Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất, gồm 14 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 9 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Bài giảng: Thúy Kiều báo ân báo oán
Thúy Kiều báo ân báo oán là một đoạn trích hay và có vị trí quan trọng trong tác phẩm kinh điển Truyện Kiều, bộc lộ một cách sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn cao thượng, tấm lòng vị tha nhân hậu và sống ân tình thủy chung của Thúy Kiều. Bên cạnh đó còn thể hiện khát khao về một xã hội công bằng, công lý được thực thi từ chính bàn tay của những con người chịu nhiều đau thương. Ở đoạn trích này ngoài việc khắc họa một cách sâu sắc tính cách của Thúy Kiều, thì nhân vật Hoạn Thư cũng được Nguyễn Du dành khá nhiều câu từ để phác họa, người phụ nữ đã để cho Thúy Kiều khốn khổ với những ngày tháng tỳ nữ tên "Hoa Nô" trong cửa nhà quan.
Trong quãng đời lưu lạc 15 năm của mình thì có lẽ Thúc Sinh là đấng nam nhi duy nhất mà nàng gặp có một phong thái đời thường nhất, chàng không hề được Nguyễn Du tô vẽ quá nhiều như Kim Trọng, Từ Hải và một số nhân vật khác trong tác phẩm. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ duyên nợ với Thúy Kiều cũng bởi Thúc Sinh tuy là một thư sinh nhưng cũng lại là một vị khách phong lưu nổi tiếng, đã mến mộ danh tiếng tuyệt sắc, tài năng của Thúy Kiều bấy lâu. Sau vài lần gặp gỡ Thúc Sinh đã có ý muốn đón Thúy Kiều về làm vợ, tuy nhiên gặp phải sự phản đối của gia đình, Thúc ông đã kiện Thúy Kiều lên quan, khiến nàng phải chịu tra hình. Tuy nhiên may mắn vị quan kia cũng là người nhân từ, thấy đôi uyên ương số khổ nên đã cho Kiều làm một bài thơ tỏ rõ nỗi lòng, sau khi nghe thơ Thúy Kiều thì vị quan này đã khiến Thúc ông nên chấp nhận nàng, lại cho sính lễ để rước Kiều về. Thúc ông cũng đã hiểu được tiết hạnh, tài sắc của Kiều nên cũng đành chấp nhận cho nàng vào cửa, vợ chồng Thúc Sinh - Thúy Kiều chung sống hạnh phúc êm đềm với nhau được một năm tròn. Nhưng với thân phận thiếp thất, lại có tấm lòng thông cảm với vợ cả của chồng là Hoạn Thư, người vợ chính đã vào cửa lâu nhưng chưa có nổi mụn con, nên Kiều đã khuyên chồng mình về thăm. Thúc Sinh nghe lời Kiều cũng sắp sửa lên đường về thăm Hoạn Thư, từ đây cuộc đời Kiều lại bước vào nỗi đau khổ khác, Hoạn Thư là người đàn bà lắm mưu mô chước quỷ, lợi dụng lúc Thúc Sinh đi đường đã cho người đốt nhà Thúy Kiều, rồi chuốc thuốc mê bắt nàng về phủ họ Hoạn, bắt nàng làm thị tỳ hầu hạ, dưới cái tên Hoa Nô, đồng thời hành hạ, đánh đập nàng đủ đường. Còn về phía gia đình Thúc Sinh những tưởng Thúy Kiều đã chết sau trận hỏa hoạn, thế nên chàng Thúc đành quay về nhà vợ cả, ở đây gặp lại Thúy Kiều dưới thân phận tỳ nữ, chàng đã hết sức ngỡ ngàng. Hoạn Thư vốn là người cay nghiệt, bắt Thúy Kiều phải hầu hạ hai vợ chồng, đánh đàn, quạt mát, dọn cơm,... Thúy Kiều nhục nhã không nói nên lời, cứ khóc mãi. Thúc Sinh nén đau đớn bảo Hoạn Thư cho Thúy Kiều viết một tờ khai kể rõ ngọn nguồn. Kiều kể về cuộc đời mình, rồi xin được vào chùa đi tu, cuối cùng Hoạn Thư chấp nhận để Kiều đến gác Quan m sau nhà mình chép kinh thư. Như vậy có thể nói rằng trước mặt Thúc Sinh, Hoạn Thư vẫn sắm vai một người phụ nữ đoan trang, nhưng sau lưng lại ngấm ngầm tìm cách chia rẽ mối duyên một cách khéo, khiến cho Thúy Kiều phải tự nguyện ra mà Thúc Sinh không thể nói lời nào.
Lại kể rằng khi chép kinh ở gác Quan m, thì Kiều đã lén trốn đi, rồi không may một lần nữa nàng lại bị lừa bán vào lầu xanh lần hai, ở đây nàng gặp được Từ Hải, bậc anh hùng cái thế, hai người mau chóng phải lòng nhau. Từ Hải chuộc Kiều về nhà riêng, cả hai chung sống hạnh phúc được nửa năm, thì Từ Hải lại đi chính chiến sa trường, sau khi chiến thắng trở về, Từ Hải đã đem sính lễ và cưới nàng làm chính thất. Trong lúc đương vui thì Kiều nhớ những năm tháng hàn vi, nảy ý muốn trả ân báo oán. Hoạn Thư là một trong những nhân vật được Kiều nhắm đến để báo oán.
Ở trong trích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán, Thúy Kiều sau khi trả nghĩa cho Thúc Sinh xong xuôi, thì cho người giải Hoạn Thư vào diện kiến. Kiều lúc này ở trên bậc cao công đường, cao cao tại thượng, cũng nóng lòng muốn gặp lại kẻ khi xưa đã gây ra cho nàng biết bao đau khổ, thế nên vừa thấy bóng Hoạn Thư nàng đã lập tức buông lời mỉa mai châm chích "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây", cùng với những lời đay nghiến khiến đối phương không khỏi giật mình nhìn lại nàng Kiều giờ đây đã khác khi xưa, trở nên mạnh mẽ, quyền thế, chứ không phải một thiếp thất tùy người chà đạp. Đặc biệt là ở câu nói "Càng oan nghiệt lắm càng ngang trái nhiều" đã nhấn mạnh sự trả thù của Kiều, cùng với biết bao đớn đau uất ức trong trái tim nàng. Hoạn Thư, khi gặp lại Thúy Kiều, thì lòng không khỏi sợ hãi, người phụ nữ khi xưa cũng được xem là có quyền thế, nhà cửa gia nhân tấp nập, phong thái tiểu thư cao quý, lại có một bụng dạ sâu cay, nay gặp cảnh này cũng trở nên hoảng hốt "hồn lạc phách xiêu". Còn đâu phong thái ghê gớm, mạt sát và những đòn ghen cay nghiệt "nhẹ như bấc, nặng như chì" khi xưa, chỉ thấy Hoạn Thư nhát gan, vội vàng thức thời "khấu đầu dưới trướng" mà lòng thì lo "liệu điều kêu ca". Chỉ với bấy nhiêu biểu hiện ta cũng có thể nhận thấy rằng Hoạn Thư là một người phụ nữ rất thông minh, gặp nguy dẫu sợ nhưng đầu óc đã nhanh chóng tính kế xoay chuyển, tìm đường thoát thân. Ngay từ câu "Tôi chút phận đàn bà/Ghen tuông thì cũng là chuyện người ta thường tình", đã có thể thấy Hoạn Thư là người mồm mép nhanh nhạy, giỏi lươn lẹo ứng biến, lấy cái lý lẽ thường tình trong cuộc đời để lấp liếm cho những chuyện ác mà bản thân mình làm ra. Rồi lại nghe nàng ta nhắc về chuyện "Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo" , hoàn toàn bỏ qua chuyện nàng ta từng cho người bắt cóc Thúy Kiều, ép nàng thị tỳ, lại đánh đập không thương tiếc, sau còn tìm cách làm nhục nàng trước mặt Thúc Sinh, ngấm ngầm phá hoại tình cảm của của Thúc Sinh - Thúy Kiều. Mà chỉ nhắc về cái trò đạo đức giả trước mặt Thúc Sinh là cho Kiều đi tu, lại để cho nàng chạy trốn, nhưng ngẫm lại, một người đang có cuộc sống êm đềm lại ép đến mức người ta phải đi tu để trốn chạy những đòn ghen hiểm độc. Thêm vào nữa chuyện Thúy Kiều chạy trốn khỏi gác Quan m có lẽ cũng có sự tình gì trong đây, phải chăng vì Thúc Sinh vẫn ngày đêm mong nhớ, thế nên Hoạn Thư mới giở thủ đoạn khiến Kiều không thể chịu đựng được nữa mà chọn cách trốn đi biệt tích. Qua bấy nhiêu chuyện ta có thể thấy rằng, cách ghen của Hoạn Thư cũng rất mực thông minh và không kém phần cay nghiệt, khiến cho Thúy Kiều không chỉ đớn đau về thể xác mà cả tâm hồn cũng phải chịu những giày vò khủng khiếp. Nào có người phụ nữ nào chịu được cảnh chồng mình ân ái với người phụ nữ khác, còn bản thân phải cam chịu làm tỳ nữ hầu hạ, không thể ngẩng đầu, trái lại đớn đau hơn là Thúc Sinh giờ đây cũng lộ ra vẻ nhu nhược, hèn nhát trước mặt vợ cả, không dám đứng lên bảo vệ nàng. Từ đó trái tim vốn ham sống, yêu đời của Kiều mới được cứu về hơn năm trước vì sự trân trọng yêu thương hết mực của chàng Thúc nay lại như tro tàn.
Sự thông minh và giảo hoạt của Hoạn Thư còn thể hiện ở nghệ thuật nắm bắt tâm lý con người, rõ ràng rằng nàng ta nắm thóp được Thúy Kiều bên ngoài mạnh mẽ thế thôi nhưng sâu thẳm trong nàng vẫn là một trái tim yếu đuối và trong sáng, dễ cảm thông. Thế nên khi Hoạn Thư nhắc "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", đã khơi gợi nên trong lòng Kiều sự thông cảm cho thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, Hoạn Thư cũng như mình, phận đàn bà lại chung chồng, hẳn chuyện ghen tuông là không thể tránh khỏi. Bởi chính bản thân Kiều cũng nếm trải nỗi đau chung chồng dưới thân phận thiếp thất, những đắng cay ấy nàng lại là người hiểu rõ hơn bao giờ hết, từ đó việc thông cảm cho Hoạn Thư là điều tất yếu. Không chỉ vậy việc Hoạn Thư khéo léo nhắc việc "chung chồng" tức cũng ngầm ám chỉ rằng chuyện khi xưa một phần lỗi cũng là tại do Thúy Kiều, đang không lại trở thành người chen ngang hạnh phúc gia đình của Hoạn Thư khiến nàng ta phải chịu sự ghẻ lạnh của chồng suốt một quãng thời gian. Chuyện này đối với Thúy Kiều cũng là một sự đả kích, khơi gợi lên trong lòng nàng sự day dứt, áy náy với Hoạn Thư. Không chỉ vậy việc Hoạn Thư lần lượt đưa ra những lý lẽ từ việc ghen tuông là lẽ thường tình, đến ơn nghĩa với Kiều, rồi đến nỗi khổ chung chồng đã đưa Kiều vào thế khó xử "Tha ra thì cũng may đời/Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Có thể nhận định rằng Hoạn Thư biết chắc rằng với tấm lòng lương thiện và lối sống cao cả cũng như sự đồng cảm của mình Thúy Kiều sẽ xá tội cho nên nàng ta mới lươn lẹo, lý lắc như thế. Và cuối cùng nhờ đầu óc nhanh, khả năng ứng biến và sự khéo léo của mình quả thật Hoạn Thư đã thoát khỏi sự báo oán của Thúy Kiều.
Tóm lại qua tác phẩm Truyện Kiều Hoạn Thư hiện lên là một nhân vật cay nghiệt, lắm mưu mô chước quỷ khiến Thúy Kiều nhiều lần phải chịu thiệt thòi, đau khổ, khiến nàng phải chấp nhận dứt duyên với Kim Trọng, rồi lần nữa rơi vào lầu xanh. Thế nhưng nói đi cũng phải nói lại, Hoạn Thư cũng là một nhân vật đáng thương điển hình trong chế độ phong kiến xưa. Dù thông minh, sắc sảo có thừa, gia thế tốt đẹp nhưng lại có một người chồng nhu nhược, lại phong lưu, khiến nàng ta nhiều lần gánh nỗi khổ ghen tuông, sau là nỗi đau chung chồng, bị lạnh bạc biết bao ngày tháng. Ở trong trích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán thì sự thông minh, lươn lẹo, giỏi ứng biến của Hoạn Thư lại là cái làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều, bộc lộ sự nhân hậu, tấm lòng vị tha, lối sống cao thượng, sẵn sàng từ bỏ những ân oán khi xưa để bắt đầu một cuộc sống mới của nhân vật Thúy Kiều.
1. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược tác giả, đoạn trích
- Giới thiệu khái quát nhân vật Hoạn Thư: Nguyễn Du đã phác họa rất thành công bộ mặt khôn ngoan, lời nói giảo hoạt của Hoạn Thư trong đoạn trích này.
2. Thân bài:
Phân tích nhân vật Hoạn Thư qua từng lần xuất hiện và hình tượng nhân vật được tạo dựng
* Luận điểm 1: Hoạn Thư là một người nham hiểm, lắm mưu nhiều kế
- Hoạn Thư hiện lên trước hết là một con người khôn ngoan, giảo hoạt:
+ Trước lời nói và thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “hồn lạc, phách xiêu”.
+ Giây lát sau Hoạn Thư đã kịp trấn tĩnh và “liệu điều kêu ca”.
- Lời “kêu ca” của Hoạn Thư (thực chất là cách lí giải để gỡ tội) càng bộc lộ rõ tính cách khôn ngoan giảo hoạt.
* Luận điểm 2: Hoạn Thư là một người thông minh, lanh lợi và mưu trí
- Hoạn Thư nhanh trí kể lại “thịnh tình” của mình đã cho Kiều ra viết kinh ở Quan Âm Các và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn.
- Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều: “Còn nhờ lượng bế thương bài nào chăng”.
- Qua cách lí giải để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến mức “quỷ quái tinh ma”.
* Luận điểm 3: Hoạn Thư cũng là nạn nhân của chế độ phong kiến thối nát.
- Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội “Rằng tôi chút phận đàn bà - Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”.
- Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Hoạn Thư từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”.
- Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.
3. Kết bài
- Ý nghĩa việc xây dựng hình tượng nhân vật Hoạn Thư: Qua nhân vật Hoạn Thư, ta thấy tác giả Nguyễn Du đã thể hiện sự đồng cảm và nhân đạo đối với nhân vật này.
Các bài mẫu khác:
Trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", đại thi hào Nguyễn Du không chỉ xây dựng thành nhân vật Thúy Kiều, con người có ơn, thù rạch ròi phân minh mà nhân vật phản diện là Hoạn Thư cũng được miêu tả một cách chân thực, đầy sống động.Hoạn Thư vốn là tiểu thư con nhà Thượng Thư, vốn là "cành vàng lá ngọc", được nuông chiều từ bé nên vốn hống hách, coi thường người khác. Nàng ta lại là "chính thê" của Thúc Sinh nên khi Thúc Sinh chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và muốn lập làm thiếp thì bản tính tàn độc, hung hãn của Hoạn thư được đẩy lên cao độ.Chính những hành động ghen tuông mù quáng của Hoạn Thư đã chà đạp, hành hạ Thúy Kiều cả về thể xác lẫn tinh thần, mang đến cho Kiều bao nhiêu đau khổ, nhục nhã, ê chề.Vốn là người sắc sảo, khôn ngoan nên khi bị Thúy Kiều bắt đến trong "phiên tòa" xử tội thì Hoạn Thư vẫn dễ dàng dùng những lời lẽ của mình để thoát tội. Bộc lộ một con người vô cùng tỉnh táo, khôn ngoan, biết "đánh" vào tâm lí của người khác.Diễn biến tâm lí của Hoạn Thư cũng được Nguyễn Du miêu tả thật sống động, độc đáo:
"Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu trước trướng,liệu điều kêu ca"
Khi bị Thúy Kiều cho người bắt đến phiên tòa xử tội, Hoạn Thư biết được tình thế của mình nên "hồn lạc phách xiêu". Dường như nàng ta cũng biết với những đau khổ mình mang đến cho Thúy Kiều thì hôm nay kết cục của mình cũng sẽ không thể sáng sủa hơn. Hoạn Thư đã ra sức "khấu đầu", "kêu ca" để mong ngóng sự thương cảm của của Thúy Kiều, đồng thời cũng cố gắng cứu mình.Như vậy, chỉ với hai câu thơ thôi nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự khôn khéo của Hoạn Thư, không chỉ biết người, biết ta, biết tình thế mình đang gặp phải, nàng ta vứt bỏ cái tôn nghiêm của một "đại phu nhân", hạ mình lạy lục trước người mình coi thường, chà đạp.Trước lời định tội đanh thép của Thúy Kiều dành cho mình " Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư" rồi " càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều", Hoạn Thư như biết trước kết cục mà mình sẽ phải trải qua. Trong tình thế ấy,không mấy người tỉnh táo mà xử lí được như Hoạn Thư:
"Rằng: "Tôi chút phận đàn bà"
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"
Hoạn Thư dù trong lòng sôi như lửa đốt nhưng ngoài mặt vẫn cố tỏ ra bình tĩnh mà dùng lời lẽ để thuyết phục Thúy Kiều.Chỉ cần nhìn vào thái độ bình thản ấy thôi ta cũng thấy được bản lĩnh ghê gớm của người đàn bà ấy.Hoạn Thư đã nhận mình "Chút phận đàn bà". Do đó, dù có ghen tuông thì cũng là sự "thường tình". Biết bao tội lỗi đã làm với Thúy Kiều nhưng chỉ một câu nói, Hoạn Thư như rũ bỏ được mọi tội danh, rằng đó là bản tính chung của đàn bà. Như thế, Hoạn Thư đã đưa mình vào cùng một "thế giới" với Thúy Kiều, trông chờ sự cảm thông, làm cho mức độ tội ác giảm xuống đáng kể.Khi đã đánh động được vào tâm lí của Thúy Kiều, Hoạn Thư đã tiếp tục dùng sự khôn khéo, lọc lõi của mình để Thúy Kiềukhông chỉ cảm thông mà còn phải mang ơn với mình:
"Nghĩ cho khi các viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu"
Hoạn Thư đã kể nể về công ơn khi xưa đã cho Thúy Kiều ra Quan Âm các chép kinh, đưa Thúy Kiều từ chỗ Hoạn Bà về.Nghĩa là cuộc sống nơi quan âm các không khắc nghiệt như khi ở với Hoạn Bà.Nhân đây, Hoạn Thư gợi lại cho Thúy Kiều để trông ngóng sự trắc ẩn của nàng. Hơn nữa, khi Thúy Kiều mang theo đồ đạc nhà Hoạn Thư trốn đi thì Hoạn Thư đã không cho người đuổi theo, hay bắt về bởi sự "kính yêu" thầm kín mà Hoạn Thư dành cho Kiều.Ở đây, nói Hoạn Thư "khoa ngôn xảo trá" cũng không hoàn toàn, bởi Hoạn Thư tuy hung ác nhưng cũng là người biết "liên tài". Khi nghe Thúy Kiều gảy đàn,Hoạn Thư cũng nhận biết được tài năng cũng biết được Thúy Kiều là người tốt, trong lòng cũng có chút cảm thông với Kiều. Bởi lẽ đó mà nàng ta đã đưa Thúy Kiều về quan âm các, tránh sự hành hạ dã man của mẹ mình.Chưa hết, Hoạn Thư vẫn tiếp tục đưa ra những lí lẽ, mà những lí lẽ này tác động mạnh mẽ đến tâm lí của Thúy Kiều:
"Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng"
Vì là "chồng chung" nên Hoạn Thư có ghen tuông, có mù quáng thì cũng là việc có thể hiểu được. Những hành động đã gây ra cho Thúy Kiều cũng chỉ là " trót", nghĩa là muốn nhấn mạnh rằng mình không cố ý, cũng hoàn toàn không muốn làm như vậy với Thúy Kiều, hoàn toàn là do sự vô tình.Hoạn Thư không chối đẩy trách nhiệm, cũng không chối tội mà nhận mọi tội lỗi về mình và mong nhận được sự tha thứ của Kiều "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".Chính sự khôn khéo, hoạt ngôn cùng những lí lẽ sắc sảo của mình mà Hoạn Thư gần như xóa bỏ hết tội danh của mình, đưa mình từ một người phạm tội thành vô tội, hơn nữa còn khiến Kiều có cảm giác mang ơn với mình. Sự lọc lõi, khôn lẽ đời này của Hoạn Thư cũng được chính Thúy Kiều công nhận:
"Khen cho thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"
Và cũng chính vì vậy mà Hoạn Thư thoát được "án tử" một cách ngoạn mục:
"Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay"
Khi bị Thúy Kiều cho người bắt đến xử tội và ngay cả khi bị Kiều kết tội một cách dứt khoát, tuyệt tình "Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư". Cái kết của người đàn bà này gần như đã bị định trước là không còn đường thoát, nhưng sự khéo léo, ranh ma của Hoạn Thư đã giúp đẩy ngược tình thế.Qua đây ta cũng thấy được sự sắc sảo, bản lĩnh phi thường của Hoạn Thư.
Khi nhắc tới Hoạn Thư, chúng ta không chỉ biết đến là danh từ riêng nữa mà nó là một chỉ dấu để nói lên những người phụ nữ ghen tuông trong chuyện tình ái đày sóng gió. Trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" đã làm bật lên được tính cách của nhân vật mà người ta còn nhắc tới nhiều hơn cả Thúy Kiều.Hoạn Thư là con gái của Thượng Thư bộ lại vào thời Minh triều thời đó, tương đương với chức Thủ tướng bây giờ, là người có quyền sắp xếp mọi công việc trong triều đình. Khi mụ ta lấy Thúc Sinh một người đàn ông có địa vị và tài sản thua xa so Hoạn Thư, yếu thế hơn thì dĩ nhiên là thế lực của Hoạn Thư mạnh hơn Thúy Kiều rất nhiều.
Và thật lạ lùng thay, hầu như ai cũng biết đến cái tên Hoạn Thư dù đã đọc hay chưa đọc truyện Kiều bởi nó trở thành một "đại danh từ" biểu tượng cho sự ghen tuông tàn độc của người đàn bà.Nếu như so sánh cái ghen của Hoạn Thư đối với thời đại ngày nay thì Hoạn Thư còn hiền so với cách đánh ghen của chị em phụ nữ bây giờ, bởi vì Hoạn Thư là một người có ăn có học, bà ta đánh ghen đều có tinh toán, sắp xếp đâu ra đấy hết, chứng tỏ bà là một người thông minh, xảo quyết. Thể hiện qua những cái lời nói đối đáp với Kiều, để đủ hiểu bà ta là người không phải nông cạn. Hoạn Thư đánh ghen phải để trả thù Thúy Kiều, chà đạp lên cái nhân phẩm của người con gái đó, mà bà ta làm như thế đề trả thù Thúc Sinh. Trong truyện tác giả cũng có nhắc tới việc Hoạn Thư đã mở cửa cho Thúc Sinh đưa Kiều về ra mắt nhưng Thúc Sinh sợ lại không dám đưa nàng về. Hoạn Thư là một con người có hiểu biết, có trí tuệ và cách trả thù với người chồng bạc nghĩa không nông nổi, hồ đồ.
Trong đoạn trích này tác giả nói về sự trả thù của Thúy Kiều, theo nguyên tác thì sự trả thù của Thanh Tâm tài nhân là vô cùng độc ác, nhưng sau khi được Nguyễn Du dùng cái tâm và văn hóa của người Việt để làm cho sự trả thù của Thúy Kiều trở nên nhân văn, nhân bản phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa của đất nước ta. Để hiểu hơn về tính cách của Hoạn Thư thì ta cần tìm hiểu qua đoạn Thúy Kiều đối đáp với Hoạn Thư trong cảnh báo oán.Sau khi đã báo đáp ân nghĩa cho Thúc Sinh đã cứu mình khỏi cảnh lầu xanh, cảnh tì thiếp là cảnh Thúy Kiều cho gọi Hoạn Thư vào để báo oán. Khi mời Hoạn Thư lên công đường thấy bà ta Thúy Kiều đã lập tức chào hỏi.Ban đầu, trước những lời nói và thái độ của Thúy Kiều, Hoạn Thư như "hồn lạc, phách xiêu", nhưng với bản chất khôn ngoan của mình Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh lại để "liệu điều kêu ca". Những điều Hoạn Thư "kêu ca" thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình hay nói đúng hơn là đang tự biên minh cho mình:Trước hết, Hoạn Thư đã đưa ra tâm lí thường tình của phụ nữ:
"Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình."
Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung "chút phận đàn bà". Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai". Từ "tội nhân", Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành "nạn nhân" của chế độ đa thê.Sau đó, Hoạn Thư kể lại "công" của mình đối với Kiều:
"Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo."
Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành "ân nhân",con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.
Sau khi đã cố biện minh cho tội lỗi của mình, Hoạn Thư đã cố gắng lôi kéo Thúy Kiều về phía của mình và trông chờ vào sự khoan dung, độ lượng của nàng để được Thúy Kiều tha cho. Biết được điểm yếu và bản chất hiền lành, lương thiện, thương người của nàng, Hoạn Thư đã:
"Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng."
Qua sự đối đáp, biện hộ của mình trước Thúy Kiều, biến mình từ thế bị động sang chủ động đã cho thấy Hoạn Thư là một người tinh ma xảo trá như thế nào và đặc biệt bà ta là một người "sâu sắc nước đời", hiểu các thể loại người để đối phó và tìm cách lươn lẹo.Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen
"Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời."
Vì là người hiền từ, nhân hậu dù đã bị Hoạn Thư hại cho ra nông nỗi này nhưng trước lời lẽ của bà ta, Thúy Kiều có đôi chút băn khoăn, không biết nên trả thù nữa hay không hay là tha thứ cho mụ ta.
"Tha ra, thì cũng may đời,
Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen."
Dân gian có câu: "Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại". Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha, dù rằng bà ta đã gây cho nàng biết bao nhiêu vết thương, nhưng đứng trên phương diện của một người đàn bà bị người chồng của mình bội bạc như thế thì ai cũng hành xử như Hoạn Thư mà thôi.Qua đoạn trích nói riêng và cả truyện Kiều nói chung, ta thấy Hoạn Thư là một con người có ăn có học, nó thể hiện qua cái cách đánh ghen và những lời đối đáp có lý có tình với Kiều, nhưng vì tình yêu, vì sự bội bạc của người chồng nhu nhược, nhút nhát đã khiến cho cả hai người đàn bà của anh ta đều đau khổ.
"Hỏi thế giời tình ái là chi
Mà lứa đôi thề nguyền sống chết"
Hoạn Thư là một nhân vật trong Truyện Kiều- một trong những người làm nên tấn bi kịch cho cuộc đời Kiều. Không chỉ là con người có tính cách bạo tàn, ngang ngược khi ngược đãi, chà đạp Thúy Kiều mà trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", Hoạn Thư còn hiện lên là một con người xảo quyệt, đầy cá tính, khôn ngoan.Khi gặp được Từ Hải, được chuộc ra khỏi chốn thanh lâu, được sống cuộc sống hoàn toàn mới, Thúy Kiều dưới sự giúp đỡ của Từ Hải đã tiến hành một "phiên tòa" để tiến hành báo ân báo oán.Vốn là người gây ra bao nhiêu đau khổ, bi kịch cho Thúy Kiều, Hoạn Thư khi bị người của Từ Hải giải đến đã vô cùng hoảng hốt, lo sợ.Sự lo sợ này thể hiện ra ngay trong nét mặt:
"Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca"
Là một người đàn bà thông minh, khi bị Thúy Kiều cho giải đến lễ đường thì đã nhận thức ngay được tình huống, biết mối nguy hiểm, những hình phạt đáng sợ mà tới đây mình sẽ phải gánh chịu. Nên dù là con người hống hách, không coi air a gì thì vào hoàn cảnh này, Hoạn Thư cũng phải "hồn lạc phách xiêu", sự hoảng loạn, sợ hãi thể hiện ran gay trong nét mặt.Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là người biết mình, biết ta, không buông xuôi mà có những hành động cụ thể để tự cứu lấy mình.
"Khấu đầu dưới trướng,liệu điều kêu ca"Hành động "khấu đầu" này cho thấy Hoạn Thư đã vứt bỏ cái "tôi" kiêu hãnh để lạy lục dưới chân mà mình vô cùng căm ghét, từng coi là kẻ thù phải bị diệt bỏ. Tuy độc ác, bạo tàn nhưng Hoạn Thư cũng biết sợ hãi trước cái tử cần kề, làm mọi cách để duy trì được mạng sống.Hoạn Thư là một con người đầy linh hoạt, khéo léo.Biết sử dụng những lí lẽ của mình để thuyết phục Thúy Kiều. Hành động dã man đã đối xử với Thúy Kiều của Hoạn Thư đã quá rõ ràng, hơn nữa người trong cuộc cũng đã đích danh chỉ tội:
" Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư"
Tuy nhiên, Hoạn Thư biết cách để đánh động vào sự cảm thông,lòng trắc ẩn của Thúy Kiều khi đưa ra lí lẽ:
"Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"
Hoạn Thư bộc lộ là một người sắc sảo, khôn ngoanLí lẽ Hoạn Thư đưa ra vô cùng sắc sảo mà cũng không kém phần hợp lí.Trong hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" như vậy nhưng Hoạn Thư vẫn có thể nghĩ ra những lí do và sắp xếp nó hợp tình hợp lí như vậy,chứng tỏ nàng ta là một người vô cùng bản lĩnh và cũng vô cùng tin tưởng vào bản thân mình.Hoạn Thư đã giải thích những hành động của mình đối với Thúy Kiều vì mang "chút phận đàn bà", và đã là đàn bà thì ghen tuông là chuyện rất "thường tình", đáng thương hơn là đáng trách.Khi đã "quy đồng" tội danh của mình vào thân thận đàn bà,Hoạn Thư không dừng lại ở đó mà tiếp tục "đánh đòn tâm lí" mạnh hơn đối với Thúy Kiều, khiến Kiều không chỉ cảm thông mà còn mang ơn với Hoạn Thư:
"Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo"
Hoạn Thư đã rất khéo léo khi nhắc tới những lần mình đã vô tình giúp Thúy Kiều,đó là khi cho Thúy Kiều ra Quan Âm các chép kinh thay vì cuộc sống khổ sai, bạo tàn ở nhà của Hoạn bà. Hơn nữa, Hoạn Thư cũng nhấn mạnh vào sự "từ bi" của mình khi không cho người đuổi theo khi Thúy Kiều bỏ trốn. Biết Thúy Kiều là con người trọng ân nghĩa, lại rất mực nhân hậu, vị tha nên Hoạn Thư đã kể nể đủ điều bởi nàng ta cũng biết mình đã phần nào khơi lên sự thương cảm của Kiều, đây chỉ là đòn quyết định để Thúy Kiều giảm nhẹ hình phạt đối với mình.Khi Thúy Kiều còn đang lưỡng lự, suy nghĩ thì Hoạn Thư lại tiếp tục minh oan cho mình:
"Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"
Hoạn Thư cũng kể ra nỗi khổ của mình khi sống cuộc sống "chung chồng", và cũng biện minh cho mình vì hồ đồ nên "trót" gây ra bao tai họa cho Thúy Kiều.
Ở đây Hoạn Thư nhận hết mọi lỗi lầm của mình, nhưng bằng những lí lẽ đưa ra thì những lỗi lầm ấy trở nên nhỏ bé hơn, Hoạn Thư từ có tội dần trở thành vô tội. Điều cuối cùng mà Hoạn Thư muốn đó là sự ban ơn của Thúy Kiều đối với mình. "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"Sự khéo léo trong lời nói, lập luận chặt ché đánh động được vào tâm lí người nghe cùng với bản lĩnh, sự thông minh của người đàn bà lọc lõi lẽ đời đã khiến Hoạn Thư thoát khỏi án tử, bản án cũng trở nên vô hiệu. Chính Thúy Kiều cũng phải cất tiếng khen ngợi:
"Khen cho thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"
Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" là một cảnh rất đặc sắc, làm nổi bật lên tấm lòng của tác giả cũng như tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất sáng tạo dùng những lời thoại biến hóa về chuyện báo ân báo oán, vừa ca ngợi sự thủy chung, tình nghĩa, bao dung và độ lượng của Thúy Kiều, đồng thời cũng lên án bọn giảo trá, tinh quái.Trong cảnh Thúy Kiều báo ân, Thúy Kiều bộc lộ lên là một người biết nhớ ơn nghĩa, nghĩa tình sâu nặng, lời nói của Kiều cho thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh trong cơn hoạn nạn:
"Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non...
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?"
Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, khỏi cảnh phải làm thê thiếp ô nhục, nàng cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc gia đình mà nàng gọi đó là "nghĩa nặng nghìn non". Thúy Kiều đề cao đạo lí thủy chung, nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh với mình là vô cùng to lớn, sâu nặng, là cố nhân, nên nàng há dám phụ. Trái tim Kiều rất nhân hậu, biểu lộ tấm lòng trân trọng và biết ơn, cách ứng xử của nàng giàu ân nghĩa và trọn nghĩa thủy chung. Lễ vật báo ơn của Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh cũng thật hậu "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân", dù gắn bó với Thúc Sinh là một lần nữa Thúy Kiều phải làm phận lẽ đau đớn tủi nhục nhưng nàng biết điều đó không phải Thúc Sinh gây ra mà là do Hoạn Thư. Bao năm tháng đã trôi qua nhưng những nỗi đau trong lòng Kiều vẫn chưa nguôi:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma...
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa."
Nhắc lại chuyện cũ, ta thấy vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Thúy Kiều là vô cùng xót xa, Nguyễn Du đã rất xuất sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật Thúy Kiều, chỉ bằng một lượt lời nhưng đã tạo ra hai giọng điệu khác nhau khi nói về ân và oán.Phân tích hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán để thấy được vẻ đẹp nhân cách của nàng Kiều
Từ đêm bị đánh ghen ấy đến nay đã bao năm tháng trôi qua, gặp lại Hoạn Thư trong hoàn cảnh này, với tư thế của người chiến thắng, Thúy Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:
"Thoắt trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!"...\
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Cả hành động và lời nói của Thúy Kiều đều biểu lộ sự mỉa mai đối với Hoạn Thư, sự đay nghiến dằn ra từng tiếng khi từ ngữ được lặp lạ và nhấn mạnh hơn: dễ dàng, dễ có, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói đó rất tương xứng với con người Hoạn Thư, bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong lòng đầy nham hiểm giết người không dao. Từ thân phận chịu áp bức đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lí, đó cũng phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Sau khi nghe những lời lí lẽ vừa có lí vừa có tình của Hoạn Thư thì Thúy Kiều đã mỏ rộng lòng bao dung nhân hậu mà tha riêng cho Hoạn Thư:
"Khen cho: "Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"...
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."
Tuy ngoài sức tưởng tượng của mọi người nhưng quyết định của Thúy Kiều là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, thuần phong mỹ tục của người Việt ta. Vốn là người đã trải qua bao năm thắng nếm đắng cay, Thúy Kiều tự biết mình đã xâm phạm tới hạnh phúc gia đình người khác nên Thúy Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư, thể hiện sự rộng lượng và cao thượng của mình.
Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.Hình tượng nhân vật Thúy Kiều: Thúy Kiều báo ân – thể hiện lòng biết ơn và nghĩa tình sâu nặng. Qua những lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.
Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình mà nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non. Kiều nói về nghĩa, về chữ tòng, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là người cũ, là cố nhân mà Kiều há dám phụ.Nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình khi xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: nghĩa nặng nghìn non... Kiều đã dùng một số từ ngữ như nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân hậu, cách ứng xử của nàng với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa, thủy chung.Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân cho Thúc Sinh cũng thật hậu, khẳng định cái nghĩa đối với cố nhân trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng: Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Nàng cho rằng dù có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân cũng chưa xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh.Thúy Kiều báo oán kiên quyết nhưng vẫn khoan dung, độ lượng: Bao năm tháng đã trôi qua nhưng lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Vì thế giờ đã đổi thay: kẻ chịu đầy đọa giờ đã là quan tòa ngồi trong trướng giữa cảnh gươm lớn giáo dài:
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”
Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, chứng tỏ vết thương lòng mà vị tiểu thư kia gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo ra hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều đã cho thấy ông rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã trải qua bao năm tháng. Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người chiến thắng ra tay báo oán, Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:
Thoắt trông nàng đã çhào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.
Hành động, lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay đổi là một cách mỉa mai, quất mạnh vào danh gia họ Hoạn.Trong lời nói của Kiều có cái giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với Hoạn Thư, phù hợp với con người bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao.Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán là sự phản ánh khát vọng ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Nhưng sau khi nghe những lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí vừa có tình thì Thúy Kiều đã tha riêng cho Hoạn Thư.
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Thúy Kiều đã tỏ ra vô cùng cao thượng.Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.
Khi Từ Hải xuất hiện, cuộc đời của Thúy Kiều bước sang một trang mới, mở ra một hành trình tươi sáng hơn, nàng thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ bẩn còn đưa nàng từ thân phận “con ong cái kiến” bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều đang ở một cương vị mới, là người có quyền cao chức trọng, nàng cho gọi lần lượt những con người mà nàng nghĩ mình nên báo đáp cũng như người mình trừng phạt vì đã gieo biết bao nhiêu đau khổ cho nàng
. Đúng với phẩm chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: “Cho gươm mời đến Thúc lang”nh với mình trong thời gian trôi dạt của nàng.Thúc Sinh là một con người vốn hiền lành, tốt bụng nhưng cũng là kẻ đa tình và nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng khí để bảo vệ và che chở cho tình yêu của mình, khi thấy cảnh “Cho gươm mời đến Thúc lang” chàng ta đã vô cùng hốt hoảng, điều này cũng dễ hiểu thôi vì bản tính của chàng ta vẫn là kẻ nhút nhát. Nhưng Thúy Kiều là một người coi trọng ân nghĩa, trong cơn hoạn nạn, dù là kẻ nhu nhược nhưng đã đứng lên hành động nghĩa hiệp để phần nào cứu giúp nàng trong lúc khó khăn:
“Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?…”
Khi Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, Thúy Kiều đã có những tháng ngày được xem là tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, nàng không bao giờ quên.Thúy Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi,biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng. Khi nói với Thúc Sinh, trong ngôn ngữ của Kiều xuất hiện nhiều từ Hán Việt: “nghĩa”,”tòng”,”phụ”,”cố nhân”… kết hợp với điển cố “Sâm Thương”.Lời lẽ của Kiều khi nói với Thúc Sinh là lời lẽ của một “phu nhân” với những khái niệm đạo đức phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” và “những phong cách biểu hiện ước lệ, công thức “Sâm Thương”, “nghĩa trọng nghìn non” ( Đặng Thanh Lê). Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.Vì muốn thoát khỏi cảnh: “Sống làm vợ khắp người ta” nên Kiều đã nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi đòi khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thúy Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Dù thế nhưng trong thâm tâm nàng chưa bào giờ oán hận và trách cứ chàng điều gì cả, tuy thời gian ở bên chàng ít và cũng không hẳn là yên ổn nhưng đối với Thúy Kiều lúc thì như thế là một ân huệ quá lớn, nàng đem “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” xem như báo đáp phần nào những gì mà Thúc Sinh đã cố gắng giúp đỡ mình trong thời gian đó.Nhưng thật sự những nỗi đau mà do người vợ của chàng gây ra đến tận bây giờ nàng cũng chưa thể nào quên được, chưa thể nào xoa dịu được, bởi vết thương lòng quá lớn, nàng như muốn hét lên vì những tội ác mà do vợ của chàng gây ra:
“Vợ chàng quỉ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”
Cách nói đã có thay đổi. Khi nhắc về ân nghĩa của Thúc Sinh, cách nói của Kiều rất trang trọng. Nhưng nói đến Hoạn Thư, cách nói lại chuyển sang nôm na như kiểu nói của người bình dân. Những thành ngữ “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân: cái ác phải bị trừng phạt, “ác giả ác báo”.
Qua việc báo ân Thúc Sinh, ta thấy Thúy Kiều là một người nhân hậu,nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”. Và Thúc sinh là một con người tốt bụng, hiền lành nhưng lại tỏ ra nhu nhược, hèn nhát không dám đứng lên để bảo vệ tình yêu của mình, bảo vệ người mình yêu thương.Sau khi đền đáp công ơn việc Thúc Sinh đã giúp đỡ mình trong thời gian nàng ở lầu Ngưng Bích thì nàng còn tiếp tục trừng trị người đã gây cho nàng không ít những đau khổ, trái ngang, tủi nhục mà có lẽ suốt cả cuộc đời này, nàng sẽ không bao giờ quên được.Trong đoạn trích này tác giả nói về sự trả thù của Thúy Kiều, theo nguyên tác thì sự trả thù của Thanh Tâm tài nhân là vô cùng độc ác, nhưng sau khi được Nguyễn Du dùng cái tâm và văn hóa của người Việt để làm cho sự trả thù của Thúy Kiều trở nên nhân văn, nhân bản phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa của đất nước ta. Để hiểu hơn về tính cách của Hoạn Thư thì ta cần tìm hiểu qua đoạn Thúy Kiều đối đáp với Hoạn Thư trong cảnh báo oán.Sau khi đã báo đáp ân nghĩa cho Thúc Sinh đã cứu mình khỏi cảnh lầu xanh, cảnh tì thiếp là cảnh Thúy Kiều cho gọi Hoạn Thư vào để báo oán. Khi mời Hoạn Thư lên công đường thấy bà ta Thúy Kiều đã lập tức chào hỏi.
Ban đầu, trước những lời nói và thái độ của Thúy Kiều, Hoạn Thư như “hồn lạc, phách xiêu”, nhưng với bản chất khôn ngoan của mình Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh lại để “liệu điều kêu ca”. Những điều Hoạn Thư “kêu ca” thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình hay nói đúng hơn là đang tự biện minh cho mình: Trước hết, Hoạn Thư đã đưa ra tâm lí thường tình của phụ nữ:
“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”
Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ “tội nhân”, Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành “nạn nhân” của chế độ đa thê.Sau đó, Hoạn Thư kể lại “công” của mình đối với Kiều:
“Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”
Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành “ân nhân”,con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.Sau khi đã cố biện minh cho tội lỗi của mình, Hoạn Thư đã cố gắng lôi kéo Thúy Kiều về phía của mình và trông chờ vào sự khoan dung, độ lượng của nàng để được Thúy Kiều tha cho. Biết được điểm yếu và bản chất hiền lành, lương thiện, thương người của nàng, Hoạn Thư đã:
“Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”
Qua sự đối đáp, biện hộ của mình trước Thúy Kiều, biến mình từ thế bị động sang chủ động đã cho thấy Hoạn Thư là một người tinh ma xảo trá như thế nào và đặc biệt bà ta là một người “sâu sắc nước đời”, hiểu các thể loại người để đối phó và tìm cách lươn lẹo. Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen:
“Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”
Vì là người hiền từ, nhân hậu dù đã bị Hoạn Thư hại cho ra nông nỗi này nhưng trước lời lẽ của bà ta, Thúy Kiều có đôi chút băn khoăn, không biết nên trả thù nữa hay không hay là tha thứ cho mụ ta.
“Tha ra, thì cũng may đời,
Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.”
Dân gian có câu: “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha:
“Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”
Qua đoạn trích này, ta thấy được vẻ đẹp nhân từ và tấm lòng trời cao như phật của Thúy Kiều, và ngược lại Hoạn Thư lại hiện lên là một kẻ ma ranh tinh quái, nhưng lại vô cùng hiểu sự thế trời đời, cái gì cũng biết, cũng có thể hóa đen thành trắng đươc, là người “sâu sắc nước đời”.Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí chính nghĩa của nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.
Trải qua biết bao đau đớn, bất hạnh những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi chìm trong "màn đêm tăm tối" của số phận, không có ngày thoát ra được. Nhưng từ khi gặp được Từ Hải,Thúy Kiều không chỉ được sống cuộc sống của một người bình thường, có danh phận mà còn được Từ Hải giúp đỡ để báo đền mọi ân oán. Đoạn trích " Thúy Kiều báo ân báo oán" thể hiện rõ nét của phiên tòa xử phạt ấy.
Cuộc sống nổi trôi thăng trầm,bao nỗi bất hạnh đi qua cuộc đời nhưng những ai đã từng cơ ơn,những ai gieo rắc đau khổ cho mình thì Thúy Kiều đều ghi tạc rất rõ trong lòng.
Nay được Từ Hải cho cơ hội báo ân, báo oán,Thúy Kiều không chỉ cho gọi đến những người có ân để tiện bề đền đáp, mà còn đưa những người đã từng chà đạp, coi thường nàng đến để định tội,trừng phạt. Đoạn trích "Kiều báo ân báo án" như một phiên tòa xét xử,trong đó, người "thẩm phán" chính là Thúy Kiều. Trước hết, Thúy Kiều tiến hành báo đáp những người có ơn với mình trước:
"Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai,ai há phụ lòng cố nhân"
Người đầu tiên mà Thúy Kiều muốn báo đáp là Thúc Sinh. Với Thúc Sinh, tình nghĩa "nặng trọng như núi". Người đã cứu Kiều ra khỏi thanh lâu, người đã rất mực yêu thương, đối xử với Thúy Kiều như một người vợ đích thực."Lâm Tri chàng còn nhớ không?" Lời Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh mới chân thành, tha thiết làm sao. Dùng điển tích "Sâm Thương" để nói về sự biết ơn đối với Thúc Sinh đã thể hiện được tấm lòng chân thành ấy đối với "cố nhân".
Tuy là đối tượng được báo đáp nhưng Thúc Sinh lại tỏ ra rất sợ hãi, lo lắng: "Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run". Các từ ngữ như "chàm đỏ", "run" vừa thể hiện được được cái xám ngắt của sắc mặt, vừa thể hiện được cái run rẩy của đôi chân Thúc Sinh.Khi nghe Thúy Kiều kết tội Hoạn Thư thì trên mặt Thúc Sinh đã "ướt đầm mồ hôi". Dù chỉ được phác họa bằng vài nét tả xong Nguyễn Du cũng đã khắc họa thành công tính cách,con người của Thúc Sinh: hèn nhát, nhu nhược, thiếu bản lĩnh.
Với người có ơn với mình Thúy Kiều hết lòng báo đáp, còn đối với những người mắc oán với mình thì Thúy Kiều cũng phân tính rạch ròi. Điển hình của màn báo oán này là đối với nhân vật Hoạn Thư. Đối với Hoạn Thư,ngay từ lúc nhìn thấy,Thúy Kiều đã lớn tiếng kết tội: "Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư".
Tiếng kết tội này không chỉ rõ ràng,đanh thép mà còn thể hiện được sự phẫn nộ của Thúy Kiều đối với Hoạn Thư.Không chỉ vậy, khi đối thoại với Hoạn Thư, Thúy Kiều cũng nói bằng giọng điệu đầy châm chọc:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
"Tiểu thư" là cách nói đầy trào phúng của Thúy Kiều dành cho Hoạn Thư nhằm chế giễu con người sang trọng, quyền quý như Hoạn Thư mà cũng có ngày hôm nay. Với Thúc Sinh lời nói chân thành da diết bao nhiêu thì với Hoạn Thư giọng nói đanh thép, phẫn nộ bấy nhiêu.Cuối cùng là sự kết án rõ ràng "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều" như định sẵn một bản án dành cho Hoạn Thư.
Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là con người đầy khôn ngoan, lọc lõi sự đời.Khi bị áp giải đến "phiên tòa" thì cũng sợ hãi đến "hồn bay phách lạc" nhưng sự từng trải cùng bản lĩnh hơn người đã khiến nàng ta bình tâm và đưa ra những lí lẽ đầy sức thuyết phục:
"Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai"
Trước hết, lí lẽ là Hoạn Thư đưa ra đó là mình "chút phận đàn bà" nên ghen tuông, cay nghiệt với vợ bé của chồng cũng là "người ta thường tình". Nếu sự biện minh này bước đầu chạm vào tấm lòng vị tha của Thúy Kiều thì câu thơ sau lại khiến Kiều có cảm giác mình mang ơn Hoạn Thư:
"Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo"
Hoạn Thư đã kể nể sự "nhân ái" của mình đã từng dành cho Thúy Kiều, đó là lần cho Thúy Kiều ra Quan Âm Các viết kinh và khi Thúy Kiều bỏ trốn cũng không sai người truy cứu "dứt tình chẳng theo". Hoạn Thư kể ra nỗi khổ khi sống cảnh chung chồng "Chồng chung ai dễ ai chiều cho ai".
Điều này đã "quy đồng" cảnh ngộ của cả mình và Thúy Kiều, đó là cảnh chung chồng, từ đó gợi ra được sự cảm thông của Kiều.Có thể nói Hoạn Thư là con người thông minh, lí lẽ sắc bén, biết cách đánh vào tâm lí người đối diện. Chẳng thế mà Thúy Kiều cũng có lời khen: "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"
Như vậy, thông qua đoạn trích này,người đọc không chỉ được chứng kiến cảnh phân xử đầy li kì, hấp dẫn của Thúy Kiều mà thông qua ngòi bút đầy tinh tế, tài năng của Nguyễn Du ta còn có thể hình dung về nhân vật một cách sắc nét, chân thực. Đây quả là một bức kí họa chân dung xuất sắc của một bậc kì tài.
Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một cảnh rất đặc sắc, làm nổi bật lên tấm lòng của tác giả cũng như tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất sáng tạo dùng những lời thoại biến hóa về chuyện báo ân báo oán, vừa ca ngợi sự thủy chung, tình nghĩa, bao dung và độ lượng của Thúy Kiều, đồng thời cũng lên án bọn giảo trá, tinh quái.
Trong cảnh Thúy Kiều báo ân, Thúy Kiều bộc lộ lên là một người biết nhớ ơn nghĩa, nghĩa tình sâu nặng, lời nói của Kiều cho thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh trong cơn hoạn nạn:
“Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non…
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”
Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, khỏi cảnh phải làm thê thiếp ô nhục, nàng cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc gia đình mà nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Thúy Kiều đề cao đạo lí thủy chung, nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh với mình là vô cùng to lớn, sâu nặng, là cố nhân, nên nàng há dám phụ.
Trái tim Kiều rất nhân hậu, biểu lộ tấm lòng trân trọng và biết ơn, cách ứng xử của nàng giàu ân nghĩa và trọn nghĩa thủy chung. Lễ vật báo ơn của Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh cũng thật hậu “Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân”, dù gắn bó với Thúc Sinh là một lần nữa Thúy Kiều phải làm phận lẽ đau đớn tủi nhục nhưng nàng biết điều đó không phải Thúc Sinh gây ra mà là do Hoạn Thư. Bao năm tháng đã trôi qua nhưng những nỗi đau trong lòng Kiều vẫn chưa nguôi:
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma…
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”
Nhắc lại chuyện cũ, ta thấy vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Thúy Kiều là vô cùng xót xa, Nguyễn Du đã rất xuất sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật Thúy Kiều, chỉ bằng một lượt lời nhưng đã tạo ra hai giọng điệu khác nhau khi nói về ân và oán.
Từ đêm bị đánh ghen ấy đến nay đã bao năm tháng trôi qua, gặp lại Hoạn Thư trong hoàn cảnh này, với tư thế của người chiến thắng, Thúy Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:
“Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!”…
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”
Cả hành động và lời nói của Thúy Kiều đều biểu lộ sự mỉa mai đối với Hoạn Thư, sự đay nghiến dằn ra từng tiếng khi từ ngữ được lặp lạ và nhấn mạnh hơn: dễ dàng, dễ có, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,… Cách nói đó rất tương xứng với con người Hoạn Thư, bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong lòng đầy nham hiểm giết người không dao.
Từ thân phận chịu áp bức đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lí, đó cũng phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Sau khi nghe những lời lí lẽ vừa có lí vừa có tình của Hoạn Thư thì Thúy Kiều đã mở rộng lòng bao dung nhân hậu mà tha riêng cho Hoạn Thư:
“Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”…
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”
Tuy ngoài sức tưởng tượng của mọi người nhưng quyết định của Thúy Kiều là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, thuần phong mỹ tục của người Việt ta. Vốn là người đã trải qua bao năm tháng nếm đắng cay, Thúy Kiều tự biết mình đã xâm phạm tới hạnh phúc gia đình người khác nên Thúy Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư, thể hiện sự rộng lượng và cao thượng của mình.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.
- Cuộc đời:
+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.
+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
- Sự nghiệp văn học
+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.
1. Vị trí đoạn trích:
- Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).
- Nội dung: Sau khi chịu nhiều đau khổ, Thúy Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng đền ơn, trả oán. Đoạn trích trên tả cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.
2. Bố cục
- 12 câu đầu : Thúy Kiều báo ân.
- 22 câu cuối : Thúy Kiều báo oán.
3. Nội dung chính
Sau khi chịu bao đau khổ, tủi nhục, đoạ đầy, Thuý Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng thoả nguyện đền ơn trả oán. Đây là trích đoạn tả cảnh báo ân, báo oán của Thúy Kiều.
4. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, tự sự
5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.
6. Giá trị nội dung
- Qua ngôn ngữ đối thoại Nguyễn Du đã làm nổi bật tính cách nhân vật Thuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư. Đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán là sự thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành”.
7. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại
- Từ ngữ mang tính nôm na, bình dân
- Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian
- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.