Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 12 bài văn mẫu Cảm nhận về người đàn bà hàng chài hay nhất, gồm 41 trang trong đó có dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và 10 bài văn mẫu cảm nhận hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
CẢM NHẬN VỀ NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI
Bài văn mẫu: Cảm nhận nhân vật Người đàn bà hàng chài
Cảm nhận về người đàn bà hàng chài - Mẫu 1
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thuộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật. Nổi bật trong truyện là hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật này hiện lên vô cùng chân thực, sinh động. Đó là một người phụ nữ có tên tuổi cụ thể, mà chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” hay “mụ”... Qua đó, chúng ta thấy được rằng nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là một trong số biết bao người đàn bà vùng biển khác. Nhưng chính nhân vật này lại đại diện cho số phận của những người phụ nữ vùng biển.
Tiếp đến, nhà văn đã khắc họa cho người đọc thấy đôi nét về ngoại hình của người đàn bà hàng chài. Dáng người mang đặc trưng của những người phụ nữ sống ở vùng biển “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Khuôn mặt của người đàn bà hiện lên đầy “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…”. Có thể thấy, cuộc sống cực khổ, lam lũ đã in đậm lên ngoại hình của nhân vật này.
Điều bất ngờ mà Nguyễn Minh Châu mang đến là đằng sau vẻ ngoại hình xấu xí lại là một tâm hồn đẹp đẽ. Điều đó được Nguyễn Minh Châu hé mở trong cuộc trò chuyện của Phùng, Đẩu với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện. Chứng kiến cảnh tượng bạo lực của người đàn ông vũ phu, Phùng đã chạy vào can ngăn. Mấy ngày sau đó, người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời lên tòa. Người phụ nữ quanh năm vất vả, lam lũ chỉ quen với sông nước, khi vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi. Tại đây, Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Truyện càng trở nên hấp dẫn hơn, khi sự xuất hiện của Phùng khiến người phụ nữ cảm thấy lo lắng, sợ hãi vì nghĩ rằng anh chính là nhân chứng được mời tới.
Nhưng đằng sau sự nhút nhát đó, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hàng chài là tỏ ra là một người phụ nữ từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Chị tự nhận lỗi lầm về mình: “ Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... ”. Và bênh vực người chồng vũ phu: “ Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”, “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Người phụ nữ ấy cũng thật giàu đức hy sinh: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà ấy cũng là lúc được ngồi nhìn các con được ăn no, lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ.
Chiếc thuyền ngoài xa mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng khắc họa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài với vẻ đẹp khuất lấp thật đáng trân trọng và yêu mến.
I. Mở bài
Giới thiệu về Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thuộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật. Nổi bật trong truyện là hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
II. Thân bài
1. Tên tuổi, ngoại hình
- Tên tuổi: Không tên không tuổi, chỉ được gợi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà.
- Ngoại hình: trạc ngoài bốn mươi, thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…
=> Sự lam lũ, vất vả của người phụ nữ.
2. Tính cách, phẩm chất
- Hiền lành, nhút nhát: Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi”, Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.
- Từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”, “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”
- Giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hy sinh vì con cái “ Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”
- Một người phụ nữ giàu tình yêu thương: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”, yêu thương thằng bé Phác nhất “ . Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác”...
III. Kết bài
Đánh giá về tác phẩm cũng như nhân vật người đàn bà hàng chài: Chiếc thuyền ngoài xa mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng khắc họa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Trong truyện, em cảm thấy ấn tượng nhất với nhân vật người đàn bà hàng chài.
Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.
Tóm lại, người đàn bà hàng chài là nhân vật được xây dựng rất thành công của Nguyễn Minh Châu. Qua nhân vật này, nhà văn cũng gửi gắm được tư tưởng nhân văn có giá trị đến độc giả.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ. Tác phẩm được xây dựng với nhiều nhân vật, nhưng có lẽ nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tích cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở đối với tác giả và người đọc.
Người đàn bà hàng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ” Người đàn bà, bà…” Người đàn bà chạc bốn mươi tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con, nghèo khó. Người đàn ông xấu xí (chồng chị), một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửi rửa chị và các con chị “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn “ Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng Phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố”. Cả hai mẹ con chỉ biết khóc.
Khi gặp chánh án Đẩu và gợi ý cho chị về vấn đề ly hôn, chị nhất định không chịu, chị hiểu rằng trên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Xưa chồng chị là một con người cục tính nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đánh vợ con. Chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Theo chị, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
Khi bị người chồng đánh, chị không có một phản kháng nào, không chống trả, cũng không chạy trốn. Chị coi việc bị đánh như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị đã phải gửi thằng Phác lên rừng để nó không phải hận bố vì thấy cảnh đã đánh mẹ. Chị không muốn bỏ chồng vì không muốn nhìn cảnh các con thấy bố mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão chồng vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con, am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài trong truyện chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng người phụ nữ Việt Nam, dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong là một phẩm chất cao quí, luôn nghĩ tới gia đình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn chăm sóc gia đình mình. Đồng thời tác phẩm đã phản ánh một điều, không nên có cái nhìn một chiều về con người và cuộc sống mà cần phải có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn.
Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đôi khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trong. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa.
Người đàn bà hàng chài xuất hiện trong tác phẩm không có tên tuổi, chỉ được gọi bằng những đại từ “người đàn bà hàng chài”, “mụ”. Ngoại hình được khắc họa với những nét quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần gia đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc " một túp lều tranh hai trai tim vàng". Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ’. Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của công tàn bạo, nhưng chị vẫn “với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố”. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.
Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý ly hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không ly hôn, nhận hết trách nhiệm, tội lỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hy sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.
Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất " Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ" Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.
Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.
Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đập vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hy sinh cao cả.
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.
Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bản về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’
Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: "Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.
Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hy vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : "..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng ngòi bút tinh tế, nhẹ nhàng, ẩn chứa nhiều những bài học, những quan điểm có giá trị nhân văn ông đã đem đến cho nền văn học hiện đại một xu hướng mới. Không còn viết về những đề tài chiến tranh thảm khốc, những nỗi đau thương mất mát trên chiến trường, hay sự hào hùng hy sinh anh dũng của những con người ở tiền tuyến và hậu phương.
Nguyễn Minh Châu đã đặt trọng tâm vào việc phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, đi sâu vào từng cuộc đời cá nhân với những nỗi đau và những vẻ đẹp lẩn khuất, để cuối cùng mở ra những quan niệm mới mẻ về cuộc đời, khiến chúng ta nhận thức được những điều có lý trong chính những nghịch lý của cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn bà làng chài mang trong mình những nỗi bất hạnh, đớn đau. Tuy nhiên từ trong những nỗi đau thương bất hạnh ấy, độc giả lại cảm nhận được thật rõ nét những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, cũng như thấu hiểu cảm thông hơn cho nhân vật này, cho những người phụ nữ làm nghề chài lưới ven biển giai đoạn sau giải phóng, khi mà chiến tranh đi qua nhưng những hậu quả để lại trên mảnh đất Việt Nam còn quá lớn và dai dẳng.
Trước hết để diễn tả nỗi bất hạnh của người đàn bà làng chài, người ta không thể bỏ qua những chi tiết về ngoại hình của chị. Chẳng còn gì đáng buồn hơn là ông trời đã bắt người đàn bà ấy phải chịu nỗi đau của một người phụ nữ có dung mạo xấu xí, chị vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, thế nhưng một cơn đậu mùa đi qua đã để lại trên mặt chị cơ man nào là những nốt rỗ chi chít, rồi trở thành cô gái quá lứa lỡ thì, rồi cuối cùng may mắn nên duyên cùng người chồng hiện tại. Thế nhưng ấy chẳng phải là cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn gì, bởi lẽ lấy chồng nghèo, chị đã phải hy sinh cả cuộc đời của mình cho những nỗi lo cơm áo gạo tiền, cuối cùng giờ đây chị biến thành một người phụ nữ trung niên, dáng vẻ thô kệch, khuôn mặt tiều tụy, xơ xác, thảm hại vô cùng. Nhưng bất hạnh của chị chưa dừng lại ở đó, mà nó còn khủng khiếp hơn khi bản thân người phụ nữ này còn là nạn nhân của cảnh bạo hành gia đình dã man. Bước vào đầu câu chuyện, người ta đã không khỏi xuýt xoa say mê trước cái cảnh một con tàu tiến vào bờ trong ánh mai hồng, tựa như một bức danh họa thời cổ, một cảnh "đắt" trời cho hiếm có. Thế nhưng giữa lúc ấy bước xuống khỏi con thuyền như mơ, lại là một cặp vợ chồng, tiều tụy, lam lũ, và khủng khiếp hơn ấy là cảnh người đàn ông dùng thắt lưng quất liên tiếp vào người đàn bà đi cùng vừa đánh vừa chửi rủa đay nghiến những lời cay độc, còn người đàn bà thì chỉ biết chịu đựng, không bỏ chạy, không la hét chống cự. Rồi cả nỗi đau đớn của chị khi phải chứng kiến đứa con trai của mình là thằng Phác lao vào đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ. Tất cả những điều ấy khiến người ta dễ dàng đặt ra một dấu hỏi lớn, vì sao người đàn bà ấy lại phải nhẫn nhịn và chịu đựng một cách nhu nhược và hèn nhát đến nhường này, trong khi bản thân chị cũng có được sự bảo vệ của thằng con, sao chị vẫn cứ căng mình để nhận lấy những đòn roi từ người chồng vũ phu, độc ác.
Tuy nhiên, chỉ khi được Phùng và chánh án Đẩu mời lên giải quyết chuyện ly hôn, chị mở lòng tâm sự những điều mình giấu trong lòng bấy lâu nay người ta mới vỡ lẽ ra rằng, không phải việc gì chúng ta cho là có lý cũng hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Với câu chuyện của người đàn bà làng chài, khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ làm thủ tục ly hôn, giải thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nghiêm trọng, thì phản ứng của chị không phải là vui mừng, hạnh phúc, muốn ly hôn lập tức. Mà trái lại, người đàn bà ấy sống chết cầu xin đừng bắt chị ly hôn chồng, có lẽ đối với nhiều người đó là một hành động không thể nào "gàn dở" hơn, thế nhưng phải đứng vào vị trí ấy của người đàn bà làng chài chúng ta mới hiểu chị có biết bao nhiêu nỗi lo, nỗi khó xử. Chị không muốn ly hôn chồng chung quy tất cả cũng là tấm lòng thương con của người mẹ, vì những đứa con còn tuổi ăn tuổi lớn của mình, chị sợ rằng không có người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão táp, thì mình chị làm sao có thể gồng gánh để nuôi từng ấy miệng ăn qua những ngày biển động. Lão chồng vũ phu của chị dù có đánh đập, hành hạ chị đến cỡ nào, rồi cũng phải quay về con thuyền này, làm tròn bổn phận của một người cha, ra sức lao động để cùng chị nuôi lớn con cái. Vì con chị chẳng sợ gì đòn roi, đau đớn, miễn sao là những đứa con của chị có thể được ăn no, được lớn lên đàng hoàng, khỏe mạnh, là đã đủ khiến chị hạnh phúc, mãn nguyện. Tấm lòng người đàn bà, người mẹ ấy thật bao dung, ấm áp. Không chỉ lo lắng về vật chất, cơm ăn áo mặc, mà hơn thế nữa chị còn lo lắng cả về mặt tinh thần cho những đứa con của mình, chị muốn chúng có bố như bao đứa trẻ khác, có một gia đình đầy đủ vẹn toàn. Và dù bị đánh đập dã man, chị cũng không muốn để con mình nhìn thấy, chính vì vậy chị luôn xin gã chồng vũ phu có đánh thì rời khỏi thuyền rồi hãy đánh chị. Bởi lẽ chị không muốn những hình ảnh bạo lực, sự rạn nứt tình cảm gia đình giữa cha mẹ làm ảnh hưởng đến tâm hồn của con cái. Về chuyện của thằng Phác, khi phát hiện nó thù ghét cha mình, thậm chí có những suy nghĩ lệch lạc, chị đã nhanh chóng gửi nó về nhà ngoại, để tránh việc nó làm ra những chuyện không thể vãn hồi. Có thế mới thấy được tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà làng chài, dẫu trên tấm lưng và tâm hồn dày đặc những vết thương đau đớn, thế nhưng chị vẫn một lòng bảo hộ chu toàn cho những đứa con bằng cách của riêng mình. Sống một cuộc đời nhiều sóng gió, vất vả và đau thương như thế nhưng bản thân chị không mấy khi nghĩ đến những chuyện đớn đau mà trái lại chị luôn hướng về những tháng ngày hạnh phúc, gia đình quây quần đầm ấm bên nhau trong những bữa cơm, đối với chị chỉ cần nhìn thấy con cái ăn no là chị cũng đã đủ hạnh phúc. Đối với chị "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ" cho nên họ "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Chị thấu hiểu lẽ ấy, nên chấp nhận nhẫn nhịn, hy sinh tất cả để củng cố cuộc đời của các con.
Bên cạnh vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, ở người đàn bà làng chài còn có vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, cam chịu và tấm lòng bao dung sâu sắc. Đối với việc bị đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu, người đàn bà làng chài không than trách, không kết tội, mà trái lại chị có phần thấu hiểu, cảm thông và bào chữa cho hắn. Chị cho rằng chung quy lại cũng chỉ tại khổ quá, đói kém quá, biết bao nhiêu gánh nặng của một gia đình hơn chục miệng ăn cứ quanh năm suốt tháng đè nặng lên đôi vai của người chồng, khiến hắn mệt mỏi và cần một nơi để trút giận, trút hết những uất ức bấy lâu, xong rồi thì hắn lại quay về lao động, kiếm sống. Chị hồi tưởng về những ngày trẻ và nhắc lại một cách dịu dàng rằng chồng chị khi ấy "cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi". Sau cùng chị tổng kết "giá mà tôi đẻ ít đi", một nạn nhân, một người đáng được che chở bảo vệ, cuối cùng lại nhận hết mọi trách nhiệm về mình và biện minh cho người đã gây ra biết bao đau khổ cho bản thân. Có tấm lòng nào nhân hậu và bao dung được hơn thế nữa. Thêm nữa có lẽ bản thân chị vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng, mặc dầu cuộc đời chị có thể không được trọn vẹn, nhưng ít nhất chị cũng có một gia đình và những đứa con của riêng mình, không phải chịu sự cô độc đến già.
Bên cạnh ấy, ở người đàn bà làng chài, lam lũ, ít học, thế nhưng người ta lại nhận ra được vẻ đẹp của một tâm hồn từng trải, thấu tình đạt lý, có một cái nhìn rất đa chiều và sâu sắc về cuộc đời. Chị không chỉ là một con người biết nhẫn nhịn, biết chịu đựng mà bản thân chị còn là một người biết phân biệt đúng sai, chị cũng hiểu được rằng hành động của Phùng và Đẩu cốt là để giúp đỡ chị, thế nhưng phải đứng trong hoàn cảnh của chị người ta mới thấy khó khăn để lựa chọn cỡ nào. Từng lời phân tích, với những lý lẽ mộc mạc, giản đơn, giàu đức hy sinh của người đàn bà làng chài, dường như đã khiến Phùng và Đẩu vỡ ra một điều gì đó. Đó là việc những cái có lý vẫn có thể tồn tại ngay trong lòng những điều nghịch lý nhất, mà bản thân con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều thì mới nhận ra và thấu hiểu được.
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm xuất sắc phản ánh rất rõ bức tranh xã hội Việt Nam sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tuy chiến tranh đã đi qua thế nhưng hậu quả nó để lại cho con người, cho mảnh đất quê hương thì còn mãi dai dẳng, chính cái đói, cái nghèo kiệt quệ đã khiến con người ta khốn khổ, tha hóa. Tuy nhiên không nhằm mục đích nhấn mạnh vào vấn đề này, mà chủ yếu Nguyễn Minh Châu muốn khai thác vẻ đẹp tâm hồn của những con người nhỏ bé, những khía cạnh đạo đức, từ đó dẫn ra những quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời, cách cảm nhận những vẻ đẹp chân chính mà ở đây là hình ảnh người đàn bà làng chài với vẻ đẹp của tình mẹ, sự bao dung và thấu hiểu lý lẽ ở đời.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn nổi tiếng. Trong số các tác phẩm làm nên tên tuổi của ông phải kể đến truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm đã gây được ấn tượng sâu sắc với người đọc qua nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nhân vật này được xây dựng là số phận đại diện cho trăm ngàn người đàn bà hàng chài sống lênh đênh trên sông nước. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu truyện và xuất hiện trong một tình huống éo le, oái ăm. Người đàn bà bước xuống từ Chiếc thuyền ngoài xa tuyệt đẹp – là tâm điểm của bức ảnh nghệ thuật mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng sau hơn một tuần lễ “phụ kích” đã tìm thấy được. Nhưng Phùng không thể nào ngờ tới đằng sau vẻ đẹp tuyệt đích của bức ảnh nghệ thuật lại là một câu chuyện đời thường, một số phận bi thương, ai oán.
“Người đàn bà” là một phụ nữ xấu số, khuôn mặt bị rỗ chằng chịt, là kết quả của một trận đậu mùa từ tấm bé. Lớn lên, làm vợ một người đàn ông làng chài. Số phận bi thảm của người đàn bà có thể gọi bằng nạn bạo hành gia đình. Bà bị chồng đánh đập hành hạ “ba ngày một trận nhẹ”, “năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn không kêu lên một tiếng, vẫn không oán trách, không tìm cách trốn chạy. Ngay cả khi được tòa án động viên, khuyên nhủ, người đàn bà ấy vẫn kiên quyết không chịu rời bỏ người chồng vũ phu, độc ác.
Có thể ta ngạc nhiên và thấy kỳ lạ trước hành động và thái độ không bình thường của người đàn bà này nhưng khi những lời tâm sự thật tình của bà, thì chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng và tất cả chúng ta mới vỡ lẽ ra căn nguyên của sự việc. Qua những lời kể của người đàn bà, ta phần nào hình dung được về người đàn ông – chồng bà là một người đàn ông cộc tính nhưng hiền lành ‘chẳng bao giờ đánh đập tôi cả”, nhưng giờ đây, vẫn người đàn ông ấy đã trở thành một kẻ vũ phu, độc ác, vô nhân tính. Cái gì cũng có nguyên nhân, sự thay đổi đó, cái đói khiến cho con người ta quên đi tất cả, khiến người ta cáu gắt, lạnh lùng, bực bội. Tội ác sinh ra từ đó, ‘bất kể lúc nào cảm thấy bực bội là lão lại vác tôi ra đánh”. Những lời người đàn bà kể xoáy sâu hơn vào nỗi đau của con người trước tình cảnh đói nghèo – “cả nhà vợ chồng con cái đều phải ăn xương rồng luộc chấm muối”, đẻ nhiều, đông con, làm ăn khó khăn “trời làm cho biển động cả tháng trời”. Người đàn bà nhìn suốt vào cả cuộc đời mình: “chỉ tại tôi đẻ nhiều quá, cả nhà không thể sắm một chiếc thuyền rộng hơn”. Đó là một sự thật phũ phàng, là hiện tượng phổ biến không thể tránh khỏi của những con người làm nghề chài lưới. Vì thế, gánh nặng cơm áo luôn đè nặng lên vai người đàn ông khiến ông ta không khỏi rơi vào bế tắc, ông ta phải trút mọi uất ức, đau khổ lên một nơi nào đó để giải thoát minh, và nơi trút không đâu khác hơn là người vợ. Và thế là ta hiểu vì sao khi vừa bước xuống bờ, “đôi mắt dữ dằn của lão cứ dán chặt vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới của người đàn bà”. Lão tìm thất ở vợ căn nguyên đau khổ của cả cuộc đời mình. Đến khi hai người khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn, lão đàn ông “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay…” hắn trút mọi giận dữ bằng cách rút chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát quật xuống hắn lại rên rỉ trong đau đớn, uất ức: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Nghe trong mỗi tiếng rên xiết của lão đàn ông độc ác, ta vẫn thấy được nỗi đau xót, bế tắc, bất lực trước hiện thực cuộc sống nghèo đói, túng quẫn của lão. Vì thế, ta hiểu rằng đánh vợ là cách mà lão đàn ông giải tỏa gánh nặng, đánh vợ nhưng chính ông cũng không cảm thấy sung sướng, nhẹ nhõm.
Còn người đàn bà, khi bị chồng đánh đập, hành hạ cũng không hề kêu lên một tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy, phải chăng người đàn bà ấy bị đánh đòn nhiều quá nên thành quen, hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn nhận thức được về quyền sống của mình. Có lẽ không phải thế? Khi Kiều bị đánh đập, Nguyễn Du đã phải thốt lên rằng:
“Thịt da ai cũng là người
Lòng nào chẳng rụng, thắm vào chẳng rơi.”
Đúng thế, người đàn bà cũng là con người như tất cả chúng ta, có cảm giác, có đau đớn, có khả năng tự vệ. Nhưng vì cuộc sống của bà quá lênh đênh, quá chìm nổi bất trắc trên một chiếc thuyền, với một sắp con nhỏ trên dưới chục đứa, liệu rằng người đàn bà ấy có cách nào khác để thay đổi cuộc sống.
Nhân dân ta có câu “cá chuối đắm đuối vì con”, có lẽ người đàn bà ấy ý thức được hơn bất kỳ ai thiên chức làm mẹ của mình, vì thế “trên thuyền phải có một người đàn ông chèo chống phong ba bão táp để cùng làm ăn và nuôi nấng đặng sắp con nhỏ’. Bà ý thức sâu sắc số phận và trách nhiệm của mình đối với con “đàn bà hàng chài sống trên truyền chỉ có thể sống vì con chứ không thể sống vì mình như đàn bà trên đất được”. Người đàn bà ấy sẵn sàng chịu khổ, chịu hành hạ cũng vì những đứa con. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà là bóng dáng của hàng ngàn hàng triệu người phụ nữ Việt Nam đôn hậu, giàu tình thương, cam chịu và giàu đức hy sinh.
Nhẫn nhục đối với chồng nhưng người đàn bà rất tự trọng đối với con, lo lắng cho tương lai của chúng. Bà nơm nớp lo sợ những hành động bạo lực của người cha sẽ gây tổn thương tinh thần cho những đứa con. Vì lẽ đó, khi những đứa con dần lớn lên, người đàn bà xin với chồng ‘đưa lên bờ mà đánh”. Bà không muốn con chứng kiến nỗi đau khổ của cả một cuộc đời bà, đối với bà: chẳng gì đau đớn hơn sự tổn thương đầu đời gây ra cho những đứa con. Bà không cho phép con làm gì có lỗi với bố, dù sao đi chăng nữa, người đàn ông ấy vẫn là bố của chúng, vẫn là cái trụ cột vững vàng của cả cái gia đình đông đúc này. Bà âm thầm chịu đựng những đau khổ, giày vò về thể xác lẫn tinh thần, chỉ với một mong mỏi duy nhất là nuôi lớn đàn con. Bà dành tình yêu thương cho đàn con, nhất là đối với thằng Phác. Trong đau khổ, tủi nhục song cũng có lúc người đàn bà ấy cảm thấy hạnh phúc. Đó là những lúc nhìn thấy những đứa con được ăn no, ấy là một hạnh phúc đời thường nhỏ bé và giản dị biết bao nhưng đối với người đàn bà bất hạnh, điều đó trở thành nghị lực sống, vực bà dậy từ những cơ cực, tủi nhục.
Người đàn bà làng chài ý thức được thiên chức làm mẹ cao cả của mình và nắm giữ lấy những khoảnh khắc hạnh phúc bé nhỏ trong cuộc sống. Đó chính là lý do khiến những hành động và suy nghĩ của bà đều hướng về một niềm tin gắn bó với thuyền, với người chồng độc ác, vũ phu. Khi được toà án mời đến và vị thẩm phán vô cùng cảm thông chia sẻ với nỗi đau và cuộc sống của người đàn bà, và vẫn kiên quyết từ chối việc ly hôn chồng. Vị thẩm phán đã nhận được câu trả lời tưởng chừng vô lý mà lại vô cùng thấm thía: “các chú có lòng tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn, đâu thể hiểu được việc của những người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Trước một người đàn bà làng chài thất học, lam lũ mà trải đời, vị thẩm phán thông minh thật bé nhỏ, tầm thường, có thể anh là một người thông hiểu pháp luật nhưng anh chưa thực sự thấu suốt lẽ đời. Anh thấy “có cái gì đó mới vỡ ra trong đầu”. Anh thấm thía hơn bao giờ hết nghịch lý của cuộc sống, những nghịch lý khó có thể chấp nhận tựa như “các chú không phải đàn bà, không thể nào hiểu được những khó nhọc của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông”. Và anh bắt đầu nhận ra rằng cuộc chiến chống đói nghèo thực ra là một cuộc chiến rất cam go, vất vả, phải có một giải pháp thực tế hữu hiệu chứ không thể giải quyết bằng những thiện chí và những lý thuyết đẹp đẽ xa rời thực tế. Cuộc chiến ấy còn khó khăn hơn cuộc chiến chống ngoại xâm, bởi lẽ khi chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn bế tắc của đói nghèo, con người ta vẫn phải sống chung với cái xấu, cái cũ.
Cuộc sống và số phận của người đàn bà làng chài cũng đem đến cho Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật, con thuyền nghệ thuật có thể ở rất xa, con người khó có thể với tới được nhưng hiện thực cuộc sống ở rất gần ta, xung quanh ta và gắn bó với ta. Đó cũng chính là mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống, “nghệ thuật sẽ chẳng là gì nếu không vì cuộc sống mà có” (Phạm Văn Đồng).
Qua số phận đầy cay đắng của người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những con người lao động bình thường và đồng cảm sẻ chia với những người phụ nữ làng chài. Thấp thoáng ở đó, ta vẫn thấy ở người phụ nữ nghèo khổ lam lũ ấy những phẩm chất cao đẹp, rất tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao đẹp. Qua hình tượng người đàn bà nhà văn đã chia sẻ, cảm thông với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội, đồng thời cũng phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặt khác, Nguyễn Minh Châu còn đặt ra trách nhiệm cho đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống: “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì phải đa sự”.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương giành cho những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong tim những nghệ sĩ đến với những Thị Nở, những cô vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ở đây tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của người phụ nữ.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong nền văn học nước nhà. Là nhà văn luôn đi tìm tòi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn có thể chỉ “cắt lấy một lát”, “cưa lấy một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và đưa ra triết lí nhân sinh. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: Người đàn bà xấu xí, người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau khổ tinh thần đang giày xéo tâm can
Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.
Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là bởi những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Thị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương.
Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
Thậm chí, bà rất thương yêu thằng Phác, thằng con ương bướng nhất trong số những đứa con của bà, tính nết và ngoại hình của nó giống bố như lột nên rất yêu con mà bà phải gửi có lên rừng cho ông nuôi. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập mẹ nó thậm tệ. Một tình mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con còn suy nghĩ nông cạn nó lao nhanh như mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt. Thậm chí nó còn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với lòng mình chừng nào nó còn ở đây thì sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi giận trước hành động rất con trẻ của thằng Phác.
Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một cái ngã dúi dụi xuống cát và bỏ đi thì lúc này lòng thương con mới trỗi dậy. “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Ta lại tìm thấy một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Tại sao khi bị gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố bà lại đau đớn đến vậy?. Có lẽ lúc này đã có vô số luồng điện chạy trong tâm trí của người đàn bà kia. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống tính bố nó không?
Bà đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui và đặc biệt để tâm hồn chúng không bị lắng những cặn bẩn của cuộc sống để vẩn đục tâm hồn. Nhưng giờ đây bà bất lực. Sự chịu đựng và hi sinh của bà đã vô ích chăng? Bởi khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Cảm nhận được nỗi đau đớn cực đỉnh của người đàn bà lúc này ta mới thấy hết bà yêu thương con đến nhường nào, cái nỗi đau tận cùng vì lòng yêu mà hi sinh nhưng vô ích. Thật cảm động trước tấm lòng người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động giản đơn mà cao đẹp nghĩa tình.
Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, độ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.
Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu sinh. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người dàn ông. Chính vì thế bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.
Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.
Trong tác phẩm tác giả còn xây dựng một nhân vật nữ như bóng ảnh của người đàn bà đó chính là chị gái lớn của thằng Phác. Cô gái ấy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng cũng để lại những suy tư và ám ảnh. Nếu thằng Phác là bóng ảnh của gã đàn ông thì cô gái ấy là bóng ảnh của người đàn bà. Trong khi thằng Phác nông nổi thương mẹ bằng cách chống trả bố mình một cách quyết liệt. Thì cô chị gái thể hiện sự trưởng thành và chín chắn của mình. Nó đã kịp ngăn cản thằng em, không cho em làm việc dại dột và kịp lấy con dao ra khỏi tay thằng Phác. Đó là suy nghĩ của một cô gái đã trưởng thành và nhận thức.
Đặc biệt, cô chị còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người đàn bà, bởi cô ấy gần gũi và bên mẹ một cách âm thầm, lặng lẽ không ồn ào như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình yêu thương của một cô con gái. Hôm người mẹ đi lên tòa án huyện cô con gái đã đi cùng. Cô lặng lẽ ngồi bên ngoài đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người mẹ đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá cũng là lúc bà bấu víu vào hình ảnh cô con gái thân thương của mình với chiếc áo tím ngồi đợi bà trên chiếc thuyền thúng.
Chỉ với hai chi tiết nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những nét tương đồng ở cô thiếu nữ trẻ này với người đàn bà hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này lớn lên cô có trở thành người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhịn, bao dung, từng trải và am hiểu như mẹ mình hay không? Câu trả lời có lẽ đã tìm được nhưng chúng ta vẫn hi vọng cuộc sống của những người đàn bà ven biển sẽ tốt lên, sẽ không còn những cô gái áo tím theo chân những người đàn bà hàng chài kia nữa.
Người đàn bà hàng chài có lẽ không chỉ là hình ảnh đeo bám, ám ảnh Phùng mỗi khi anh nhìn vào tấm ảnh đã chụp của mình mà còn là hình ảnh làm day dứt lòng người đọc sau khi gấp trang truyện lại. Ta băn khoăn tự hỏi lòng rồi thân phận người phụ nữ ấy sẽ ra sao giữa cuộc đời cơ cực, khó khăn. Đó là câu hỏi không chỉ Nguyễn Minh Châu đặt ra trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cách đây ba thập niên mà còn là vấn đề thời sự ngày nay khi xã hội đề cao nữ quyền và chống bạo lực gia đình. Thế nên, chắc chắn tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mãi mãi về sau vẫn sẽ còn nguyên giá trị.
Người nghệ sĩ vốn là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mĩ bên trong. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.
Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, khi anh vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài ấy không chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong sự giận dữ tột độ. Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn như thế?
Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?
Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.
Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!
Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!
Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?
Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.
Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.
Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.
Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!
Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn. Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!
Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc.
Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.
Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!
Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm. Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.
Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hy sinh vì con cái.
Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu, vị tha.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.
Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.
Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hy sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) quê ở làng Thơi, xã Quỳnh hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội và theo học ở trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
- Từ 1952 - 1958, ông công tác và chiến đầu tại Sư đoàn 320.
- Năm 1963, Nguyễn Minh Châu về Phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Năm 2000, ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được rút trong tập truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Minh Châu (1987).
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
- Phần 2 (tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện về người đàn bà hàng chài
- Phần 3 (còn lại): Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
3. Tóm tắt
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng anh đã từng tham gia chiến tranh chống Mỹ, được trưởng phòng cử xuống vùng biển để chụp ảnh biển buổi sáng. Anh đã chụp được cảnh “đắt” trời cho. Nhưng ngay lúc ấy, Phùng phát hiện ra một bức tranh khác của cuộc sống. Một người chồng đã đánh đập vợ một cách dã man và đưa con vì bênh vực cho mẹ đã lao vào đánh bố. Oái ăm thay, sự thật nghiệt ngã đó lại xuất phát từ chiếc thuyền mà chỉ vài phút trước đây, là bức ảnh trong mơ của anh. Anh kể câu chuyện với Đẩu, bạn anh, chánh án tòa án huyện. Hai người đồng ý cách giải quyết của Đẩu: khuyên li hôn. Nhưng tại tòa án huyện, khi lắng nghe lời cầu xin không bỏ chồng và lời tâm sự của người đàn bà, anh và bạn anh hiểu rằng, không phải bất cứ chuyện gì cũng có thể giải quyết bằng luật pháp. Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông đánh vợ, Phùng xuống chỗ thuyền gặp Phác. Sau đó, anh trở về phòng văn hóa, suy nghĩ về bức ảnh chụp in trong lốc lịch.
4. Phương thức biểu đạt: Tự sự
5. Thể loại: Truyện ngắn
6. Ngôi kể: Ngôi thứ nhất
7. Giá trị nội dung
- Từ câu chuyện về một bức ảnh nghê thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bề ngoài của nó.
- Đồng thời, câu chuyện trong bức ảnh nghệ thuật cũng đặt ra một vấn đề về nghệ thuật cho người nghệ sĩ. Đó là không nên nhìn cuộc sống qua lăng kính màu hồng mà cần phải lăn xả vào hiện thực để nhìn nhận nó một cách đúng đắn. Phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc sống và nghệ thuật, trả nghệ thuật về đúng với ý nghĩa thực của nó.
8. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.
- Cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu