Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 12 trang 74 Tập 2 | Cánh diều Ngữ văn lớp 12

0.9 K

Tài liệu soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 74 Tập 2 Ngữ văn lớp 12 Cánh diều hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 12. Mời các bạn đón xem:

Soạn bài Thực hành tiếng Việt lớp 12 trang 74 Tập 2

Câu 1 (trang 74 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

[...] Khi nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thì trước hết cần thấy rằng đó là một công việc bình thường, tự nhiên và thường xuyên, lâu dài trong suốt cả quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước tới nay và từ nay về sau, nhằm bảo vệ và phát huy cái bản sắc, cải tinh hoa của tiếng Việt, không để cho mất đi một cái gì vô cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy ngôn ngữ nào cũng trải qua những thời kì nổi bật lên nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của nó. Như ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười vĩ đại, Lê-nin (Lenin) đã kêu gọi mọi người không được “làm hỏng tiếng Nga”, “tuyên chiến với việc dùng những từ nước ngoài không cần thiết".

Ở ta, từ những năm 50, trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, Bác Hồ đã nói đến các thứ “bệnh” ngôn ngữ mà chúng ta thường hay mắc như: bệnh “sảo”, nghĩa là nói và viết theo một cái khuôn mẫu hoàn toàn như nhau bất kể về việc gì, ở cấp nào, cơ quan nào; bệnh “ba hoa”, “nói dài, nói dại, nói dai”, còn nội dung thì rỗng tuếch, “ba voi không được bát nước xảo”; bệnh “vẽ rắn thêm chân”; bệnh “nói chữ”. Sau này, Bác cũng nhiều lần nhấn mạnh: “khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều, và nhiều khi dùng không đúng”. Bác thường xuyên nhắc nhở: “tiếng nào sẵn có thì dùng tiếng ta” và đồng thời chỉ rõ: “có những chữ ta không sẵn có và khó dịch đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài”.

Năm 1966, tại cuộc họp mặt về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (ngày 7 và ngày 10 tháng 2), tôi đã nêu ra ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn sự giàu đẹp của nó, và hơn thế nữa làm cho nó ngày càng thêm giàu và đẹp. Đó là: giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta; nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta; giữ gìn bản sắc, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn học, chính trị, khoa học, kĩ thuật,...); đồng thời phải có những đổi mới, phát triển, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta.

[...] Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi nó ngày càng có tính chất “trí tuệ hoá và quốc tế hoá”. Điều này rất quan trọng khi ta đặt tiếng Việt trong bối cảnh thời đại ngày nay: thời đại của thông tin, của trí tuệ; thời đại của hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu, và do đó, tiếng Việt phải có những chuẩn bị, những thay đổi,để có đủ thế và lực giao lưu, tiếp xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà không sợ bị tổn thương đến giá trị, bản sắc, đến sự giàu đẹp của nó.

(Phạm Văn Đồng, Trở lại vấn đề: Vì sự trong sáng và phát triển của tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, năm 1999)

a) Vì sao phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Nội dung nhiệm vụ đó là gì?

b) Thế nào là một ngôn ngữ phát triển? Vấn đề phát triển tiếng Việt có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay?

Trả lời:

a)

- Cần phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vì “nhằm bảo vệ và phát huy cái bản sắc, cái tinh hoa của tiếng Việt, không để cho mất đi một cái gì vô cùng quý báu khiến cho tiếng Việt là tiếng Việt.”

- Nội dung nhiệm vụ: Đây là một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài trong suốt cả quá trình phát triển của tiếng Việt từ trước tới nay và từ nay về sau. Cụ thể ba khâu cần phải làm:

+ Giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta; nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta.

+ Giữ gìn bản sắc, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn học, chính trị, khoa học, kĩ thuật,...)

+ Có những đổi mới, phát triển, làm cho tiếng ta ngày thêm giàu trên cơ sở vốn cũ của tiếng ta.

b)

- Một ngôn ngữ được đánh giá là phát triển khi nó ngày càng có tính chất “trí tuệ hoá và quốc tế hoá”.

- Ý nghĩa phát triển tiếng Việt: Để có đủ thế và lực giao lưu, tiếp xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà không sợ bị tổn thương đến giá trị, bản sắc, đến sự giàu đẹp của nó.

Câu 2 (trang 75 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Từ hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân, hãy nêu một số biểu hiện cụ thể của việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng, không chuẩn mực.

Trả lời:

- Biểu hiện cụ thể của việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng, không chuẩn mực:

+ Ngôn ngữ “Chat” có nhiều kiểu viết tối nghĩa, biến âm, biến nghĩa tràn lan trên mạng xã hội, được giới trẻ ưa dùng, tạo nên một thứ tiếng Việt không chuẩn mực.

VD: “tình yêu” thành “tềnh iu”, “buồn ngủ” thành “bùn ngủ”, “biết rồi” thành “bít òy”, “không” thành “hông”,…

+ Lạm dụng tiếng nước ngoài, nhiều nhất vẫn là tiếng Anh. Đặc biệt, đối với giới trẻ thường xuyên lai căng ngôn ngữ trong cả lúc nói và lúc viết, dù cho tiếng Việt vốn có sẵn nghĩa.

VD: đồng ý - ok, dễ thương – cute, người hâm mộ - fan, tạm biệt – bye bye,…

Câu 3 (trang 75 sgk Ngữ văn 12 Tập 2)Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) phân tích vẻ đẹp của tiếng Việt được thể hiện trong một bài thơ mà em đã học.

Trả lời:

Viết về tiếng Việt, đã có biết bao nhà thơ, nhà văn cảm nhận về giá trị và vẻ đẹp của nó, Lưu Quang Vũ cũng vậy, với bài thơ “Tiếng Việt” ông đã đưa ta trở về với nguồn gốc của tiếng Việt, qua đó thể hiện lên sự giàu đẹp của nó. Với những vần thơ giàu sức gợi, cho người đọc thấy được đời sống sinh hoạt, lao động của người Việt - nơi thai nghén, hình thành và nuôi dưỡng tiếng nói dân tộc. Những câu thơ như Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh./Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy, đã thể hiện một hệ thống phong phú các thanh điệu với những âm độ, âm vực, qua đó tiếng Việt có khả năng tạo ra nhiều giai điệu khác nhau: du dương trầm bổng, hào hùng, mạnh mẽ, sâu lắng, thiết tha…Những sắc thái trong tiếng Việt chính là sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam cần cù, nhẫn nại; ân nghĩa, thủy chung; kiên cường, bất khuất.

Xem thêm các bài soạn văn lớp 12 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Thời gian

Thực hành tiếng Việt trang 74

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ

Tự đánh giá: Tháng Tư

Hướng dẫn tự học trang 82

 
Đánh giá

0

0 đánh giá