Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 11: Bài ca ngắn đi trên bãi cát mới nhất, tài liệu bao gồm 9 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Soạn bài lớp 11: Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát)
Bài giảng: Bài ca ngắn đi trên bãi cát
1. Soạn bài: Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 1
1.1. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.1.1. Cao Bá Quát (1809-1854) người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm,
tỉnh Bắc Ninh (nay là ngoại thành Hà Nội). Ông là người tài năng, đức
độ nhưng từng chịu nhiều bất hạnh. Ông tong ra làm quan với triều
Nguyễn, rồi từ quan và tham gia lãnh đạo khởi nghĩa nông dân để rồi chịu
cái án tru di tam tộc oan nghiệt.
1.1.2. Sa hành đoản ca thuộc thể thơ cổ thể, không gò bó vào luật,
vần gieo tương đối tự do... Bài thơ thể hiện tâm trạng của một con người
đang cảm thấy bế tắc trên đường đời. Để thể hiện tâm trạng ấy tác giả đã
dùng hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng: một con người đi trên con đường
giữa bãi cát dài. Tâm sự của nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là
những nỗi niềm day dứt của nhà thơ Cao Bá Quát trong hành trình đi tìm
lí tưởng sống cho riêng mình. Qua đó thể hiện vấn đề nhanạ đường của
người trí thức trong thời kì chế độ phong kiến đã suy tàn và niềm khao
khát vươn tới lí tưởng sống cao đẹp của con người. Bài thơ có nhiều yếu
tố hiện đại thể hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
1.2. RÈN KĨ NĂNG
1.2.1. Con đường trên bãi cát dài biểu trưng cho đường đời xa xôi mờ
mịt. Con đường đi tìm chân lí vô cũng gian nan và nhiều thử thách. Hình
ảnh này có ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật cho tâm trạng của nhân vật trữ
tình xuyên suốt bài thơ. Đó là sự trăn trở day dứt, là khao khát tìm kiếm
con đường lí tưởng cho cuộc đời.
1.2.2. Hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ là hình tượng có ý
nghĩa biểu tượng. Đó là một con người cô đơn lẻ loi bước đi những bước
vô cùng nặng nhọc và vất vả giữa một bãi cát mênh mông nắng cháy.
Người đi ấy đi nhưng bước đi đầy tâm sự. Nguyên nhân sự khó nhọc cất
bước ấy không phải là do bãi cát hay con đường mà do tâm trạng. Thông
thường đi trên cát thật khó khăn. Bãi cát dài rộng lại khiến ta nghĩ đến
những sa mạc mênh mông. Nơi chỉ hứa hẹn với người đến những điều
cực khổ và không may mắn. Chọn hình ảnh bãi cát và con đường độc bộ
của nhân vật trữ tình là một bài thơ là một lựa chọn rất hiện đại của tác
giả.
Người khách bộ hành cô đơn trên con đường đầy gian nan là hình tượng
khái quát cho quá trình con người đi tìm chân lí giữa cuộc đời mờ mịt.
Nhà thơ đã nói lên một quy luật phổ biến của đời sống: con người luôn
không ngừng đua chen để dành lấy danh lợi. Và chính điều đó khiến con
người rơi vào bi kịch.
1.2.3. Tác giả đã dùng nhiều đại từ nhân xưng khác nhau để chỉ nhân
vật trữ tình – tác giả, điều này giúp cho nhà thơ có thể cảm nhận tâm
trạng ở nhiều vị trí, nhiều chủ thể khác nhau, đồng thời có thể thể hiện
độc thoại, đối thoại với chính mình, qua đó thể hiện tâm trạng mâu thuẫn
của tác giả trong quá trình đi tìm lí tưởng sống cho mình. Nhân vật trữ
tình với các trạng thái tâm trạng khác nhau được thể hiện một cách đa
chiều cho thấy diễm biến tâm trạng phức tạp của tác giả khi đứng trước
hiện thực mù mịt.
Các câu cảm thán (Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!, Bãi cát dài, bãi cát
dài ơi!) câu hỏi tu từ (Người say vô số, tỉnh bao người?, Tính sao đây?
Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?, Anh đứng làm chi
trên bãi cát?) đã góp phần rất quan trọng vào việc thể hiện thành công
tâm trạng bế tắc và khát khao tìm ra con đường đi đúng cho bản thân. Sự
xuất hiện nhiều lần hai loại câu này đã thể hiện nỗi băn khoăn day dứt
đến tuyệt vọng và cả nhữung mâu thuẫn đang giằng xé nội tâm của người
đi khi tìm mãi không ra lối thoát cho đường đời.
1.2.4. Từ tâm trạng của nhân vật trữ tình có thể suy đoán rằng, tác
giả làm bài thơ này sau nhiều lần thất bại và thất vọng trước cuộc
đời. Vì thất bại nên nhân vật trữ tình đang muốn tìm một con đường mới.
Nhưng con đường mới trên cát thì thật khó khăn. Bài thơ thể hiện rất rõ
sự bế tắc của nhà thơ khi đi tìm hướng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.
Trên thực tế, Cao Bá Quát cũng không ngừng tìm hướng đi, tìm lí tưởng
sống cho mình. Ông cũng đã từng loay hoay trong vòng tròn của chế độ
thi cử, của con đường quen thuộc "tề gia trị quốc bình thiên hạ" của nhà
Nho. Những Cao Bá Quát đã thất bại. Có lẽ, đây là bài thơ thể hiện khá
trung thực tâm sự của cái Tôi cá nhân thi sĩ, điều còn ít thấy trong văn
học trung đại.
1.3. TƯ LIỆU THAM KHẢO
"... Bài thơ dựng một hình tượng nhân vật (Khách đi đường, cái tôi của
tác giả) với ba cung bực cảm xúc và suy tưởng, càng về cuối càng sâu sắc
cứng cỏi, đầy bản lĩnh.
a. Sáu câu đầu:
Bãi cát, bãi cát dài,
....
Trèo non lội suối, giận không nguôi.
vẽ một chân dung con người thật gan góc, quả cảm, vừa đẫm chất hiện
thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ đặc sắc.
Bãi cát, cũng là cuộc sống nói chung dài rộng, mênh mông luôn
thử thách con người. Điệp từ "bãi cát" nối nhau hai lần và hình ảnh
con người bước lên một bước, lại như bị đẩy lùi một bước trong
ánh chiều tà mặt trời lặn dựng được thật chính xác những khó khăn,
thử thách của cuộc đời đối với mỗi kiếp người.
Giữa bãi cát buổi chiều tà ấy, người khách bộ hành đã gắng gỏi
tưởng đến kiệt sức. Mỗi bước anh đi là một dòng nước mắt và mồ
hôi tuôn trào lã chã. Nhưng anh không nản, trái lại chỉ tự giận mình
không có phép tiên để chiến thắng đường dài, cát bỏng. Câu thơ
"Không học được tiên ông phép ngủ, Trèo non, lội suối giận không
nguôi" tuy là một lời than về sự hạn hẹp tài năng sức lực của mình,
nhưng vẫn cháy lên một khát vọng.
b. Bốn câu tiếp:
"Xưa nay phường danh lợi...
Say cả, hỏi tỉnh được mấy người."
là một sự đối chứng nghiêm khắc để khách bộ hành cũng chính là nhà thơ
kẻ đang rong ruổi trên bãi cát cuộc đời tự động viên mình mà tiếp tục
vững bước. Đặt hình ảnh người khách bộ hành đi trên bãi cát "Trèo non,
lội suối..." với hình ảnh bọn người danh lợi "Gió thoảng hơi men trong
quán rượu" bên nhau, thái độ khẳng định và phê phán của Cao Bá Quát
thật rõ ràng dứt khoát. Câu hỏi "Say cả, hỏi tỉnh được mấy người", rạch
ròi một sự đánh giá. Nói cụ thể hơn, đối với Cao Bá Quát "Phường danh
lợi" kia là những kẻ ... "Say cả". "Người tỉnh" chả mấy ai và đang rong
ruổi, đọa đày trên bãi cát mịt mờ, đầy trắc trở.
c. Sáu câu tiếp, nhất là bốn câu cuối cùng:
Nghe ta ca "cùng đồ" một khúc:
Phía bắc núi Bắc, núi muôn lớp,
Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt,
Sao mình anh còn trơ trên bãi cát?
Cất cao lên tiếng hát cứng cỏi đầy bản lĩnh của người khách bộ hành,
cũng chính là thái độ sống mạnh mẽ của Cao Bá Quát. Bài ca "cùng đồ"
của nhà thơ vừa tiếp nối hình ảnh bãi cát khủng khiếp ở đoạn trên, vừa
nhận mạnh thêm những thử thách mới. "Phía bắc núi Bắc... Phía nam...
sóng muôn đợt". Vậy là con đường trước mặt người đi đâu chỉ có cát mà
thêm cả núi non hiểm trở, "sóng biển" trập trùng nối tiếp. Trước cả một
vũ trụ dữ dội như thế "Sao mình anh còn trơ trên bãi cát?". Câu kết của
bài thơ ngân lên như một lời tự vấn, hay một lời hứa, lời thề, một khát
vọng quyết tâm tiếp bước, một mình tiếp bước. Có lẽ câu thơ mang cả ba
ý nghĩa ấy. Trước những thử thách của cuộc đời, Cao Bá Quát đã từng
băn khoăn day dứt, muốn buông xuôi, nhưng rồi ông lại vượt lên và bằng
một bản lĩnh của nhà nho chân chính yêu thương con người, căm ghét bất
công để đi tới và cuối cùng thì tham gia cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương
chống lại triều đình nhà Nguyễn thối nát.
Tóm lại qua bài Sa hành đoản ca này, chúng ta hiểu rõ hơn nhân cách của
nhà thơ Cao Bá Quát. Đó là một con người không chỉ rất tài hoa, giàu
tình cảm nhân đạo mà luôn luôn sống cứng cỏi, bản lĩnh, từng vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách của cuộc đời và không nguôi khát vọng
đạp bằng mọi chông gai, mọi cát bỏng rộng dài trên con đường đi tới...".
(Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông – Phạm Thái, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Nxb Giáo dục, 1997)
2. Soạn bài: Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 2
2.1. Bố cục
Phần 1 (4 câu đầu): Hình ảnh đi trên bãi cát dài bất tận và hình ảnh lữ
khách.
Phần 2 (6 câu tiếp theo): Tâm trạng suy tư của lữ khách.
Phần 3 (còn lại): Sự bế tắc của lữ khách trước con đường trắc trở phía
trước.
2.2. Câu 1 (trang 42 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Hình ảnh tả thực:
+ Đi một bước như lùi một bước “nhất bộ nhất hồi khước”.
+ Mặt trời lặn vẫn còn đi “Nhật nhập hành vị dĩ”.
+ Nước mắt lã chã rơi “lệ giao lạc”.
Ý nghĩa tượng trưng: con đường dài không nhìn thấy điểm dừng, hành
trình miệt mài, bất tận nhưng đầy mỏi mệt, đau khổ.
2.3. Câu 2 (trang 42 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
- Giải nghĩa:
+ “Không học được…giận khôn vơi”: Người bộ hành không có phép thần
thông để vượt qua mọi gian khổ như tiên ông nên oán giận đời.
+ “Xưa nay,…đường đời”: Phàm là những kẻ ham danh lợi đều phải vượt
qua nhiều khổ ải như thế.
+ “Đầu gió…tỉnh bao người”: Không phải ai cũng vượt qua được cám dỗ
của men rượu.
- Sự liên kết ý nghĩa: Người bộ hành nghĩ về con đường mình phải đi đầy
gian khó mà không tránh khỏi oán giận, nghĩ đến lẽ đời và sức cám dỗ
kinh khủng của danh lợi, khiến bao kẻ bất chấp để lao theo.
2.4. Câu 3 (trang 42 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Tâm trạng của lữ khách: đầy bế tắc, không tìm ra được hướng đi đúng
đắn cho mình.
⇒ Thể hiện tầm tư tưởng của Cao Bá Quát: sự chán ghét con đường danh
lợi tầm thường, khao khát thay đổi cuộc sống.
2.5. Câu 4 (trang 42 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Nhịp điệu bài thơ: ngắt nghỉ linh hoạt (nhịp 2/3, 3/5, 2/2/3, 2/5,…), nhịp
dài ngắn đan xen.
⇒ Thể hiện sự trắc trở, gập ghềnh của con đường đi.
⇒ Thể hiện cảm xúc bế tắc, chán ghét của nhân vật trữ tình.
2.6. Luyện tập
Cao Bá Quát khởi nghĩa chống nhà Nguyễn vì chán ghét thực tại đời sống
xô bồ, phù phiếm lúc bấy giờ. Ông muốn cải tạo xã hội, tìm lại những giá
trị đích thực tốt đẹp.
2.7. Ý nghĩa
Bài ca ngắn đi trên bãi cát với nhịp thơ độc đáo, đã biểu lộ sự chán ghét
của một người tri thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời,
niềm khao khát thay đổi cuộc sống qua dòng suy tư của nhân vật trữ tình
về con đường danh lợi gập ghềnh, trắc trở.
3. Soạn bài: Bài ca ngắn đi trên bãi cát mẫu 3
3.1. Về Tác Giả, Tác Phẩm
1. Tác giả
Cao Bá Quát (1809? – 1855) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mẫn
Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc
quận Long Biên, Hà Nội). Ông mất trong cuộc khởi nghĩa chống lại chế
độ phong kiến nhà Nguyễn. Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và bản
lĩnh, được người đương thời tôn thờ là Thánh Quát. Thơ văn ông bộc lộ
thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ, và chứa
đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới
của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Cao Bá Quát đi thi Hội. Trên đường vào kinh đô
Huế, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng (Quảng Bình, Quảng Trị)
(hình ảnh bãi cát dài, sóng biển, núi là những hình ảnh có thực gợi cảm
hứng cho nhà thơ sáng tác bài thơ này).
- Thể thơ: thể ca hành, có tính chất tự do, phóng khoáng, không bị gò bó
về số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu.
3.2. Hướng dẫn doạn bài
Câu 1 (trang 42 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
- Bãi cát dài lại bãi cát dài: mênh mông dường như bất tận, nóng bỏng.
→ Hình ảnh tả thực: đẹp nhưng dữ dội, khắc nghiệt đã gợi ý cho nhà thơ
sáng tác bài thơ này.
→ Hình ảnh biểu tượng: con đường đầy khó khăn mà con người phải
vượt qua để đi đến danh lợi.
- Hình ảnh người đi trên bãi cát:
+ Đi một bước như luì một bước: nỗi vất vả khó nhọc.
+ Không gian đường xa, bị bao vây bởi núi sông, biển.
+ Thời gian: mặt trời lặn vẫn còn đi.
+ Nước mắt rơi → khó nhọc, gian truân.
=> Mượn hình ảnh con người như bị sa lầy trong những bãi cát dài, để thể
hiện nỗi niềm day dứt, đau xót của tác giả đi trên con đường tìm lý tưởng
nhưng xã hội bù nhìn không cho ông lối thoát.
Câu 2 (trang 42 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Sáu câu thơ:
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?
có vẻ rời rạc, không gắn bó với nhau nhưng thực chất là một liên kết logic,
chặt chẽ. Danh lợi (việc học hành, thi cử, để đạt tới một vị trí chốn quan
trường) chính là khái niệm xâu chuỗi toàn bộ đoạn thơ. Hai câu thơ đầu
thể hiện nỗi chán nản của nhà thơ vì tự mình phải hành hạ mình để theo
đuổi công danh. Trong khi đó, bốn câu thơ còn lại nói về sự cám dỗ của
chuyện công danh đối với người đời. Hình ảnh người đời thấy ở đâu có
quán rượu ngon đều đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo thoát ra khỏi sự cám dỗ
của rượu. Danh lợi cũng dễ làm say người.
=> Sáu câu thơ là bước chuẩn bị cho kết luận của tác giả: cần phải thoát
khỏi cơn say danh lợi vô nghĩa.
Câu 3 (trang 42 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát là trạng chán nản, mệt mỏi rã rời.
Tầm tư tưởng cao rộng của nhà thơ chính là ở chỗ đã nhận ra tính chất vô
nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ.
Người đi trên cát sa lầy trong cát hay chính là hình tượng kẻ sĩ cô độc, lẻ
loi đầy trăn trở nhưng kì vĩ, vừa quả quyết vừa tuyệt vọng trên con đường
đi tìm chân lí đầy chông gai.
Câu 4 (trang 42 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Nhịp điệu của bài thơ được tạo nên chủ yếu nhờ sự thay đổi độ dài của
các câu thơ cũng như sự khác nhau trong cách ngắt nhịp của mỗi câu thơ,
đem lại khả năng diễn đạt phong phú. Cách ngắt nhịp của bài thơ khá linh
hoạt, khi thì là nhịp 2/3, khi lại là 4/3. Câu cuối cùng không có cặp đối,
như một câu hỏi buông ra đầy ám ảnh. Nhịp điệu diễn tả sự gập ghềnh,
trúc trắc của những người đi trên bãi cát dài, muốn thoát ra khỏi con
đường công danh vô nghĩa, tầm thường.
3.3. Luyện tập
(trang 42 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Qua bài thơ này ...
Bài ca ngắn đi trên bãi cát chỉ là một minh chứng nổi bật trong toàn bộ sự
nghiệp sáng tác của Cao bá Quát khi nhắc đến chuyện công danh như một
nỗi ám ảnh đầy bế tắc. Ví dụ như trong bài Đắc gia thư, thị nhật tác, ông
viết:
Dư sinh phù danh ngộ
Thập niên trệ văn mặc
(Đời ta lầm lỡ vì cái danh hờ
Hàng chục năm chìm đắm trong bút mực)
Và còn rất nhiều bài thơ khác, ông tỏ ra chán ghét việc học hành và thi cử
văn chương để kiếm danh lợi. Vì vậy, đây là nguyên nhân khiến Cao Bá
Quat nhận ra rằng cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ý nghĩa
hơn. Đó là lý do dẫn ông đến với cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Nguyên.