Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 11 bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn mới nhất, tài liệu bao gồm 6 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Bài ca phong cảnh Hương Sơn
Soạn bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Soạn bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 1
1.1. Bố cục
Phần 1 (bốn câu đầu): Tâm tình của tác giả khi vừa đặt chân đến Hương Sơn.
Phần 2 (mười câu tiếp): Khung cảnh Hương Sơn qua con mắt của nhà thơ.
Phần 3 (năm câu còn lại): Suy nghĩ, quan niệm của tác giả về cuộc đời, về con
người, đất nước.
1.2. Câu 1 (trang 51 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
+ Bầu trời cảnh Bụt: Bầu trời – chỉ bao quát khung cảnh Hương Sơn; cảnh Bụt –
Khung cảnh đẹp đẽ, thoát tục, gần với cõi của Bụt của tiên.
+ Câu thơ gợi cảm hứng ngợi ca, trữ tình, thiên về tâm linh cho bài hát nói.
+ Không khí tâm lính thể hiện:
→ chim cúng trái, cá nghe kinh
→ tiếng chày kình
→ những di tích: suối Giải Oan, hang Phật Tích
1.2. Câu 2 (trang 51 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Cách cảm nhận phong cảnh thiên nhiên của người xưa:
+ Xem thiên nhiên là cõi mộng đẹp.
+ Thiên nhiên như là chốn để nương náu tâm hồn, xa lánh bụi trần, thế tục.
1.3. Câu 3 (trang 51 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Nghệ thuật tả cảnh:
+ Không gian: đậm màu sắc tâm linh, không gian như cõi tiên, tác giả sử dụng
phép so sánh, nhân hóa.
+ Màu sắc: bao phủ không gian là sắc trắng của trời, của nước, của mây, nổi lên
giữa nền trắng ấy là những đá ngũ sắc long lạnh rực sáng.
+ Âm thanh: lấy động tả tĩnh, tiếng chày kình vang lên càng làm bật nổi sự yên
tĩnh, bình yên của không gian Hương Sơn.
1.4. Ý nghĩa
Bài ca phong cảnh Hương Sơn bộc lộ tình cảm của nhà thơ trước phong cảnh
Hương Sơn (chùa Hương) đồng thời thể hiện ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của tác
giả, đặc biệt là trong việc miêu tả không gian, màu sắc và âm thanh.
2. Soạn bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 2
BÀI CA PHONG CẢNH HƯƠNG SƠN
Chu Mạnh Trinh
2.1. KIẾN THỨC CƠ BẢN
2.1.1. Chu Mạnh Trinh (1862-1905) tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, quê làng
Phú Thị, huyện Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu (nay là Mễ Sở,
huyện Văn Giang) tỉnh Hưng Yên. Ông là người tài hoa, thạo đủ cầm, kì, thi, hoạ,
lại giỏi cả nghệ thuật kiến trúc, và đặc biệt say mê cảnh đẹp.
2.1.2. Hương Sơn phong cảnh ca là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh
Trinh viết vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng
cảnh Hương Sơn. Bài thơ viết theo thể hát nói. Bài thơ vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên xinh đẹp và nên thơ về phong cảnh Hương Sơn. Đây là một bài thơ vịnh
cảnh và thể hiện tâm sự. Đó là tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất
nước của nhà thơ.
2.2. RÈN KĨ NĂNG
2.2.1. Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:
Đoạn 1 (bốn dòng thơ đầu): giới thiệu thắng cảnh Hương Sơn, nhận xét tổng
quát về cảnh đẹp và thể hiện tình cảm.
Đoạn 2 (Từ "Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái... Ghập ghềnh mấy lối uốn
thang mây"): Tả cảnh đẹp Hương Sơn. Cảnh Hương Sơn mang vẻ đẹp của
chốn tiên cảnh, như một bức tranh đẹp và nhiều sắc màu.
Đoạn 3 (phần còn lại): Suy nghĩ của nhà thơ về giang sơn đất nước. Đoạn
thơ này có thể gắn với hiện thực đất nước để hiểu rộng và sâu hơn giá trị của
bài thơ. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết qua một
thắng cảnh của đất nước và tâm sự sâu kín của một nhà thơ về đất nước,
cuộc đời.
2.2.2. Bốn câu thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn và trực tiếp
nêu cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn. Hai nhịp cân xứng xác định nét cơ
bản bao trùm lên cảnh trí Hương Sơn bằng một nhận xét tinh tế: vừa là danh lam
thắng cảnh do tạo hoá ban tặng vừa là công trình tôn giáo. Cảnh được dựng lên vừa
mang nét bình dị, gần gũi, vừa thấm đượm không khí huyền diệu, linh thiêng. Đó
là niềm "ao ước" không chỉ trong giây lát mà đã trở thành niềm khát khao "bấy lâu
nay" của bao du khách.
Câu thơ thứ ba có giá trị tạo hình đặc sắc nhờ cách hợp giữa hình thức điệp từ liệt
kê và thủ pháp luyến láy "non non, nước nước, mây mây"... Vừa vẽ ra cảnh trí
hùng vĩ của non nước, mây trời Hương Sơn như một bức tranh thuỷ mặc cổ điển
vừa tạo được âm điệu ngân nga, bâng khuâng man mác như cảm xúc của du khách
trước vẻ huyền ảo chốn bồng lai tiên cảnh.
2.2.3. Ba khổ giữa miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Rừng mơ, suối
Yến, tiếng chim ca thỏ thẻ "vườn hoa", dáng cá "lững lờ" dưới dòng nước
trong veo, phẳng lặng, tiếng chuông chùa ngân nga... là những hình ảnh sinh
động biến hoá như có hồn. Bức tranh phong cảnh vừa hiện thực vừa mang màu sắc
huyền thoại lãng mạn được dệt nên bởi nghệ thuật ẩn dụ nhân hoá: "chim cúng
trái", "cá nghe kinh", cách phối thanh, phối hình tài hoa tinh tế đã gợi lên được
thần thái Hương Sơn. Âm điệu của "tiếng chày kình" (tiếng chuông chùa) như dẫn
dụ du khách vào giấc mộng cõi tiên cảnh để tâm hồn được cao khiết, thánh thiện
hơn.
Khung cảnh thiên nhiên đẹp như trong cõi mộng và không gian tĩnh lặng đã khiến
cho "khách tang hải giật mình". Cái giật mình ấy vừa làm nổi bật lên vẻ tĩnh lặng
của không gian vừa diễn tả được sự say sưa của khách khi đứng trước cảnh đẹp
Hương Sơn.
Qua đoạn thơ, những lớp lang trập trùng cao thấp của thắng cảnh Hương Sơn lần
lượt hiện lên như mời gọi, như mê hoặc. Sự lặp lại đại từ chỉ định "này" được lặp
lại 4 lần để liệt kê 4 thắng cảnh tiêu biểu nổi tiếng gắn với những huyền thoại li kì
về cửa phật đã nhân lên cảm xúc say sưa khoan khoái. Tiếp theo là những câu thơ
giàu chất hoạ, chất nhạc với các từ láy gợi hình "long lanh", "thăm thẳm", "gập
ghềnh" vẽ ra vẻ đẹp mộng ảo, thần tiên huyền bí của "Nam thiên đệ nhất động".
2.2.4. Đoạn kết bài thơ là nơi tập trung thể hiện tư tưởng và cảm hứng về tình
yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ. Câu hỏi "Chừng giang sơn
còn đợi ai đây?" vừa kín đáo biểu lộ niềm tự hào của con người đã đóng góp nhiều
công sức tôn tạo thêm vẻ đẹp huyền diệu của Hương Sơn vừa nhắc nhở mọi người
cùng có trách nhiệm làm đẹp cho giang sơn đất nước. Bài ca kết lại trong sự hoà
quyện giữa cảm hứng tôn giáo đầy thành kính trang nghiêm và tình yêu quê hương
đất nước tha thiết. Điều đó góp phần làm cho Hương Sơn đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
3. Soạn bài: Bài ca phong cảnh Hương Sơn mẫu 3
3.1. Câu 1 trang 51 SGK Văn 11
Một cái nhìn bao quát về cảnh vật khi Chu Mạnh Trinh đến với Chùa Hương được
thể hiện ớ câu: “Bầu trời cảnh Bụt”. Nhà thơ chỉ ra cảnh tượng “Kìa non non nước
nước mây mây”. Đó là không gian của núi non, sông nước, mây trờiệ Núi non soi
mình bên dòng suối Yếnẵ Mây trời lồng lộng trên quần thể Hương Sơn. Cái thú
đến với Hương Sơn là đến với “Bầu trời cảnh Bụt” là sự ao ước của bao người
trong đó có nhà thơ (Thít Hương Sơn ao ước bấy lâu nay). Cảnh vật hiện ra là cảnh
của thiên nhiên và cũng là cảnh tôn giáo. Lòng ngưỡng mộ với cánh Phật cộng với
cảm nhận tinh tế của một nhà thơ, Chu Mạnh Trinh đã bật lên câu hỏi “Đệ nhất
động hỏi là đây có phải?"
Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng như ru, như mời mọc. Tâm hồn thi sĩ như bâng
khuâng, bảng lảng trong tĩnh tại của tâm linh mà vẫn tỉnh táo lạ thường. Con người
đến nơi này như rũ sạch mọi thứ phàm tục. Bốn câu thơ đầu tạo cảm xúc cho bài
thơ hát nói.
Cảnh vật trong bài hát nói mang màu sắc tôn giáo (đạo Phật) với tất cả tấm lòng
ngưỡng mộ trang nghiêm nhưng gắn kết với lình yêu cái đẹp thiên nhiên của nhà
thơ, với những cảnh “thỏ thẻ rừng mai”, “lững lờ khe Yến”, “lồng bóng nguyệt”,
“uốn thang mây”. Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm với lòng yêu
quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân. Nó tạo ra
sự thanh cao, tinh khiết, lâng lâng của hồn người. Cảm hứng tôn giáo khòng phái là
sự mê tín dị đoan mà là một nhu cầu tinh thần mang tính người của một bút pháp
tài hoa.
3.2. Câu 2 trang 51 SGK Văn 11
Nhà thơ tả cảm giác của khách vãn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông chùa
như sau:
Du khách từ cái thế giới đầy biến động ngoài kia vào đây dường như cũng bừng
ngộ, nghĩa là cũng nhập vào làm một với cảnh Bụt chốn này. Con người đi vào
cảnh thảng thốt với tiếng chày kình. Tất cả đều cởi bỏ mọi phiền luỵ của trần gian
để hoà nhập vào cái không khí linh thiêng nơi chốn Phật này. Tại khoảnh khắc ấy,
cả chim, cá và người đểu dường như thoát tục. Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là
thế, vậy mà thi nhân đã thấy nó hiện hữu trong tất cả, hoà tan trong tất cả. Đó đúng
là một sự nắm bắt tinh tế, thần tình.
3.3. Câu 3 trang 51 SGK Văn 11
Cách miêu tả của nhà thơ làm cho cảnh vật trở nên có hồn, phảng phất không khí
thần tiên, xa lánh với cõi trần đầy bụi bặm.
Cách miêu tả làm cho bức tranh Hương Sơn nên thơ, nên hoạ:
“Nhác trông lên [...] gấm dệt”
Những câu thơ nhất mực trong sáng. Đó là sản phẩm của một cảm hứng thẩm mĩ
cao độ. Yêu cái đẹp cúa cảnh vật đã gắn liền với lòng yêu quê hương đất nước.