Nói với con - Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 6 9.7 K 17

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Nói với con hay nhất, gồm 6 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Nói với con Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Nói với con Ngữ văn lớp 9:

NÓI VỚI CON

Bài giảng: Nói với con

 (Y Phương)

A. Nội dung tác phẩm

Tình cảm thắm thiết của cha mẹ với con cái; ca ngợi sức sống bền bỉ và truyền thống cao đẹp của quê hương; niềm mong ước con kế tục xứng đáng truyền thống ấy.

Tác giả tác phẩm Nói với con – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 2)

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

- Y Phương (sinh năm 1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước.

- Quê quán: Trùng Khánh - Cao Bằng, ông là người dân tộc Tày.

- Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở văn hóa - thông tin tỉnh Cao Bằng.

- Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng.

- Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. 

- Thơ ông thể hiện tâm hồn mạnh mẽ, chân thực và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người dân tộc miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này.

b, Bố cục

Chia làm 2 đoạn:

- Đoạn 1: Cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.

- Đoạn 2: Những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình (sức sống bền bỉ, mãnh liệt của quê hương) và lời dặn dò của người cha.

c, Thể thơ

- Tự do, rất ít vần, gần với lời nói hằng ngày.

d, Phương thức biểu đạt

- Biểu cảm kết hợp với tự sự và miêu tả

e, Giá trị nội dung

- Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Qua đó, ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

g, Giá trị nghệ thuật

- Thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên.

- Ngôn ngữ mộc mạc, giàu hình ảnh gợi cảm.

- Biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ kết hợp những câu thơ ngắn dài góp phần diễn tả cuộc sống, tình cảm của người miền núi nói chung và lời nhắn nhủ cha đến con.

- Giọng điệu lúc thiết tha, trìu mến lúc mạnh mẽ.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng

a, Người cha nói với con về tình cảm gia đình – cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành

- Bốn câu thơ đầu: không khí gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Từng bước đi, từng tiếng nói cười của con đều được cha mẹ chăm chút và vui mừng đón nhận → Đó là công lao trời biển mà con phải khắc cốt ghi xương.

- Nhịp thơ 2/3 cùng cấu trúc đối xứng, điệp từ, điệp cấu trúc câu: “chân phải – chân trái, một bước – hai bước”, “tiếng nói - tiếng cười”… → một khung cảnh cụ thể: đứa con đang tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha, cả ngôi nhà như rung lên trong tiếng nói, tiếng cười.

- Điệp ngữ “bước tới” và động từ “chạm” → nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc. 

=> Con là kết quả của một tình yêu đẹp, con sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên bằng tình yêu thương, trong sự nâng đón, vỗ về, dìu dắt của cha mẹ. Tấm lòng của mẹ cha là cái đích để con hướng tới.

- Hai câu thơ cuối:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời

+ Ngày cưới của cha mẹ là ngày khởi đầu cho sự sống của con.

Nhớ: Thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu hạnh phúc gia đình của cha mẹ, để tạo nên một cái nôi hạnh phúc cho con sinh ra và lớn lên.

=> Qua đó, cha muốn nói: Con được sinh ra trong hạnh phúc.

b, Người cha còn nói cho con biết, con lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương

- “Người đồng mình” chỉ những người sống trên cùng một miền đất, cùng quê hương, cùng dân tộc… → cách gọi rất độc đáo, gần gũi và thân thương.

- Yêu: vẻ đẹp 

+ Cuộc sống lao động: Các động từ “cài, ken” vừa diễn tả động tác khéo léo vừa thể hiện cuộc sống lao động gắn bó, hoà quyện niềm vui.

+ Thiên nhiên: động từ “cho” cùng với các hình ảnh “Rừng cho hoa - con đường cho những tấm lòng” thể hiện sự ban tặng hào phóng của thiên nhiên dành cho con người. Hình ảnh ẩn dụ + nhân hóa → người cha muốn con biết quê hương mình là một vùng quê giàu truyền thống văn hoá mà cũng thật nghĩa tình. Chính những điều đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người.

=> Cha đã gieo vào lòng con niềm tự hào, biết ơn trước những vẻ đẹp của người đồng mình.

2. Những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình (sức sống bền bỉ, mãnh liệt của quê hương) và lời dặn dò của người cha

- Điệp ngữ “người đồng mình” khẳng định phẩm chất của con người là phẩm chất của quê hương. Lời nói mộc mạc, giản dị mà gợi bao yêu thương, gần gũi.

- Những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình:

+ Bản lĩnh sống đẹp: biết lo toan, mong ước

+ Tấm lòng thuỷ chung với nơi chôn rau cắt rốn dẫu quê hương còn nhiều cực nhọc, đói nghèo (Những hình ảnh đặc sắc trong các câu thơ “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”)

+ Sống hồn nhiên “như sông như suối/ lên thác xuống ghềnh/ không lo cực nhọc → diễn tả một cuộc sống tràn đầy niềm vui và lạc quan trước những khó khăn vất vả.

- Từ trái nghĩa, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể, kiểu câu ngắn dài khác nhau → tự hào + khẳng định: người dân miền núi tuy cuộc sống hôm nay còn vất vả, khó nhọc nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó tha thiết với quê hương.  

→ Người cha ước mong, hi vọng người con phải biết: 

+ Yêu quý, tự hào với truyền thống đó của quê hương để tiếp tục sống tình nghĩa, thuỷ chung. 

+ Muốn con phải biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí của mình. 

- Cách nói đối lập tương phản “Người đồng mình thô sơ da thịt/ chẳng mấy ai nhỏ bé” → mộc mạc, giản dị nhưng giàu chí khí, niềm tin.

- “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ còn quê hương thì làm phong tục”

+ Nghĩa tả thực: “đục đá kê cao” → hành động có thực thường thấy ở miền núi. 

+ Nghĩa ẩn dụ: nói “đục đá kê cao quê hương” → muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn.

- Mong muốn con phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để vững bước trên đường đời. “Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con”

→ Câu thơ ngắn lại, có câu chỉ có hai tiếng → khắc sâu điều mà người cha muốn khuyên con: 

+ sống cho cao đẹp, không bao giờ được sống tầm thường, sống “nhỏ bé” trước thiên hạ

+ phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của “người đồng mình”.

+ con cần tự tin vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của quê hương yêu dấu. 

- Hai tiếng “nghe con” vang lên thiết tha → tấm lòng cha bao la.

D. Sơ đồ tư duy

Tác giả tác phẩm Nói với con – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 1)

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Nói với con

Phân tích bài thơ Nói với con hay nhất ( 3 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Nói với con

1. Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm:

- Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

- Ông nhập ngũ năm 1968, đến năm 1981 chuyển ngành về công tác tại Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng.

- Chủ tịch Hội Văn học nghệ Cao Bằng.

- Thơ Y Phương Văn đậm đà bản sắc dân tộc, phản ánh đời sống tinh thần phong phú của đồng bào vùng cao Việt Bắc

- Bài thơ ''Nói với con'' thể hiện tình yêu thương và ước nguyện tha thiết của các bậc cha mẹ, mong các con nối tiếp xứng đáng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.

2. Thân bài:

- Con lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống cần lao của quê hương:

+ Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là sâu sắc và vô hạn, thể hiện qua hình ảnh giản dị và cách diễn đạt mộc mạc:

''Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười"

+ Thiên nhiên đẹp đẽ, cuộc sống cần lao của con người quê hương góp phần tạo nên đời sống tinh thần phong phú cho con, nuôi dưỡng con nên vóc hình:

"Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát''

- Ước nguyện tha thiết của người cha đối với con:

+ Mong con chung thủy với quê hương, chấp nhận và vượt qua mọi gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin vững chắc:

''Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc''

+ Mong con sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc:

''Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương''

3. Kết bài:

- Bài thơ thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn nói với con.Đó chính là lòng tự hào với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời.

- Qua bài thơ ''nói với con'', người đọc rung động trước tình cảm cha con thắm thiết và tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.

Top 12 bài Phân tích bài thơ Nói với con hay nhất (ảnh 2)

 

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Nói với con – mẫu 1

Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả bài thơ Nói với con. Nhan đề bài thơ rất bình dị, lời thơ và chất thơ rất hồn nhiên. Hai mươi tám câu thơ tự do, câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu thơ dài nhất là mười chữ, phần nhiều là những câu thơ bốn chữ năm chữ; lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ, nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha, vì cách biểu cảm chân tình, mộc mạc.

Tràn ngập những vần thơ là tình thương con, là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở. Đứng chốt ở bốn trọng điểm, như những luyến láy, những điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt.Tôi đã sinh ra và lớn lên ở đôi bờ con sông Hương thơ mộng, thuở tấm bé đã được uống vào lòng những lời thiết tha, dịu ngọt: "bà con miềng", "chị em miềng", "anh em miềng"của má ta, của chị gái ta, của bè bạn ta. Rồi những năm dài chiến tranh trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi chợt nghe một tiếng ru buồn, dìu dịu cất lên từ một mái nhà gianh nơi xóm vắng xa lạ:… "Nàng về nuôi cái cùng con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng"… Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng "người đồng mình" đã vương vấn tâm hồn ta bao bâng khuâng man mác. Ta bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của má , nhớ về xứ Huế, và thật kì lạ, tôi bâng khuâng nghĩ về Cao Bằng, nơi "gạo trắng nước trong", nơi mà tôi chưa hề một lần đi tới. Thơ có hồn, có hay mới gợi nhớ gợi thương như thế. "Người đồng mình" đã kết tụ bao tình yêu thương, tự hào của Y Phương đối với "nước non Cao Bằng", nơi chôn rau cắt rốn nặng tình nặng nghĩa của mình. Hãy khẽ ngâm lên những vần thơ của anh:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.”

Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói. Lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Điệp ngữ "bước tới" và động từ "chạm" dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Sao không yêu?

Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.”

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Nói với con

Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có "bàn tay lái ra hoa". Một nhà thơ nọ, trước vẻ đẹp yêu kiều của cô văn công đã thốt lên: "mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em". Chữ "hoa", chữ "câu hát", chữ "tấm lòng" trong thơ Y Phương cũng rất ý vị. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken bằng "cầu hát". Rừng đâu chi cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho lâm sản quý giá mà còn "cho hoa". Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn "cho những tấm lòng" nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa:

“Gập ghềnh xuống biển lên non,

Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?”

(Ca dao)

Với Y Phương, con đường mà anh nói với con là hình bóng thân thuộc của quê hương. Đường gần là con đường làng bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối… Là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa, là đường đi tới mọi chân trời, đến mọi miền đất nước. Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương nói lên một cách hàm súc, giản dị: Con đường cho những tấm lòng. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về cội nguồn hạnh phúc:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”

"Người đồng mình" không chỉ cần cù và khéo léo, tình nghĩa và tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng "thương lắm con ơi". Trong bao gian khổ khó khăn thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải dài theo năm tháng, bà con quê hương mình, "người đồng mình" đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí, đã "cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn ", nâng cao tâm thế đẹp.

Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục ngữ. đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ: "cao đo", "xa nuôi" đã thể hiện một bàn tính sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam. Nếu người Kinh dùng lối nói: "ăn chắc mặc bền, chém to kho mặn, chân đất lưng trần, niêu cơm quả cà …", để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày như: "thô sơ da thịt" "chẳng mấy ai nhỏ bé", "tự đục đá kê cao quê hương" để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị chất phác thật thà, không hề "nhỏ bé" tầm thường trước thiên hạ.

Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng đáng yêu của Y Phương. Bản chất dân tộc, tinh thần nhân văn đã hòa quyện vào hồn thơ thi sĩ:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Cha "nói với con" cũng là khuyên con bài học đạo lí làm người. Quê hương sau những năm dài chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê hương: "Không chê… không chê… không lo…". Trước thử thách khó khăn, con không được sống tầm thường, sống hèn kém, sống "nhỏ bé". Phải lao động sáng tạo để xây dựng, để "kê cao" quê hương:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc…”

Nhuyễn vào lời thơ là những ẩn dụ so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ "sống" ba lần vang lên đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng…, điều mà cha "vẫn muốn", cha mong con, hi vọng ở con. Lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía. Lời cuối "nói với con" càng trở nên tha thiết. Cha nhắn con khi "lên đường'' không bao giờ được sống tầm thường, sống "nhỏ bé" trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của "người lao động". Hai tiếng "nghe con" là cả một tấm lòng cha bao la:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con. Y Phương là một người cha rất thương con. Anh là một người sống tình nghĩa và chung thủy với quê hương. Thơ anh rất hồn hậu và đậm đà.Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương anh có hang Pắc Bó, nơi mà hơn 60 năm về trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động giữa lòng dân để "nhóm lửa". Bạn đọc yêu quý gần xa có nhớ, có biết bài dân ca:

“Nàng về giã gạo ba giăng

Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm

Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…”

Theo tôi nghĩ bài thơ Nói với con của Y Phương là một gáo nước Cao Bằng đấy, có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Nói với con – mẫu 2

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, sinh và lớn lên ở vùng đất non cao, với tư duy mộc mạc, giản dị những vần thơ của ông cũng chân thành như chính tâm tư, tình cảm của con người nơi đây. Nhắc đến Y Phương là nhắc đến bài thơ Nói với con nổi tiếng về tình cảm gia đình thiêng liêng sâu nặng

Nói với con được Y Phương sáng tác khi đứa con đầu lòng của ông ra đời. Bởi vậy bài thơ chứa đựng niềm hạnh phúc dạt dào của một người lần đầu được làm cha. Không chỉ vậy, bài thơ còn cho thấy ý thức của người cha muốn vun đắp, muốn cho con hiểu rõ cội nguồn của bản thân và luôn tự hào về nơi mình sinh ra. Trước hết, bài thơ cho người con thấy nguồn cội mình được sinh ra chính là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của những người đồng mình.

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Bằng những hình ảnh hết sức cụ thể cùng với đó là việc lặp cấu trúc, phép liệt kê Y Phương đã tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt, hòa hợp trong một gia đình nhỏ đầy ắp hạnh phúc. Đồng thời bốn câu thơ xuất hiện nối tiếp qua các động từ “bước, chạm, tới” và cái đích đến của người con là hai chữ thật giản dị mẹ - cha. Điều giản dị ấy phải chăng bộc lộ ý nghĩa thật lớn lao và thiêng liêng: với mỗi người mẹ cha là đích đến, là nơi để ta tìm về, là nơi để ta bước tiếp, là chốn bình yên để ta nương tựa sau những giông bão cuộc đời. Không chỉ vậy còn còn được lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của bản làng thôn xóm: “Đan lờ cài nan hoa/.../Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Cách gọi thật dung dị, mộc mạc: “người đồng mình” thể hiện tình cảm thân thương, trìu mến của người dân tộc Tày. Đó là những người vùng mình, miền mình.

Chỉ với vẻn vẹn bảy câu thơ nhưng Y Phương đã cho người đọc thấy cuộc sống lao động cần cù, vui tươi của họ, họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống của mình trở nên vui tươi, vậy nên, trong nhà họ lúc nào cũng vang câu hát. Và thiên nhiên mơ mộng, đầy tình nghĩa đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn, lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất, chiếc nôi thứ hai nuôi con khôn lớn. Y Phương không chỉ cho con biết về cội nguồn mình được sinh ra mà còn dạy con để con biết, tự hào về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Còn quê hương thì con phong tục”.

Người đồng mình hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào. Họ giàu ý chí nghị lực, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, trắc trở, vất vả mà người đồng mình phải trải qua trong cuộc sống là rất nhiều, nhưng đó chỉ là thử thách để rèn rũa bản lĩnh của họ. Câu thơ cô đúc, có sức khái quát cao thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với cuộc sống của con người miền núi.

Dù cuộc sống có vô vàn những khó khăn, nhưng họ vẫn một lòng thủy chung với quê hương. Điệp từ “sống” lặp lại như lời căn dặn của cha về lẽ sống ở đời đồng thời gợi sức sống mãnh liệt của con người trước gian truân. Và người cha cũng mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với làng bản, quê hương. Đặc biệt hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời. Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí, nghị lực của mình. Cùng với đó là ý chí kiên cường tự lực xây dựng quê hương giàu đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể thô sơ, giản dị về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó làm hành trang để tự tin vững bước vào đời. 

Lời cha dặn dò vừa đầm ấm, vừa cương quyết, căn dặn con dù có vẻ ngoài thô sơ nhưng không được nhỏ bé về ý chí, nghị lực; không bao giờ được sống tầm thường. Lời động viên, căn dặn đó đã tiếp thêm sức mạnh để con tự tin để vững bước vào đời. Bằng ngôn ngữ mộc mạc, lối tư duy giản dị, nhưng lời thơ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc với người con. Những lời nói đó như một hành trang vững chắc để con vững bước vào đời. Không chỉ vậy, lời thơ còn mang ý nghĩa thầm kín không chỉ lời cha nói với con mà là lời trao gửi đến biết bao thế hệ.

Tài liệu có 6 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống