Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Nói với con hay nhất, gồm 12 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Nói với con Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Nói với con dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:
NÓI VỚI CON
Bài giảng: Nói với con
I. Tác giả
- Y Phương sinh năm 1948, tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Cao Bằng.
- Từ năm 1993, ông là chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương là gia đình, quê hương, đất nước.
- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, in đậm lối tư duy của người vùng cao; hình ảnh phong phú, mang giá trị biểu tượng…
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: thơ tự do
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được sáng tác năm 1980, 5 năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào miền núi nói riêng còn rất nhiều khó khăn, vất vả.
- Bài thơ được in trong tập “Thơ Việt Nam” (1945 - 1985).
3. Bố cục: 2 phần
- Đoạn 1: (Từ “Chân phải… trên đời”): người cha nói với con về tình cảm cội nguồn.
- Đoạn 2: (phần còn lại): Người cha nói về truyền thống quê hương và dặn dò con trên đường đời.
4. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
5. Giá trị nghệ thuật
- Giọng điệu trìu mến tha thiết, thể hiện qua lời tâm sự của cha với con, của thế hệ đi trước với thế hệ mai sau.
- Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng.
- Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm vang
- Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Hình ảnh em bé lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ
- Hình ảnh đứa trẻ tập đi được miêu tả giản dị, mộc mạc: Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ.
- Tiếng nói, tiếng cười: hình ảnh của một gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
⇒ tình yêu con của cha mẹ là vô hạn, chăm chút, dõi theo con từ những bước đi đầu đời.
2. Lời cha mẹ dạy con về những đức tính cần có trong cuộc sống
- Sống vui tươi, thân thiện, biết ơn:
+ Hồn nhiên, yêu đời, yêu lao động: cài nan hoa khi đan lờ bắt cá, luôn ca hát trong lao động.
+ Con người sống dựa vào tự nhiên, biết ơn tự nhiên: “Rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng”.
+ Con người không thể sống một mình: ngày cưới của cha mẹ là ngày “đầu tiên đẹp nhất trên đời” và kết tinh đẹp nhất chính là đứa con.
⇒ Giọng thơ xúc động, vui tươi, cha mẹ vừa nói với con vừa như nhớ lại những kỉ niệm của mình.
- Sống kiên cường, hiên ngang, không quản gian khó:
+ Mong con học được sự kiên cường của “người đồng mình”: vượt qua những nỗi đau để nuôi chí làm việc lớn.
+ Sống phải biết ơn những hi sinh của cha ông đời trước đã xây dựng quê hương, không chê quê hương nguồn cội, không quản gian khó: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.
+ Cha mẹ mong con có đủ sức mạnh thể chất và tinh thần như “người đồng mình”: “thô sơ da thịt”, “chẳng mấy ai nhỏ bé”; có thể “Lên thác xuống ghềnh”, “Không lo cực nhọc”.
- Sống có ích, xây dựng quê hương và luôn ghi nhớ truyền thống, nguồn cội: “tự đục đá kê cao quê hương”, “quê hương thì làm phong tục” đó là mối quan hệ mật thiết giữa con người với quê hương đất nước. Con người xây dựng nên quê hương, tạo ra phong tục tập quán rồi chính quê hương là nơi lưu giữ những phong tục ấy.
⇒ Cha mẹ mong đứa con hãy “Sống như sông như suối”, luôn trôi chảy, luôn phát triển, nhưng những giá trị quan trọng của dân tộc thì không thể quên.
3. Lời dặn dò con về bản lĩnh làm người khi ra cuộc đời
- Lời dặn dò cuối cùng cha mẹ muốn nói với đứa con: “tuy thô sơ da thịt” nhưng khi rời khỏi gia đình, tự lập trong cuộc sống thì “không bao giờ nhỏ bé được”. Con người không phải máy móc, chỉ là da thịt “thô sơ” có thể chịu tổn thương, có thể ốm đau bệnh tật, mệt mỏi, nhưng phải cố gắng sống hiên ngang, không “nhỏ bé” khuất phục cái xấu, cái bất công, không “nhỏ bé” chấp nhận chịu sống cúi đầu, như ông cha ta ngàn đời nay.
- “Nghe con”: câu thơ cuối như tiếng lòng của cha mẹ, đầy yêu thương, hi vọng, lo lắng, mong con sẽ trưởng thành một người sống hạnh phúc, tự do, sống có ích.
IV. Bài phân tích
Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của mẹ cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm hay đó là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên. Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, hòa cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, thật độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ “Nói với con” (1980).
Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương với con, nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta. Mở đầu bài thơ là khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói cười. Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm ấm, yên vui của tình cảm gia đình, tình cảm quê hương:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình “chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười”, nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ. Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.
Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Cha mẹ đã dìu dắt, nâng đỡ con từ những bước đi đầu tiên, đã tìm thấy niềm vui từ con. Hơn thế nữa, con còn được sinh ra, lớn lên trong tình yêu thương, vẻ đẹp của “đồng mình”. “Người đồng mình” yêu lắm con ơi! Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình” tươi vui, mà rất ngọt ngào. Dáng vẻ tuy thô sơ, công việc tuy nặng nhọc (đan lờ, ken vách) nhưng tâm hồn “người đồng mình” lãng mạn biết bao nhiêu: Họ làm một cách nghệ thuật những công việc của mình (cài nan hoa, câu hát). Con thật hạnh phúc vì con được sống giữa những con người như vậy - những con người khéo tay, yêu thiên nhiên, yêu lao động.
Người đồng mình là cách mà nhà thơ Y Phương nói về những người đồng bào của ông. Họ sống nơi vùng núi Cao Bằng, cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Hai câu thơ “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát” đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống của những người dân nơi đây. Đan, cài, ken là những động từ chỉ hành động, chỉ những công việc hàng ngày mà người đồng mình vẫn làm cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi. Thế nhưng nếu xét về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, đan, cài, ken còn được hiểu là sự gắn kết. Có thể thấy, nhà thơ đã vận dụng ngôn ngữ tiếng Việt một cách tài tình để nói lên sự gắn kết của những con người miền núi với nhau. Tuy cuộc sống khốn khó nhưng họ vẫn tìm thấy niềm vui. Họ đem câu hát để lấp đầy những chỗ còn hở ở vách nhà. Sự tình nghĩa của con người tỏa lan ra cảnh vật khiến cho khung cảnh như cũng có hồn hơn, có tình hơn. Đó là lý do vì sao mà rừng thì cho hoa, con đường lại cho những tấm lòng. Từ trong tình yêu thương ấy, cha mẹ cũng đã đến với nhau. Núi rừng, con đường chứng kiến ngày vui hạnh phúc của họ. Đó là ngày hạnh phúc nhất và đó cũng là ngày mà hạt giống tình yêu được kết tinh.
Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới “rừng núi” và những “con đường” của “người đồng mình”:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả “hoa”. “Hoa” là sản phẩm của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn “con đường” là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những “người đồng mình”. Những “con đường” ấy được tạo nên bởi những “tấm lòng” nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây. Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dữơng con người cả về tâm hồn, lối sống. Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của “ngày cưới”:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời.
Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống của quê hương mình. Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng mình thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. Thương là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, người đồng mình – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của “người đồng mình”. Nghệ thuật đối lập tương phản: “cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, tác giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của người đồng mình. Nỗi buồn – chí lớn là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. Người đồng mình buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng người đồng mình không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diện với những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn minh. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao. Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: đá gập ghềnh, thung nghèo đói, lên thác xuống ghềnh có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ sống ... không chê (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh như sông như suối có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về người đồng mình với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.
Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh thô sơ da thịt diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của người đồng mình. Nhưng họ không hề nhỏ bé về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, người đồng mình phải lao động:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ đục đá thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh kê cao quê hương còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của người đồng mình. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc. Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào, sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha về quê hương. Nó như trở thành một hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương. Và lời nhắc nhở của người cha với con chính là một nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Ko bao giờ được nhỏ bé
Nghe con.
Hình ảnh thô sơ da thịt được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với người đồng mình, không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của người đồng mình. Hai tiếng nghe con ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng điệu thiết tha, trìu mến, chân tình và rất mới lạ trong phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. “Nói với con” được viết bằng thể thơ tự do bay bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Lời nhắn nhủ ân cần của người cha với con mình cũng là nhắn nhủ mà người cha nào cũng muốn con mình mang theo như một hành trang trong cuộc đời. Qua đó ta phải biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời cũng cần phải biết yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời.
V. Một số lời bình về tác phẩm
Một số bài thơ cùng chủ đề:
1.
DẶN CON
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn.
Nhà mình sát đường, họ đến
Có cho thì có là bao
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương của họ nơi nào.
Con chó nhà mình rất như
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán.
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này…
(Trần Nhuận Minh, Nhà thơ và hoa cỏ, NXB Văn học, Hà Nội)
2.
TRẮNG TRONG
Đôi làn môi con
ngậm đầu vú mẹ
như cây lúa bé
nở từ phù sa
Như hương như hoa
sả theo ngọn gió.
Đôi làn môi con
ngậm đầu vú mẹ
Như búp hoa huệ
ngậm tia nắng trời.
Sữa mẹ trắng trong
con ơi hãy uống
Rồi mai khôn lớn
con ơi hãy nghĩ
những điều trắng trong.
(Lâm Thị Vĩ Dạ, Thơ hay về mẹ, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2002)
1. Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm:
- Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, nhà thơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Ông nhập ngũ năm 1968, đến năm 1981 chuyển ngành về công tác tại Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng.
- Chủ tịch Hội Văn học nghệ Cao Bằng.
- Thơ Y Phương Văn đậm đà bản sắc dân tộc, phản ánh đời sống tinh thần phong phú của đồng bào vùng cao Việt Bắc
- Bài thơ ''Nói với con'' thể hiện tình yêu thương và ước nguyện tha thiết của các bậc cha mẹ, mong các con nối tiếp xứng đáng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.
2. Thân bài:
- Con lớn lên trong tình yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống cần lao của quê hương:
+ Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là sâu sắc và vô hạn, thể hiện qua hình ảnh giản dị và cách diễn đạt mộc mạc:
''Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
+ Thiên nhiên đẹp đẽ, cuộc sống cần lao của con người quê hương góp phần tạo nên đời sống tinh thần phong phú cho con, nuôi dưỡng con nên vóc hình:
"Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát''
- Ước nguyện tha thiết của người cha đối với con:
+ Mong con chung thủy với quê hương, chấp nhận và vượt qua mọi gian nan, thử thách bằng ý chí và niềm tin vững chắc:
''Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc''
+ Mong con sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
''Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương''
3. Kết bài:
- Bài thơ thể hiện được điều tâm huyết nhất mà người cha muốn nói với con.Đó chính là lòng tự hào với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời.
- Qua bài thơ ''nói với con'', người đọc rung động trước tình cảm cha con thắm thiết và tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.
Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả bài thơ Nói với con. Nhan đề bài thơ rất bình dị, lời thơ và chất thơ rất hồn nhiên. Hai mươi tám câu thơ tự do, câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu thơ dài nhất là mười chữ, phần nhiều là những câu thơ bốn chữ năm chữ; lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ, nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha, vì cách biểu cảm chân tình, mộc mạc.
Tràn ngập những vần thơ là tình thương con, là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở. Đứng chốt ở bốn trọng điểm, như những luyến láy, những điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt.Tôi đã sinh ra và lớn lên ở đôi bờ con sông Hương thơ mộng, thuở tấm bé đã được uống vào lòng những lời thiết tha, dịu ngọt: "bà con miềng", "chị em miềng", "anh em miềng"của má ta, của chị gái ta, của bè bạn ta. Rồi những năm dài chiến tranh trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi chợt nghe một tiếng ru buồn, dìu dịu cất lên từ một mái nhà gianh nơi xóm vắng xa lạ:… "Nàng về nuôi cái cùng con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng"… Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng "người đồng mình" đã vương vấn tâm hồn ta bao bâng khuâng man mác. Ta bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của má , nhớ về xứ Huế, và thật kì lạ, tôi bâng khuâng nghĩ về Cao Bằng, nơi "gạo trắng nước trong", nơi mà tôi chưa hề một lần đi tới. Thơ có hồn, có hay mới gợi nhớ gợi thương như thế. "Người đồng mình" đã kết tụ bao tình yêu thương, tự hào của Y Phương đối với "nước non Cao Bằng", nơi chôn rau cắt rốn nặng tình nặng nghĩa của mình. Hãy khẽ ngâm lên những vần thơ của anh:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói. Lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Điệp ngữ "bước tới" và động từ "chạm" dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Sao không yêu?
Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có "bàn tay lái ra hoa". Một nhà thơ nọ, trước vẻ đẹp yêu kiều của cô văn công đã thốt lên: "mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em". Chữ "hoa", chữ "câu hát", chữ "tấm lòng" trong thơ Y Phương cũng rất ý vị. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken bằng "cầu hát". Rừng đâu chi cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho lâm sản quý giá mà còn "cho hoa". Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn "cho những tấm lòng" nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa:
“Gập ghềnh xuống biển lên non,
Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?”
(Ca dao)
Với Y Phương, con đường mà anh nói với con là hình bóng thân thuộc của quê hương. Đường gần là con đường làng bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối… Là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa, là đường đi tới mọi chân trời, đến mọi miền đất nước. Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương nói lên một cách hàm súc, giản dị: Con đường cho những tấm lòng. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về cội nguồn hạnh phúc:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
"Người đồng mình" không chỉ cần cù và khéo léo, tình nghĩa và tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng "thương lắm con ơi". Trong bao gian khổ khó khăn thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải dài theo năm tháng, bà con quê hương mình, "người đồng mình" đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí, đã "cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn ", nâng cao tâm thế đẹp.
Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục ngữ. đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ: "cao đo", "xa nuôi" đã thể hiện một bàn tính sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam. Nếu người Kinh dùng lối nói: "ăn chắc mặc bền, chém to kho mặn, chân đất lưng trần, niêu cơm quả cà …", để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày như: "thô sơ da thịt" "chẳng mấy ai nhỏ bé", "tự đục đá kê cao quê hương" để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị chất phác thật thà, không hề "nhỏ bé" tầm thường trước thiên hạ.
Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng đáng yêu của Y Phương. Bản chất dân tộc, tinh thần nhân văn đã hòa quyện vào hồn thơ thi sĩ:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
Cha "nói với con" cũng là khuyên con bài học đạo lí làm người. Quê hương sau những năm dài chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê hương: "Không chê… không chê… không lo…". Trước thử thách khó khăn, con không được sống tầm thường, sống hèn kém, sống "nhỏ bé". Phải lao động sáng tạo để xây dựng, để "kê cao" quê hương:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…”
Nhuyễn vào lời thơ là những ẩn dụ so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ "sống" ba lần vang lên đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng…, điều mà cha "vẫn muốn", cha mong con, hi vọng ở con. Lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía. Lời cuối "nói với con" càng trở nên tha thiết. Cha nhắn con khi "lên đường'' không bao giờ được sống tầm thường, sống "nhỏ bé" trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của "người lao động". Hai tiếng "nghe con" là cả một tấm lòng cha bao la:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con. Y Phương là một người cha rất thương con. Anh là một người sống tình nghĩa và chung thủy với quê hương. Thơ anh rất hồn hậu và đậm đà.Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương anh có hang Pắc Bó, nơi mà hơn 60 năm về trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động giữa lòng dân để "nhóm lửa". Bạn đọc yêu quý gần xa có nhớ, có biết bài dân ca:
“Nàng về giã gạo ba giăng
Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm
Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…”
Theo tôi nghĩ bài thơ Nói với con của Y Phương là một gáo nước Cao Bằng đấy, có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.
Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, sinh và lớn lên ở vùng đất non cao, với tư duy mộc mạc, giản dị những vần thơ của ông cũng chân thành như chính tâm tư, tình cảm của con người nơi đây. Nhắc đến Y Phương là nhắc đến bài thơ Nói với con nổi tiếng về tình cảm gia đình thiêng liêng sâu nặng
Nói với con được Y Phương sáng tác khi đứa con đầu lòng của ông ra đời. Bởi vậy bài thơ chứa đựng niềm hạnh phúc dạt dào của một người lần đầu được làm cha. Không chỉ vậy, bài thơ còn cho thấy ý thức của người cha muốn vun đắp, muốn cho con hiểu rõ cội nguồn của bản thân và luôn tự hào về nơi mình sinh ra. Trước hết, bài thơ cho người con thấy nguồn cội mình được sinh ra chính là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của những người đồng mình.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bằng những hình ảnh hết sức cụ thể cùng với đó là việc lặp cấu trúc, phép liệt kê Y Phương đã tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt, hòa hợp trong một gia đình nhỏ đầy ắp hạnh phúc. Đồng thời bốn câu thơ xuất hiện nối tiếp qua các động từ “bước, chạm, tới” và cái đích đến của người con là hai chữ thật giản dị mẹ - cha. Điều giản dị ấy phải chăng bộc lộ ý nghĩa thật lớn lao và thiêng liêng: với mỗi người mẹ cha là đích đến, là nơi để ta tìm về, là nơi để ta bước tiếp, là chốn bình yên để ta nương tựa sau những giông bão cuộc đời. Không chỉ vậy còn còn được lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của bản làng thôn xóm: “Đan lờ cài nan hoa/.../Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Cách gọi thật dung dị, mộc mạc: “người đồng mình” thể hiện tình cảm thân thương, trìu mến của người dân tộc Tày. Đó là những người vùng mình, miền mình.
Chỉ với vẻn vẹn bảy câu thơ nhưng Y Phương đã cho người đọc thấy cuộc sống lao động cần cù, vui tươi của họ, họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống của mình trở nên vui tươi, vậy nên, trong nhà họ lúc nào cũng vang câu hát. Và thiên nhiên mơ mộng, đầy tình nghĩa đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn, lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất, chiếc nôi thứ hai nuôi con khôn lớn. Y Phương không chỉ cho con biết về cội nguồn mình được sinh ra mà còn dạy con để con biết, tự hào về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
…
Còn quê hương thì con phong tục”.
Người đồng mình hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào. Họ giàu ý chí nghị lực, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, trắc trở, vất vả mà người đồng mình phải trải qua trong cuộc sống là rất nhiều, nhưng đó chỉ là thử thách để rèn rũa bản lĩnh của họ. Câu thơ cô đúc, có sức khái quát cao thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với cuộc sống của con người miền núi.
Dù cuộc sống có vô vàn những khó khăn, nhưng họ vẫn một lòng thủy chung với quê hương. Điệp từ “sống” lặp lại như lời căn dặn của cha về lẽ sống ở đời đồng thời gợi sức sống mãnh liệt của con người trước gian truân. Và người cha cũng mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với làng bản, quê hương. Đặc biệt hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời. Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí, nghị lực của mình. Cùng với đó là ý chí kiên cường tự lực xây dựng quê hương giàu đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể thô sơ, giản dị về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó làm hành trang để tự tin vững bước vào đời.
Lời cha dặn dò vừa đầm ấm, vừa cương quyết, căn dặn con dù có vẻ ngoài thô sơ nhưng không được nhỏ bé về ý chí, nghị lực; không bao giờ được sống tầm thường. Lời động viên, căn dặn đó đã tiếp thêm sức mạnh để con tự tin để vững bước vào đời. Bằng ngôn ngữ mộc mạc, lối tư duy giản dị, nhưng lời thơ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc với người con. Những lời nói đó như một hành trang vững chắc để con vững bước vào đời. Không chỉ vậy, lời thơ còn mang ý nghĩa thầm kín không chỉ lời cha nói với con mà là lời trao gửi đến biết bao thế hệ.