Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 12 tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa gồm đầy đủ nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt hay nhất. Tài liệu có 5 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn lớp 12.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Chiếc thuyền ngoài xa – nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt:
Chiếc thuyền ngoài xa
Bài giảng: Chiếc thuyền ngoài xa
I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu
- Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, mất năm 1989, quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn
- Từ năm 1952 đến năm 1958, ông công tác và chiến đấu tại Sư đoàn 320.
- Năm 1962, ông về Phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sáng tạp chí Văn nghệ Quân đội
- Nguyễn Minh Châu đưuọc coi là một trong số những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới
- Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
- Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa cháy từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết, 1985), Trang giấy trước đèn (tập tiểu luận phê bình, 1994), Người đàn bà trên chiếc thuyền tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau (1989),…
- Đặc điểm sáng tác:
+ Trước năm 1975: viết về đề tài chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Sau năm 1975: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, mang tính triết lí sâu sắc; ngôn ngữ đời thường, bình dị, gần gũi
II. Đôi nét về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
1. Hoàn cảnh ra đời
- Tác phẩm được viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập truyện ngắn cùng tên
- Tác phẩm là một trong số những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đên cuối thế kỉ XX
2. Tóm tắt tác phẩm
Để có thể xuất bản được một bộ lịch về thuyền và biển, nhận lời của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã chụp được một cảnh “đắt” trời cho – cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đang đánh đập vợ mình một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này anh đã ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh, nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời khỏi vùng biển với khá nhiều bức ảnh, Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch tĩnh vật hoàn toàn” về thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.
3. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
- Phần 2 (tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện về người đàn bà hàng chài
- Phần 3 (còn lại): Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
4. Giá trị nội dung
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
5. Giá trị nghệ thuật
- Cốt truyện có nhiều tình huống độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống
- Chọn ngôi kể, hình thức kể chuyện phù hợp
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, đặc sắc
- Xây dựng nhiều hình ảnh, hình tượng vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc
III. Dàn ý phân tích Chiếc thuyền ngoài xa
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu (tiểu sử, các sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…)
- Giới thiệu về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…)
2. Thân bài
a. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
* Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa – cảnh đắt trời cho
- Cảm nhận của người nghệ sĩ:
+ Nhận xét đó là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích
+ Bối rối, trong tim như có cái gì đó thắt vào
+ Nhận ra rằng bản thân cái đẹp là đạo đức bởi nó có khả năng gột rửa tâm hồn
→ Một người nghệ sĩ rất tinh tế, nhạy bén, có khả năng rung động trước cái đẹp
* Bức tranh cuộc sống thô bạo, phi nhân đạo, tàn nhẫn
- Cảnh gã đàn ông đánh đập vợ
- Cảm nhận của người nghệ sĩ:
+ Kinh ngạc đến mức cứ há hốc mồm ra mà nhìn
+ Chết lặng người
→ Phùng như không tin vào mắt mình bởi trước khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp lung linh thì giờ đây trước mặt ông lại là cảnh tượng vũ phu, tàn nhẫn
* Mối quan hệ giữa hai bức tranh
- Hai cảnh tượng này hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau, đó là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu, giữa cái đạo đức với cái phi đạo đức, giữa cái thanh cao, trong trẻo với cái tàn nhẫn, thô bạo
- Thông điệp của tác giả Nguyễn Minh Châu: cuộc đời không abo giờ đơn giản, xuôi chiều mà rất đa đoan, đa sự, luôn chứa đựng những mâu thuẫn, nghịch lí.
b. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện
- Lí do xuất hiện: chánh án Đẩu mời đến để giải quyể việc gia đình
- Tình huống truyện: dù thường xuyên chịu những trận đòn, bị đánh đập nhưng người đàn bà hàng chài chấp nhận đánh đổi mọi thứ để không phải bỏ chồng
- Nguyên nhân người đàn bà hàng chài không chịu bỏ chồng:
+ Người đàn ông là trụ cột của gia đình
+ Nuôi những đứa con
+ Có lúc vợ chồng sống hòa thuận lắm
- Sự thay đổi trong thái độ, lời nói, cách xưng hô của người đàn bà hàng chài:
+ Xưng hô: con – quý tòa sang chị - các chú
+ Thái độ từ sợ sệt, van xin sang cách nói đầy sắc sảo
→ Người đàn bà không cam chịu một cách vô lí mà ngược lại, bà rất am hiểu sự đời, suy nghĩ sắc sảo, thấu tình đạt lí và giàu đức hi sinh, bà không thể chỉ sống cho mình mà còn vì cả những đứa con
- Người đàn bà kể về chồng của mình:
+ Một người đàn ông cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập vợ
+ Cuộc sống nghèo khổ, ngày càng túng quẫn, người đàn bà đẻ nhiều, thuyền chật nên chồng bà mới trở nên độc dữ như vậy
→ Trong suy nghĩ của bà, sự độc dữ của chồng bà chỉ là sản phẩm của sự nghèo đói, lam lũ
- Sự khác nhau trong cách nhìn người chồng vũ phu của Phùng, Đẩu, thằng Phán và người đàn bà:
+ Phùng, Đẩu, thằng Phán: chỉ nhìn ở vẻ bề ngoài
+ Người đàn bà: ngoài vẻ bề ngoài bà còn nhận ra bản chất bên trong và nguyên nhân dẫn tới sự độc ác, hung dữ của chồng bà
⇒ Thông qua câu chuyện về người đàn bà ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh Châu gửi đến thông điệp về cách nhìn nhận cuộc đời: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách phiến diện mà phải có cái nhìn đa chiều, trong nhiều mối quan hệ khác nhau
c. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
- Khi nhìn vào tấm ảnh đen trắng ấy, Phùng thấy:
+ Cái màu hồng hồng của sương mai
+ Hình ảnh người đàn bà bước ra từ trong đó
- Ý nghĩa biểu tượng:
+ Màu hồng hồng của sương mai; vẻ ẹp bay bổng, lãng mạn
+ Hình ảnh người đàn bà: hiện thực cuộc đời
→ Nghệ thuật và cuộc đời có mối quan hệ gắn bó maạt thiết với nhau, nghệ thuật phải bắt nguồn từ hiện thực đời sống
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Nguyễn Minh Châu là người mở đường tinh anh cho thời kì đổi mới. Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của người nghệ sĩ với những số phận ấy. Sau thập kỉ 80 với tài năng của mình Nguyễn Minh Châu đã trở thành một người tiên phong cho văn học thời kì đổi mới. Trong giai đoạn này ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh và trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa.
Chiếc thuyền ngoài xađược viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc lập, nhiều vấn đề của cuộc sống trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Tác phẩm ra đời như một tất yếu khách quan, văn học phải đổi mới do những tác động của đời sống chính trị kinh tế văn hóa xã hội.
Trước hết tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp với người nghệ sĩ Phùng. Đây là một tình huống truyện nhận thức mang tính khám phá mà qua đó ta thấy được biết bao nhiêu là điều trong cuộc sống này. Trong bộ lịch năm ấy cấp trên có giao cho Phùng đi chụp một bức ảnh thuyền và biển. Chính vì thế mà Phùng có cơ hội được đi thực tế tại vùng biển kia nơi có người bạn của mình ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Nhưng trong bức tranh ấy Phùng lại tìm ra hai phát hiện.
Phát hiện thứ nhất là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ. Người nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh thuyền và biển. Cảnh tượng ấy khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe… chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.
Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối, trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Anh nhanh chóng nhấc máy ảnh lên và chụp lại khoảnh khắc ấy. Phải chăng cái đẹp đã thanh lọc tâm hồn anh?
Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ. Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người đàn bà ấy mặt thì dỗ, quần áo thì bạc phếch như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì. Ông ta đi chân chữ bát và có vẻ rất hung dữ. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy. Người đàn ông rút thắt lưng ra đánh tới tấp vào mặt người đàn bà khốn khổ kia. Phùng như không tin vào mắt mình. Khi ấy một thằng bé tên Phác chính là con của hai người ấy nhảy lên đánh vào mặt bố mình. Nó thậm chí còn muốn giết ông ta. Thế rồi nó bị bố tát cho một cái và ông ta bỏ ra ngoài thuyền trước. Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản xoay một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu, thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.
Chứng kiến cảnh ấy Phùng về nói với người bạn mình và hăng hái muốn chính quyền địa phương giải quyết vấn đề cho người phụ nữ ấy. Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời. Ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Chính vì thế mà Đẩu và Phùng như mở ra cho mình biết bao nhiêu điều chưa biết trong cuộc sống này.
Người đàn bà kể lại rằng cuộc đời mình trước kia cũng là một người con nhà khá giả thế nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần. Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại vừa chính là nhà của gia đình bà. Về tinh thần thì bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà lại không hề chống lại chồng mình. bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng thì bà biết lòng tốt của họ nhưng bà không thể bỏ chồng được vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Bà cho đẻ nhiều con là cái tội của mình.
Từ đó cho thấy bà tuy là một người phụ nữ không học hành nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Bà chấp nhận hi sinh để sống cho các con cho chồng mình, muốn để cho chồng được hả cơn giận, vả lại chính cuộc sống nghèo khổ kia đã làm người chồng như thế chứ ngày xưa ông ta vốn là một người rất hiền lành. Qua đó ta cũng thấy được cuộc sống làm cho con người ta thay đổi rất nhiều.
Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.
Câu chuyện kết thúc khi tấm lịch năm ấy trong bức tranh thuyền và biển Phùng lại thấy một màu hồng nhỏ trong bức ảnh đen trắng ấy. Phải chăng đó chính là người phụ nữ hàng chài kia, bà hiện lên với vẻ đẹp của một tâm hồn chịu thương chịu khó hi sinh cho con mình. Tóm lại qua phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu gửi đến cho người đọc thông điệp rằng phải nhìn mọi thứ theo đa chiều chứ không nên nhìn mọi thứ một phía. Đồng thời cần phải chống lại nạn bạo lực gia đình.
Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới (cuối thế kỉ XX).
Những tập truyện ngắn: "Người đàn bà trên chuyến tốc hành", "Bến quê", "Chiếc thuyền ngoài xa", "Cỏ lau",... đã thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc hoạ khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghê thuật và sự thật trần trụi của đời thường.
Nghệ sĩ Phùng đã "vác" máy ảnh trở lại vùng biến nơi chiến trường cũ của anh thời đánh Mĩ. Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh "phục kích" mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp "hên" một cảnh "trời cho", có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến. Đó là cảnh "thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...".
Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là "một bức tranh mực tầu của một danh hoạ thời cổ". Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động "bối rối", và trái tim của anh "như có cái gì bóp thắt vào". Đối diện với bức tranh "thật đẹp và toàn bích" ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía "bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức" như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh " vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thấnh thiện. Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã "ngộ" ra - "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chí là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải "rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa". Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng.
Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền "đâm thẳng" vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng. Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh "toàn bích" khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: "Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ". Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt... Người đàn ông đi sau "lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống",... Lão đàn ông con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân ướt sũng của người đàn bà".
Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà "đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng" (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông "trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay", hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, "quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Hắn "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két". Lão "trút cơn giận như lửa cháy" vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!". Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão. Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà "cam chịu đầy nhẫn nhục". Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh "kinh ngạc", "đứng há mồm ra mà nhìn" trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ "như một viên đạn lao tới đích đã nhắm" lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loần xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát. Tiếng gọi: "Phác, con ơi!" của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà "ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy... Và hình ảnh thằng nhỏ "lặng lẽ đưa ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ" lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú. Phùng "ngơ ngác nhìn" ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra "như trong truyện cổ quái đản", chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bối hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!
Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghê thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ờ rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua "Chiếc thuyền ngoài xa" đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.
Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở tòa án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.
Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới "rón rén" đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại "cúi mặt xuống". Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là: "Con lạy quý tòa...". Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...". Sống với một kẻ vũ phu, "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" thế mà mụ vẫn van xin quý tòa "đừng bắt con bỏ nó". Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy "ngột ngạt quá!".
Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị ta "ngơ ngác" nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.
Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai... "lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi". Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ... Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống. "Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được...". Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính ngụy. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái "sống hòa thuận vui vẻ", "vui nhất là ngồi nhìn đàn con được ăn no",...
Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác. Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo lực trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tính, rất đời, thì ta sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.
Biết được đáy vực nông, sâu đã là khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai, có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.
Truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy "liên thanh" hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt. Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng - kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan toà án huyện... là tình huống nói về sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.
Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hóa, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu tòa án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.
Tính tình huống đã làm cho truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt... là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong "Văn chiêu hồn" hơn hai thế kỉ trước:
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"