đức đặt lên trên đầu lưỡi, nhưng thực tế rằng tên này đang sợ chuyện của mình bại lộ, nên mới vội bưng bít như thế. Quả là giang sơn dễ đổi bản tính khó dời, chết đến nơi vẫn không quên lươn lẹo, và kết cục của tên này cũng chẳng thể nào tốt đẹp bằng việc bị nhét gỗ vào miệng rồi đày xuống ngục Cửu U.
Nhân vật thứ hai chính là Thổ công, trong truyện miêu tả đây là một vị quan dưới thời Lý Nam Đế, vì có công giúp vua giữ nước mà chết thế nên được ban cho chức Thổ công và một ngôi đền, hưởng hương khói của nhân dân. Khi đến gặp Tử Văn thì hiện lên với phong thái nhàn nhã, khoan thai, áo vải mũ đen, là người hiền lành, trung thực, nên phải chịu nhún nhường cho tên giặc họ Thôi làm loạn. Có thể thấy rằng thổ công là nhân vật đại diện cho phe chính nghĩa, là người bị hại, phải chịu khốn đốn trước vấn nạn tham quan và gian thần nịnh nọt. Trong truyện nhân vật này chính là người đã chỉ điểm cho Ngô Tử Văn khi phải hầu Diêm Vương dưới âm ti, và giúp chàng thắng kiện còn tên giặc họ Thôi kia phải chịu trừng phạt. Sự kết hợp của Thổ công và Ngô Tử Văn trong truyện nhiều lần khiến ta liên tưởng đến sự giúp đỡ của thần, phật với nhân vật chính trong các câu chuyện dân gian, cổ tích. Chỉ khác một chút rằng, ở đây Ngô Tử Văn không hoàn toàn dựa vào những lời dạy của Thổ công mà quan trọng nhất vẫn là dựa vào khí khái, tinh thần dũng cảm của bản thân và tấm lòng trung thực, không sợ kẻ ác của nhân vật này. Sự kết hợp của Thổ công và Ngô Tử Văn có thể liên tưởng đến sự đoàn kết của nhân dân ta trong quá trình chống giặc ngoại xâm, thì ở đây là sự đoàn kết của phe chính nghĩa khi đối diện với cái ác, cái xấu hoành hành.
Nhân vật Diêm Vương là người đứng đầu cõi minh ti, trong truyện đóng vai trò là người phán xử. Lúc đầu khi đứng trước lời tố cáo đầy gian dối và lươn lẹo của tên tướng giặc họ Thôi, thì Diêm Vương đã bị lừa gạt và đâm ra trách phạt Tử Văn vì cớ sao lại phá đền, chốn thần phật nương náu. Tuy nhiên sao một hồi tranh cãi phân xử, lại thấy Ngô Tử Văn đưa ra được chứng cứ xác thực thì Diêm Vương đã lập tức nhận ra sự thật, trả lại công bằng cho Tử Văn đồng thời xử phạt tên giặc họ Thôi kia để trừng trị cái tính gian tà, chuyên làm điều ác quấy nhiễu nhân dân, lại còn thích mồm loa mép dải. Những nhân vật khác như quỷ Dạ xoa, quỷ sứ góp phần làm cho chốn âm ti thêm sinh động, nhiều màu sắc, thể hiện được sự uy nghiêm, cẩn trọng nơi địa phủ từ đó khơi gợi cảm giác hứng thú cho người đọc.
Cuối cùng là nhân vật Ngô Tử Văn, nhân vật chính của câu chuyện, ngoài việc nằm mộng thấy tên tướng giặc họ Thôi, rồi bị đưa xuống âm phủ chịu tội, thì yếu tố kỳ ảo và gây ấn tượng nhất của nhân vật này đó là việc chết đi rồi sống lại sau khi diện kiến Diêm Vương. Điều đó bộc lộ một chân lý đúng đắn, ở hiền gặp lành, người tốt sẽ được đền đáp xứng đáng, chứ không phải chịu chết một cách oan khuất, chứng minh sự hiện diện của lẽ phải không chỉ ở chốn trần gian mà ở bát cứ nơi đâu, kể cả ở chốn âm ti, người vốn đang ở đâu sẽ được trả về chỗ ấy để hưởng cho hết cái phúc phần dương gian của mình. Rồi sau đó nhận lời của Thổ công không bệnh mà mất, để đến ở cõi tiên hưởng cái phúc phần của tiên gia, âu cũng xem là một cái kết hậu trong hậu.
Còn với truyện cổ tích “Thạch Sanh”, Thạch Sanh là thái tử do Ngọc Hoàng phái xuống đầu thai làm con vợ chồng nhà nọ. Bà mẹ mang thai mấy năm mà không sinh. Khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Sau đó, được thiên thần dạy đủ các môn võ nghệ, mọi phép thần thông. Khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Tiếp theo là cậu giết chằn tinh và đại bàng nhằm khẳng định nguồn gốc cao quý, tài năng phi thường của Thạch Sanh. Cứu con trai vua Thủy Tề và được mời xuống chơi Thủy Cung, khẳng định chân lí người hiền sẽ gặp lành. Hồn chằn tinh và đại bàng tìm cách vu oan cho Thạch Sanh. Thể hiện sức sống dai dẳng của cái ác. Niêu cơm thần ăn mãi không hết, thể hiện ước mơ về cuộc ống no đủ của nhân dân lao động. Còn cây đàn thần làm cho Thạch Sanh giải oan nó còn làm cho đất nước hòa bình. Điều này tượng trưng cho công lí, cho sức mạnh của chính nghĩa. Những chi tiết này nhằm tăng sức hấp dẫn cho truyện thể hiện quan niệm của người dân lao động về công lí và mơ ước ở đời.
Như vậy có thể thấy rằng, các yếu tố kì ảo, hoang đường trong tác phẩm không chỉ góp phần làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, kịch tính, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Mà quan trọng hơn nó còn góp phần làm nổi bật chủ đề, nội dung và tính cách của từng nhân vật theo tuyến thiện - ác, từ đó phản ánh mơ ước của nhân dân ta về một thế giới công bằng bình đẳng, chân lý "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" được thực thi ở muôn nơi không kể chốn nhân gian hay cõi âm ti địa ngục.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 4
Trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam và Kim Lân là hai tác giả văn học tiêu biểu. Cả hai đều sử dụng chủ nghĩa hiện thực để phản ánh chính xác về đời sống khó khăn của người nông dân trong hoàn cảnh của một cổ hai tròng bị thực dân và phong kiến áp bức. Hình ảnh phố huyện nghèo xơ xác được phản ánh rõ nhất trong hai tác phẩm của họ, đó là "Vợ Nhặt" của Kim Lân và "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam. Trong tác phẩm, tình yêu thương giữa con người với con người thể hiện một cách chi tiết và đầy xúc động, nó không chỉ thể hiện sự rung động sâu sắc giữa con người với con người mà còn thể hiện sự yêu thương, tình cảm, sự đùm bọc với những cảm xúc trong những cung bậc của con người.
Trong tác phẩm Hai đứa trẻ khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên "Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều...". Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày "thắp đèn" rồi "đóng quan" và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng. Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu". Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.
Cả Thạch Lam và Kim Lân đều sử dụng chủ nghĩa hiện thực để vẽ nên bức tranh phố huyện. Trong đó, bức tranh của Kim Lân được vẽ bằng những màu sắc và đường nét đậm hơn, dữ dội hơn, do cảm hứng từ nạn đói năm 1945 của dân tộc ta. Trong bức tranh đó, Kim Lân đã mô tả hình ảnh người chết như ngả rạ, nằm ngổn ngang khắp chợ, những cái xác nằm còng queo chất đầy đường. Tuy nhiên, trong cái khung cảnh chết chóc đó, nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và Thị lại tỏa sáng với phẩm chất đẹp và tình yêu thương con người, trách nhiệm với gia đình. Trong bài Vợ Nhặt tình yêu thương giữa con người với con người thể hiện ngay trong chi tiết Tràng nhặt được vợ, trong cảnh nghèo đói đó đáng lẽ Tràng phải tự lo cho mình và gia đình, và không có khả năng đùm bọc thêm ai nữa, nhưng Trang vẫn quyết định lấy và dành tình yêu thương của mình đối với người con gái này, Tràng không nghĩ rằng mình có thể lấy được vợ. Bức tranh của Kim Lân cũng thể hiện sự giác ngộ lý tưởng và quyết tâm vùng lên đấu tranh của người dân lao động để thoát khỏi cảnh nghèo đói, áp bức và bóc lột. Cuối tác phẩm, phố huyện được vẽ hiện lên với hình ảnh của cờ Việt Minh, là báo hiệu cho sự giải phóng và hy vọng của người dân. Như vậy, trong bức tranh phố huyện của Kim Lân, bên cạnh những cảnh nghèo khó, vẫn tồn tại những giá trị đạo đức và tình yêu thương con người.
Hai bức tranh phố huyện nhưng một cuộc đời người dân. Điểm nhìn chung của hai bức tranh ấy chính là đứng trên góc độ hiện thực của cuộc sống, số phận của người dân lao động bần cùng khổ hạnh của xã hội Việt nam xưa. Bức tranh ấy điều được vẽ nên qua lắng kính giàu tình yêu thương con người của từng tác giả. Tuy nhiên, mỗi bức tranh đều có những nét vẽ đặc sắc khác biệt riêng. Nếu Thạch Lam khắc họa bức tranh bằng khung cảnh ngày tàn, cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ bằng những màu sắc đường nét nhẹ nhàng nhưng thấy rõ sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nhằm cho người đọc nhìn nhận rõ nhất về cuộc đời số phận của những người dân lao động nghèo khổ đang phải sống một cuộc đời đơn điệu, nhàm chán, bế tắc thì bức tranh phố huyện của Kim Lân lại miêu tả về khung cảnh nạn đói năm 1945, về cuộc đời số phận nghèo khổ của người dân lao động đan xen cùng những diễn biến kịch tính về câu chuyện tình của Tràng và thị trong cảnh đói ấy.
Bức tranh phố huyện trong tác phẩm Vợ nhặt, ta có thể cảm nhận được toàn bộ sự khổ cực của phố huyện nghèo khổ thông qua cảnh quan rộng và sâu sắc chân thực hơn. Khung cảnh xóm ngụ cư chúng ta có thể nhìn thấy đám đông vật vờ, lay lắt và héo mòn vì đói. Nạn đói năm 1945 đã bao trùm lên không gian phố huyện và các cuộc đời số phận của những con người trong đó. Người chết chất thành đống, người sống vật vờ như thây ma. Hình ảnh phố huyện nghèo trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam được khắc họa nhẹ nhàng hơn so với Vợ nhặt. Bức tranh phố huyện đó có mùi ẩm mốc khơi lên từ bãi rác. Âm thanh của phố huyện được vang lên qua tiếng trống thu không báo hiệu buổi chiều về. Con người trong phố huyện của Thạch Lam thưa thớt ít ỏi. Hai chị em Liên, gia đình nhà bác hát xẩm, bà cụ Thi điên, bác Siêu bán phở, hai mẹ con nhà chị Tý, vài anh lính canh đi tuần đêm. Tuy nhiên, không gian ấy vẫn tĩnh lặng đến đáng sợ bởi lẽ sự xuất hiện của con người chẳng hề náo nhiệt mà tẻ nhạt bởi chính bản thân họ đang phải sống một cuộc đời nhàm chán, tăm tối.
Từ những chi tiết miêu tả trên, ta có thể thấy sự tương đồng giữa khung cảnh phố huyện của xóm ngụ cư và phố huyện của hai chị em Liên. Cả hai đều thể hiện được nghèo đói xác xơ của những người dân sinh sống tại đây. Tuy nhiên, trong văn của Thạch Lam, đó là những cuộc đời tàn tạ, quanh quẩn trong sự đơn điệu tẻ nhạt. Trái lại, ước mơ của hai chị em Liên là có một cuộc sống tinh thần phong phú hơn. Cách khắc họa nhân vật hai nhà văn tuy gần gũi, thân thuộc người dân lao động nhưng có điểm khác biệt riêng. Thạch Lam sử dụng những hình ảnh, màu sắc và từ ngữ nhẹ nhàng, giàu chất thơ, chất chữ tình để miêu tả cuộc đời và số phận của người dân lao động. Tác phẩm của ông không có cao trào nhưng đầy tình cảm và sự nhẹ nhàng. Trong khi đó, Kim Lân lại khắc họa bức tranh phố huyện một cách mạnh mẽ, sắc nét hơn.
Trong hai truyện ngắn này, các nhân vật được Kim Lân và Thạch Lam tập trung miêu tả khung cảnh phố huyện nghèo và đời sống sinh hoạt người nông dân nghèo khổ. Thông qua tình huống, các nhân vật được hai nhà văn thành công xây dựng đều khắc họa nên phẩm chất cao quý, tình yêu thương giữa con người với con người. Tình yêu thương con người đã được Kim Lân và Thạch Lam thể hiện một cách sâu sắc, đó là tình cảm chân thành và tình cảm da diết mà con người dành cho con người. Tính nhân đạo được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm qua đó ta thấy được và trân trọng hơn tình yêu thương của tác giả đối với những người dân nghèo khổ trong xã hội xưa.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài - Mẫu 5
Mô típ là cách lặp lại một đề tài hoặc cốt truyện, đem lại sự đặc trưng cho tác phẩm. Để tạo ấn tượng với người đọc, mỗi tác giả cần tạo ra một mô típ cho câu chuyện của mình. Vì lẽ đó, thông qua việc so sánh mô típ cốt truyện giữa Câu chuyện tình ở Thanh Trì và truyện cổ tích Trương Chi, ta có thấy rõ dấu ấn sáng tạo của mỗi tác giả.
Việc sử dụng mô típ của hai tác phẩm trên có khá nhiều điểm tương đồng. Trước hết, cả hai câu truyện đều xây dựng nhân vật nam là chàng trai chèo thuyền, nhà nghèo nhưng có giọng hát quyến rũ còn nhân vật nữ xuất thân là “ lá ngọc cành vàng”. Cụ thể, trong truyện cố tích Trương Chi, nữ chính là Mỵ Nương, con gái của thừa tướng còn nam chính chỉ là chàng trai con nhà thuyền chài. Ở Câu chuyện tình ở Thanh Trì cũng lựa chọn hình tượng nhân vật nam nữ chính như vậy. Đó còn là sự tương đồng trong tình cảm giữa hai nhân vật chính khi mối tình đều xuất phát từ người con gái trong hoàn cảnh nghe được tiếng hát nên say mê và ôm tương tư và đều là tình yêu lỡ làng, dang dở. Cả hai tác phẩm đều được kết thúc với tình tiết là một người chết với trái tim hóa đá và mối oan tình chỉ được hóa giải bằng giọt nước mắt của người còn lại.
Mặc dù vậy, hai tác phẩm trên có những điểm khác biệt nhất định. Về hình tượng nhân vật nam chính: Trong khi ở Câu chuyện tình ở Thanh Trì là Nguyễn Sinh khôi ngô tuấn tú thì nhân vật Trương Chi trong Trương Chi là người có ngoại hình xấu xí. Tiếp đó, diễn biến tình cảm giữa hai nhân vật chính cũng có sự khác nhau. Chuyện tình trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì diễn ra với tình tiết Nguyễn Sinh không gặp mặt trực tiếp cô gái; nhân vật nữ chủ động đính ước với chàng trai và tình yêu xuất phát từ hai phía. Ngược lại, trong Trương Chi, mối tình diễn ra khi Trương Chi gặp và say mê Mỵ Nương nhưng Mị Nương hết tương tư khi nhìn thấy diện mạo Trương Chi và đây chỉ là tình yêu đơn phương của Trương Chi. Vì lẽ đó, điểm khác nhau tiếp theo là trở ngại của tình yêu trong hai tác phẩm: Một bên là sự ngăn cản của người cha con gái (Câu chuyện tình ở Thanh Trì), bên còn lại là do sự vô tình của chính nhân vật trong cuộc- Mị Nương (Trương Chi). Kết thúc của mỗi tác phẩm cũng có sự khác nhau do trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì, cô gái chết với trái tim hóa đá in bóng hình người tình thì Trương Chi chết với trái tim hóa đá và chỉ Mị Nương nhìn thấy bóng một chàng trai chèo thuyền đang hát trong khối đá ấy.
Qua việc so sánh điểm tương đồng và khác biệt, chúng ta có thể nhận thấy tác giả Vũ Trinh tiếp thu khá rõ cốt truyện cổ tích Trương Chi: cũng câu chuyện về tình yêu đầy bất hạnh khởi đầu bằng tiếng hát, kết thúc bằng cái chết và trái tim hóa đá trong nỗi oan tình. Tuy vậy, ông cũng đã thay đổi một số tình tiết để mang lại cho tác phẩm một diện mạo mới, một ý nghĩa mới. Trong Câu chuyện tình ở Thanh Trì còn hướng tới hiện thức xã hội bởi do chính luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến đã dẫn đến nỗi oan khuất, bi kịch của tình yêu lứa