Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật Kiều Nguyệt Nga hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 13 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Bài giảng: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
“Truyện Lục Vân Tiên” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm không chỉ thành công khi xây dựng được nội dung sâu sắc mà còn ở cách xây dựng chân dung nhân vật. Bên cạnh Lục Vân Tiên - nhân vật trung tâm, thì hình ảnh của Kiều Nguyệt Nga cũng được nhà thơ khắc họa một cách sinh động, đặc biệt trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Kiều Nguyệt Nga vốn là con gái của quan chi phủ ở miền Hà Khê. Khi nhận được thư của cha gọi đến để bàn tính chuyện hôn ước - đạo làm con không thể cãi lời cha mẹ nên liền lập tức lên đường. Trên đường đi thì xe gặp phải cảnh bọn cướp Phong Lai đang hoành hành. Nhưng nhờ có sự giúp đỡ của Lục Vân Tiên mà thoát nạn.Những hành động của Kiều Nguyệt Nga sau đó bộc lộ nàng là một con người đoan trang, dịu dàng:
“Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”
Kiều Nguyệt Nga để cho người tì tiết của mình lên tiếng kể sự tình trước. “Thưa rằng” là cách nói chuẩn mực, tôn trọng người đối diện. Cũng như khẳng định rõ: “Tôi thiệt người ngay/Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ”. Khi chứng kiến cảnh Lục Vân Tiên “tả xung hữu đột” để cứu mình thì muốn “cúi đầu trăm lạy” để bày tỏ lòng biết ơn. Đâu là hành động được xem như phải đạo của người đang chịu ơn. Kiều Nguyệt Nga còn vô cùng tinh tế khi đề tì tiết của mình lên tiếng trước, còn bản thân thì ở bên cạnh quan sát Lục Vân Tiên.Sau khi nghe Lục Vân Tiên khẳng định đã dẹp tan lũ cướp, thấy được thái độ của Lục Vân Tiên. Kiều Nguyệt Nga biết người cứu mình là một nam tử hán, nàng mới lên tiếng kể rõ sự tình:
“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất tên là Kim Liên.
...
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!”
Có thể thấy, Kiều Nguyệt Nga là một người con có hiếu, dù “ngàn dặm” xa xôi cũng cùng không quản ngại.Trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga cũng bày tỏ mong muốn được đền ơn
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
...
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.”
Hành động “lạy rồi sẽ thưa” thể sự được tấm lòng chân thành, sâu sắc của nàng. Là một tiểu thư khuê các, Nguyệt Nga đã tự xưng là “tiện thiếp” đã cho thấy hình ảnh một con người chuẩn mực cũng như sự khiêm nhường, từ tốn của nàng. Kiều Nguyệt Nga còn bộc lộ mong muốn Lục Vân Tiên đi cùng mình đến gặp cha để đền tạ công ơn. Đó là tấm lòng của một con người biết trước biết sau.Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được hình ảnh Kiều Nguyệt Nga hiện lên mang những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: hiền hậu, nết na và ân tình.
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Lục Vân Tiên.
- Giới thiệu về đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga và nhân vật Kiều Nguyệt Nga.
2. Thân bài
- Sau khi nghe lời lẽ của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga biết người cứu mình là một nam tử hán, liền kể rõ sự tình: Nàng cùng với tì tất tên là Kim Liên, quê ở quận Tây Xuyên, cha là tri phủ miền Hà Khê nhận được bức thư của cha đến đó để định việc hôn nhân.
- Nguyệt Nga muốn thể hiện sự biết ơn của mình đối với những hành động trượng nghĩa của Vân Tiên, nàng muốn “cúi đầu” để cảm tạ ơn sâu ấy. Đây là hành động được xem là rất “phải đạo” cũng thể hiện được những suy nghĩ sâu sắc, chu đáo của nàng.
- Kiều Nguyệt Nga còn bộc lộ mong muốn Lục Vân Tiên đi cùng mình đến gặp cha để đền tạ công ơn.
- Thể hiện Kiều Nguyệt Nga là một tiểu thư khuê các, là con người biết trước sau, hiếu nghĩa.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của nhân vật
- Đánh giá về nhân vật Kiều Nguyệt Nga.
Các bài mẫu khác:
Hình ảnh người phụ đã không còn xa lạ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Nhưng đến với “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Kiều Nguyệt Nga lại hiện lên với những nét đẹp riêng. Đặc biệt điều đó được thể hiện qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Kiều Nguyệt Nga xuất thân trong một gia đình lư hương có cha làm quan trong triều. Trên đường đến Hà Khê theo lời của cha để định bề nghi gia, nàng đã gặp phải bọn cướp Phong Lai hung dữ, chuyên cướp bóc của nhân dân. Hình ảnh bọn cướp ngang nhiên hoành hành cho thấy đây là một thời đại mà xã hội vô cùng loạn lạc. Trong hoàn cảnh đó, Lục Vân Tiên đã xuất hiện giống như một vị anh hùng, dẹp yên lũ cướp. Ngoại hình của Kiều Nguyệt Nga không được miêu tả quá kĩ trong đoạn trích, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nét đẹp của một tiểu thư khuê các.Sau khi được Lục Vân Tiên ân cần hỏi han, Kiều Nguyệt Nga để cho người tì tiết là Kim Liên trả lời:
“Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”
Hai chữ “thưa rằng” cho thấy thái độ khiêm nhường, kính trọng dành cho người nghe. Kết hợp với hành động “cúi đầu trăm lạy” - thể hiện sự biết ơn của một người mang ơn.Nghe cách trò chuyện của Lục Vân Tiên khi khẳng định đã dẹp yên bọn cướp để người trong xe yên lòng. Kiều Nguyệt Nga cảm nhận được Vân Tiên là một con người trượng nghĩa. Nàng đã bày tỏ rõ sự tình cho Vân Tiên hiểu rõ:
“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
...
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!”
Dù Kiều Nguyệt Nga vẫn còn đang trong cơn hãi hùng trước bọn cướp Phong Lai. Nhưng đứng trước những lời hỏi thăm đầy chân tình của Vân Tiên, nàng đã đáp lại hết sức dịu dàng thể hiện đúng mực thước của một cô gái có học thức. Đồng thời cũng thể hiện sự cảm kích, ân tình trước ơn cứu mạng của Vân Tiên. Ngay từ cách trò chuyện của người tì tiết cũng cho thấy được Kiều Nguyệt Nga là một con người có học thức. Ở câu nói cuối cùng, ta còn thấy được nàng là một người con hiếu nghĩa, hiểu chuyện và vô cùng yêu thương bậc phụ mẫu. Vì vậy mà Kiều Nguyệt Nga chẳng quản ngại đường xa để đến Hà Khê theo lời cha mong muốn.Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở đó, phẩm chất cao quý của Kiều Nguyệt Nga còn thể hiện qua mong muốn được đền đáp ơn nghĩa của Lục Vân Tiên:
“Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Những lời nói đầy chân thành, tha thiết. Nàng hy vọng có thể trả ơn cho Lục Vân Tiên - đó là biểu hiện của một con người nhân nghĩa, luôn đề cao đạo lý “đền ơn đáp nghĩa” đối với ân nhân của mình. Nếu lần đầu chỉ là hành động quỳ lạy - người đọc có thể hiểu nhầm là lời cảm ơn sáo rỗng. Thì ở đây, chúng ta đã thấy được sự chân tình của Nguyệt Nga muốn trả ơn - không chỉ là cái ơn cứu mạng mà còn là cái ơn đã bảo vệ danh tiết - điều quan trọng nhất đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”
Và cũng chính bởi tấm lòng hiệp nghĩa đó, Kiều Nguyệt Nga còn bày tỏ mong muốn gắn bó với Lục Vân Tiên đến trọn đời.Như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa đầy chân thực hình ảnh nhân vật Kiều Nguyệt Nga - một tiểu thư khuê các, có học thức và mang những phẩm chất của người phụ nữ truyền thống
Tác phẩm "Truyện Lục Vân Tiên" là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, trong tác phẩm nhà văn không chỉ xây dựng thành công bối cảnh truyện, nội dung đề cập sâu sắc, nhân văn mà tác giả đặc biệt thành công trong xây dựng chân dung nhân vật.Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên - nhân vật trung tâm, nòng cốt của tác phẩm thì hình ảnh Kiều Nguyệt Nga cũng được nhà thơ khắc họa một cách sinh động, chân thực, đặc biệt là thông qua đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga".Trong chuyến đi về miền Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga đã phải đối mặt với một mối nguy hiểm lớn từ đám "bớ đảng hung đồ". Thân gái yếu ớt không thể làm gì hơn nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp thì nàng đã rất hoảng loạn, sợ hãi. Tuy nhiên, khi được những hành động nghĩa hiệp, nhân nghĩa của Lục Vân Tiên cứu giúp thì những lời nói, hành động sau đó của Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ được phẩm chất đoan trang, dịu dàng, có học thức của một tiểu thư khuê các:
"Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay"
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng"
Những lời nói Kiều Nguyệt Nga đáp lại Lục Vân Tiên ta có thể thấy nàng là một người có học thức, lời ăn tiếng nói đều rất rõ ràng, dịu dàng, mực thước kể lể sự tình của mình " Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ"."Thưa rằng" là cách nói đầy chuẩn mực, tôn trọng thể hiện được cung cách của một con người có gia giáo, có học thức.Nàng cũng là người biết điều phải trái, khi chứng kiến cảnh Lục Vân Tiên "tả đột hữu xung" cứu mình thì nàng đã mang ơn và có hành động để thể hiện sự biết ơn ấy của mình:"Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng" Nguyệt Nga muốn thể hiện sự biết ơn của mình đối với những hành động trượng nghĩa của Vân Tiên, nàng muốn "cúi đầu" để cảm tạ ơn sâu ấy. Đây là hành động được xem là rất " phải đạo" cũng thể hiện được những suy nghĩ sâu sắc, chu đáo của nàng. Qua những đoạn đối đáp với Lục Vân Tiên,ta không chỉ thấy Kiều Nguyệt Nga là người dịu dàng,lễ phép, chuẩn mực mà còn thấy đây là một cô gái rất có hiếu:
"Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó tiện bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành"
Ta thấy nàng là một người con gái hết mực đoan trang, dịu dàng; một người con có hiếu, luôn vâng lời cha " làm con đâu dám cãi cha". Và để làm theo mong muốn của cha là "tiện bề nghi gia" thì nàng cũng ngại thân con gái phải ngàn dặm xa xôi mà " Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành".Như vậy, ta có thể thấy, hình tượng Kiều Nguyệt Nga có thể coi là một hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến xưa, nết na, hiền thục, có học thức và cũng là một người con có hiếu.
"Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng"
Trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga tha thiết muốn được đền ơn và tỏ mong muốn mời Vân Tiên về nhà cùng mình để tiện bề báo đáp "Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng". Qua lời nói của Nguyệt Nga ta cũng thấy một con người đầy chính nghĩa, đề cao tư tưởng "đền ơn, tạ nghĩa "đối với người "ân nhân" của mình.Và đây cũng là lần thứ hai Kiều Nguyệt Nga muốn quỳ lạy tạ ơn đối với Vân Tiên "Xin cho tiện thiếp lạy rồi mới thưa".Nếu lần đầu tiên nàng tỏ ý muốn lạy tạ ơn thì có thể coi là phép khách sáo, lịch sự.Song đây là lần thứ hai nàng bày tỏ mong muốn này, điều đó cũng chứng tỏ được tấm lòng chân thành, sâu sắc của nàng. Vốn là một tiểu thư đài các, nhưng Nguyệt Nga tự xưng mình là "tiện thiếp", thể hiện sự chuẩn mực, nề nếp, cũng thể hiện được sự khiêm nhường, từ tốn. Cũng trong cuộc đối đáp với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga thể hiện được tài năng văn thơ hết mực tài hoa, tinh tế.
"Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu
Xuống tay liền tả tám câu năm vần"
Có thể thấy người con gái này "tài sắc vẹn toàn", đoan trang thục nữ nhưng cũng đầy tài hoa, học thức tinh thông. Bằng những ngôn ngữ giản dị mà mộc mạc, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên bức chân dung người thiếu nữ Kiều Nguyệt Nga đầy chân thực, gần gũi với những nét đẹp mang đậm dấu ấn của người phụ nữ Việt Nam: thùy mị, đoan trang, hiếu thảo, trọng ân nghĩa.
Xã hội phong kiến thời xưa đề cao công, dung, ngôn, hạnh. Những phẩm chất đó được coi là thước đo khuôn mẫu, đức hạnh của người phụ nữ. Trong văn học trung đại nổi lên với muôn vàn hình tượng nhân vật nữ khác nhau. Tuy nhiên Kiều Nguyệt Nga trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu vẫn là nhân vật được đánh giá cao nhất về vẻ đẹp tâm hồn lẫn đức hạnh của người phụ nữ phong kiến, và đặc biệt hình tượng nhân vật này đã được khắc họa hết sức sinh động và sâu sắc, nhất là trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Kiều Nguyệt Nga vốn là một cô gái xuất thân trong gia đình lư hương có cha làm quan trong triều đình. Trên đường về miền Hà Khê để đoàn tụ với gia đình, nàng đã gặp phải bọn cướp Phong Lai dữ tợn chuyên cướp bóc của dân làng. Hình ảnh bọn cướp ngang dọc hoành hành chính là phản ánh cho cả thời đại, ấy là một thời đại đầy loạn lạc. Trong bối cảnh đó, người ta mong ước có được một vị anh hùng hào kiệt sẽ dang tay cứu giúp dân lành, và Lục Vân Tiên đã xuất hiện trong bối cảnh đó. Chàng đã dẹp tan bọn cướp cứu được Kiều Nguyệt Nga. Hình ảnh nàng hiện lên không phải thông qua miêu tả kĩ càng trong thơ văn mà chỉ thông qua đoạn hội thoại ngắn ngủi với Vân Tiên. Chỉ bấy nhiêu đó thôi, chúng ta đã cảm nhận được nét đẹp của nàng, đó là sự thùy mị, nết na, đoan trang mà lại có học thức:
“Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”
Mặc dù còn đang trong cơn hãi hùng trước bọn cướp Phong Lai, tuy nhiên đứng trước những lời hỏi thăm đầy chân tình của Vân Tiên, nàng đã đáp lại hết sức dịu dàng thể hiện đúng mực thước của một cô gái có học thức, đồng thời cũng thể hiện sự cảm kích, ân tình trước ơn cứu mạng của Vân Tiên. Trong cuộc đối thoại với Vân Tiên, nàng cũng đã thổ lộ rõ cảnh ngộ của mình. Đó là việc nàng từ ngàn dặm xa xôi tới đây, không quản hiểm nguy chỉ mong đến được vùng Hà Khê để đoàn tụ với gia đình “tiện bề nghi gia”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng thực khiến cho người đời cảm động. Hình tượng Kiều Nguyệt Nga chính là hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến đương thời.
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.
Tuy nhiên nét đẹp của nàng không chỉ dừng lại ở đó. Phẩm chất cao quý nhất của Kiều Nguyệt Nga đó là tấm lòng chân thành sâu sắc, mong muốn được đền ơn đáp nghĩa đối với ân nhân của mình, quả là một cô gái thủy chung, ân nghĩa vẹn toàn.
“Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.
Nàng không phải là một cô gái mang ơn cho có, lời nói của nàng đầy chân tình chứ không hề sáo rỗng. Nàng tha thiết muốn đề ơn đáp nghĩa cho Lục Vân Tiên, đấy là biểu hiện của một con người đầy nhân nghĩa, luôn đề cao đạo lí “đền ơn đáp nghĩa” đối với ân nhân của mình. Kiều Nguyệt Nga muốn thực tâm bày tỏ tấm lòng sâu sắc của mình qua hai lần mong muốn được đền ơn. Lần đầu chỉ là quỳ lạy, người đọc có thể nhầm tưởng đây là lời cảm ơn đầy khách sáo nhưng lần thứ hai nàng đã thực tâm tha thiết, chân tình mời chàng về nhà để đền ơn, đến đây chúng ta đã thực sự cảm động trước sự chân thành mà sâu sắc của cô gái này. Cái ơn đó không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả danh tiết của một người con gái, điều mà với một cô gái nó còn quan trọng hơn cả tính mạng.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
Và cũng chính từ tình huống gặp gỡ với con người hiệp nghĩa này, cảm kích trước ơn cứu mạng và phong thái hào hiệp trượng nghĩa của Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã lựa chọn tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với chàng trai này. Đến đây nó không đơn thuần chỉ là đền ơn đáp nghĩa nữa mà là sự thủy chung, gắn bó sâu sắc với người mà mình yêu thương. Những phẩm chất này sẽ ngày càng được bộ lộ sâu sắc và rõ nét vào những trích đoạn sau của tác phẩm.Có thể thấy rằng bên cạnh Lục Vân Tiên thì Kiều Nguyệt Nga cũng là nhân vật được khắc họa chân thực và đầy sống động với những nét đẹp tiêu biểu của người con gái trong xã hội phong kiến xưa. Hình tượng nhân vật nổi bật đến mức trở thành hình mẫu mà những sáng tác văn học trung đại trước và sau vẫn khó có thể vượt qua.
“Lục Vân Tiên” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Thành công của nhà thơ không chỉ về bối cảnh truyện, nội dung sâu sắc, nhân văn mà còn đặc biệt thành công trong xây dựng nhân vật. Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên, nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã được nhà thơ khắc họa một cách sinh động, chân thực.
Trong chuyến đi về Hà Khê, Kiều Nguyệt Nga phải đối mặt với nạn cướp bóc nguy hiểm từ “bớ đảng hung đồ”. Là thân gái yếu ớt nên khi bị bọn hung đồ chặn cướp nàng đã rất hoảng sợ và không biết làm gì. Rất may mắn khi đó nàng đã được Lục Vân Tiên hành động trượng nghĩa cứu giúp, những lời nói và hành động của Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên sau đó đã bộc lộ phẩm chất đoan trang, dịu dàng có học thức của một tiểu thư khuê các Kiều Nguyệt Nga:
“Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay”
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Những lời nói đó của Kiều Nguyệt Nga đã cho thấy rừng nàng là một người có học thức, lời ăn tiếng nói nhã nhặn, dịu dàng, kể lể sự tình của mình. Cách “thưa rằng” của nàng đầy chuẩn mực, tôn trọng, thể hiện con nhà gia giáo có học thức. Nàng cũng rất biết điều phải trái, khi thấy Lục Vân Tiên hành hiệp cứu mình đã mang ơn mà “Cúi đầu trăm lạy”, nàng thể hiện sự biết ơn của mình với Lục Vân Tiên bằng cái cúi đầu ấy, đây là hành động rất đúng đạo lí đồng thời thể hiện cách suy nghĩ sâu sắc và chu đáo của nàng. Bên cạnh màn đối đáp với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga hiện lên còn là một cô con gái rất có hiếu:
“Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”
Nàng hiện lên là một người con gái rất có hiếu, luôn nghe lời cha, để làm theo mong muốn của cha thì nàng cũng chẳng ngại thân gái phải ngàn dặm xa xôi. Hình tượng Kiều Nguyệt Nga là hình mẫu lí tưởng của người con gái trong xã hội phong kiến đương thời, vừa nết na hiền thục, vừa có học thức lại hiếu thảo. Bên cạnh đó Kiều Nguyệt Nga còn là một người đầy chính nghĩa, đề cao tư tưởng đền ơn báo nghĩa đối với ân nhân của mình.
Trước ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga tha thiết muốn được đền ơn và tỏ lòng mời Lục Vân Tiên về nhà cùng để tiện bề báo đáp “Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”. Kiều Nguyệt Nga lại một lần nữa quỳ lạy để thưa với Lục Vân Tiên “Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”, thể hiện tấm lòng chân thành sâu sắc của nàng. Vốn là tiểu thư đài các mà Kiều Nguyệt Nga lại xưng mình là “tiện thiếp” thể hiện chuẩn mực khiêm nhường và từ tốn của nàng. Ngoài tình nghĩa ra, trong cuộc đối đáp với Lục Vân Tiên ta nhận thấy Kiều Nguyệt Nga có tài năng văn thơ hết mực tài hoa và tinh tế, thể hiện rõ nàng có “tài sắc vẹn toàn”, học thức tinh thông.
“Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu
Xuống tay liền tả tám câu năm vần”
Chẳng cần chau chuốt về từ ngữ hình ảnh, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ nên bức chân dùng của người thiếu nữ Kiều Nguyệt Nga đầy chân thực, gần gũi, mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu và của nền văn học Việt Nam thế kỉ 19. Bên cạnh việc khắc họa nhân vật chính Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu cũng xây dựng thành công nhân vật Kiều Nguyệt Nga, nhân vật nữ chính của truyện.
Ở đoạn trích này, nhân vật Kiều Nguyệt Nga dường như không được miêu tả gì. Phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Kiều Nguyệt Nga được tác giả thể hiện qua lời lẽ chân thành mà nàng giãi bày với Lục Vân Tiên. Đó là lời lẽ của một tiểu thư khuê các, thùy mị, nết na và có học thức, hiểu biết lễ nghi.
Trước hết, qua lời nói, trước hết ta thấy, Kiều Nguyệt Nga là con gái nhà quan, địa vị khác hẳn Lục Vân Tiên. Nghĩa là nàng được giáo tập kĩ lưỡng lễ nghi và học thức. Điều đó cho thấy rất rõ, trong cảnh hỗn độn, nguy cấp, nàng vẫn giữ nghiêm lễ giáo, tuân thủ nghiêm ngặt chuẩn mực về phẩm hạnh của người phụ nữ, không vì sợ hãi mà bước ra ngoài để cho bọn cướp sỉ mạ dung nhan. Đến khi, chỉ còn lại Lục Vân Tiên, nàng cũng hết sức giữ gìn khuôn phép.
Kiều Nguyệt Nga còn là một cô gái thùy mị, nết na, nhan sắc phi thường. Nàng ăn nói dịu dàng, mực thước. Nàng trình bày rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng:
“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
“Con này tỳ tất tên là Kim Liên.
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
“Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
“Sai quân đem bức thư về,
“Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
“Làm con đâu dám cãi cha,
“Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!”.
Cách xưng hô của nàng vừa trân trọng, vừa khiêm nhường: không vì con nhà quyền quý mà có lời lỗ mãng như bao tiểu thư con nhà quan khác. Lời nói của nàng dịu dàng, đằm thắm và hết sức thành khẩn muốn được đền đáp công ơn Lục Vân Tiên. Khi Lục Vân Tiên từ chối, hiểu rõ người anh hùng, nàng cũng không níu kéo nhiều lời. Cử chỉ của nàng cũng hết sức cung kính:
“Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiên thiếp lạy rồi sẽ thưa”.
Khấu đầu trước ân nhân, hạ mình cung kính càng làm cho nàng thêm tôn quý. Không những dung nhan kiều diễm mà cốt cách cũng rất thanh cao: “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khắc dạ ơn sâu là điều mà Kiều Nguyệt Nga mong muốn. Trước hết nàng muốn thể hiện lòng biết ơn bằng lễ nghĩa. Sau đó là đề cao:
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
Lục Vân Tiên không những giải được một mối nguy mà còn cứu cả đời trong trắng của người con gái. Đối với người con gái, điều đó còn quý hơn cả tính mạng. Ơn nghĩa ấy trời cao, biển rộng, sông dài mới sánh nổi. Bởi thế mà, nếu không đền đáp được, nàng hãy còn băn khoăn, không thể an tâm. Làm người như thế là đã đủ trọn đạo nghĩa rồi:
“Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng người”.
Báo đáp ơn sâu, đó là điều mà Kiều Nguyệt Nga mong muốn. Còn sự thật, Lục Vân Tiên đã khước từ tất cả. Bản tính anh hùng trượng nghĩa, không vì một chút cảm tình mà làm điều tầm thường. Kiều Nguyệt Nga thấu hiểu điều đó nên càng thêm cảm phục. Đó cũng là hình mẫu mà nàng đang mong ước. Bởi thế, từ đó, nàng nguyện gắn cuộc đời mình với Lục Vân Tiên đời đời kiếp kiếp. Suy nghĩ về Lục Vân Tiên thời nay qua hai câu thơ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Truyện Lục Vân Tiên có kết cấu truyện và tình tiết rất giống với truyện cổ dân gian về người tài giỏi. Kết cấu truyện dân gian thường xoay quanh cuộc đời một người một người trai tài giỏi, trong một lần tình cờ cứu được cô gái xinh đẹp. Từ đó, họ bén duyên nợ với nhau. Chàng trai sau bao khó khăn, thử thách, lập nhiều chiến công, bảo vệ lẽ phải đã tìm lại được cô gái. Từ đó họ sống hạnh phúc với nhau.
Kết cấu truyện Lục Vân Tiên thể hiện niềm mong ước của tác giả về một người anh hùng hiệp nghĩa ra tay trừ gian, dẹp loạn, bảo vệ cuộc sống yên bình. Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, được chắt lọc từ ngôn ngữ đời sống, không hề được trau chuốt, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao động khiến cho truyện Lục Vân Tiên nhanh chóng được tiếp nhận trong khắp Nam Bộ. Giọng điệu thơ liên tục thay đổi lúc gấp gáp, khẩn trương (lúc Lục Vân Tiên đánh cướp), lúc nhẹ nhàng, chậm rãi (đoạn Lục Vân Tiên trò chuyện với Nguyệt Nga) phù hợp với không khí truyện. Cái “thô sơ và hực sáng” ấy của ngôn ngữ văn học đã được thể hiện trọn vẹn trong những tác phẩm thơ của Nguyễn Đình Chiểu.
Kiều Nguyệt Nga là đại diện sinh động cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, vừa đẹp đẽ ở hình thức, vừa cao quý ở tâm hồn, cốt cách. Có lẽ, Nguyễn Đình Chiểu đã dành hết những mến yêu khi xây dựng nhân vật này. Ông tỏ ra trân trọng người phụ nữ trong xã hội và luôn mong muốn họ có một cuộc sống tốt đẹp, xứng đáng với giá trị vốn có của họ. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong truyện "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" hiện lên qua cách cư xử, đối đáp và hành động tạ ơn đáp nghĩa đối với ân nhân cứu mạng của mình. Nàng cũng chính là nhân vật nữ chính tiêu biểu cho các nhân vật xưa có trong truyện Nôm hay văn học dân gian của dân tộc.
Qua lời đối đáp của nàng đối với Lục Vân Tiên ta thấy nàng là một cô gái xinh đẹp, ngoan ngoan, hiểu biết và có quyền quý, nết na, thùy mị, có học qua cách xưng hô với nàng với Lục Vân Tiên:
"Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa."
Nàng tư xưng mình là "tiện thiếp" và gọi "quân tử" đối với Lục Vân Tiên. Cách xưng hô của nàng cho thấy nàng là cách nói văn vẻ, mực thước, dịu dàng. Thể hiện nàng là một người con gái hiếu thảo, luôn biết vâng lời cha mẹ:
"Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành."
Hay khi nàng nói về chính bản thân mình thể hiện là một cô gái nết na, thùy mị, nếu như không được chàng cứu giúp thì cái trinh tiết của người gái như thiếp cũng không còn, chỉ còn nước là chết thôi, nàng là người coi trọng trinh tiết, coi trọng danh dự
"Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần."
Cách mà Kiều Nguyệt Nga trình bày với Lục Vân Tiên thật rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện niềm cảm kích chân thành đối với ân nhân cứu mạng:
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,....
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Nàng còn là người biết trân trọng tình nghĩa, luôn nhớ ơn. Vì đối với nàng giữ được mạng sống là quan trọng rồi nhưng giữ được trinh tiết còn quan trọng hơn, vì thế khi được cứu mạng thì nàng đã cố gắng để trả ơn ân nghĩa cho Lục Vân Tiên. Và nàng hiểu rằng vàng bạc, châu báu, vinh hoa phú quý Lục Vân Tiên không nhận, nên nàng đã dứt khoát và quyết định đem cuộc đời của mình để trả mối ơn nghĩa này dù nàng đã được cha sắp đặt, tìm nơi chốn cho mình trước rồi.
Qua lời nói, cử chỉ và hành động của nàng ta thấy Kiều Nguyệt Nga hội tụ những phẩm chất và đức tính cao đẹp của người con gái thời phong kiến: xinh đẹp, nết na, thùy mị, có học, hiểu biết, vâng lời cha mẹ, ngoan ngoãn, ăn nói nhẹ nhàng, là người trọng ân nghĩa. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người luôn đặt ân nghĩa lên hàng đầu, coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức.
Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện nói về nhân vật Lục Vân Tiên – người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp. Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện được rõ con người và nhân cách của Lục Vân Tiên.
Trên đường đi thi, Vân Tiên bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoàng hành, không kịp suy nghĩ, hay đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy mà ra tay cứu giúp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng…
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Trong hoàn cảnh gấp rút cứu người ấy chàng không kịp chuẩn bị gì mà chỉ tiện tay bẻ cành cây bên đường làm vũ khí chiến đấu với bọn cướp. Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói. Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng. Sống là phải hướng đến bảo vệ cho người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ, đày đọa cuộc sống của họ. không cho phép những hành động “hồ đồ” xâm hại tới những con người lương thiện. Đoạn thơ đã cho thấy Vân Tiên không chỉ có tình thương với con người mà còn có tinh thần trách nhiệm cao cả. Điều này đã được thể hiện trong cảnh chàng chống lại với lũ cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông…
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng đương Dang. Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, hoảng loạn bỏ chạy, đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ hại người. Sau khi đã dẹp tan bọn cướp, chàng Vân Tiên liền tới gần hỏi thăm người bị nạn:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này”
Vân Tiên không chỉ cứu giúp mà còn hết lòng quan tâm đến người gặp nạn. Chàng hỏi thăm ân cần, động viên và giúp người bị nạn trấn tĩnh tinh thần. Khi trò chuyện với người bị nạn là Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã biết là nữ nhi nên đã nhanh miệng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Câu nói ấy đã thể hiện Lục Vân Tiên là một người rất coi trọng đạo lý và khuôn phép xã hội. Không muốn sự gặp mặt sẽ ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng vì “nam nữ thụ thụ bất thân”. Có thể thấy Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức, hơn thế chàng còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Chàng không muốn nhận sự cúi lạy của Kiều Nguyệt Nga cũng như sự báo đáp của nàng, bởi hành động của chàng xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích được đền đáp. “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga đã khiến cho người đời rất đáng trân trọng và noi theo:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đến đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài. Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lý tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức ra tay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang” . Hình ảnh chàng trong trận chiến hiện lên thật đẹp đẽ, như một dũng tướng phá tan kẻ thù. Hành động đó cũng cho thấy bản chất, tấm lòng cao thượng của chàng,vì nghĩa quên mình, một vẻ đẹp tiêu biểu của những người anh hùng.
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sự với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến giữa nam và nữ luôn phải giữ khoảng cách, “nam nữ thụ thụ bất thân”, câu nói của Lục Vân Tiên tuy có phần nặng nề lễ giáo phong kiến nhưng cho thấy chàng là người cư xử hết sức đúng mực. Đồng thời nó cũng xuất phát từ chính đức tính khiêm nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” . Việc mà chàng làm như là một việc đương nhiên, mà bất cứ ai thấy cũng sẽ hành động như vậy, bởi vậy, Vân Tiên không muốn nhận cái lạy tạ của người con gái và từ chối lời đề nghị về nhà của Kiều Nguyệt Nga.
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường “tiện thiếp”, cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: “Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đẩy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Nhân vật Lục Vân Tiên - người anh hùng chiến đấu vì nghĩa, văn võ song toàn do nhà nho mù lòa Nguyễn Đình Chiểu sáng tác đã để lại trong lòng người đọc một cái nhìn tốt đẹp về giá trị nhân đạo, một quan niệm sống nhân nghĩa cao đẹp.Đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sư của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp :giàu lòng thương người, dũng cảm và nghĩa hiệp.Bản tính anh hùng nghĩa hiệp là đức tính tốt đẹp nhất của Vân Tiên. Từ giã thầy chàng hăm hở xuống núi về kinh đô ứng thí. Trên lộ trình gian nan ấy chàng bất ngờ gặp cảnh dân dắt díu nhau chạy loạn, kêu khóc thảm thương, chàng hứa :
“Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.”
Căm giận lũ bất lương, Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đứng về phía nhân dân, phía người bị nạn, bẻ cây làm gậy xông thẳng vào bọn cướp Phong Lai hung dữ :
“Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”
Đạo lý thương người như thể thương thân thấm nhuần trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí. Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”. Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy :
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.”
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng. Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch :
“Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý : kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng.Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo. Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động. Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, "Vân Tiên nghe nói liền cười” – nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp. Chàng cười bởi chàng quan niệm :
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.”
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng. Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng quan niệm
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm : “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ”. Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân ” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng. Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta.Bằng giọng thơ phóng khoáng và ngôn từ bình dị, đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Có thể nói, Lục Vân Tiên đúng là nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng cứu nước giúp đời của mình. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là phần đầu của tác phẩm kể về cuộc gặp gỡ tình cờ của Lục Vân Tiên khi nhìn thấy một người con gái gặp nạn anh đã ra tay tương trợ mà không hề suy nghĩ tới an toàn của bản thân. Chính hành động dũng cảm này của Lục Vân Tiên đã là sự mở đầu cho một chuyện tình sâu sắc, nhưng nhiều éo le sau này.
Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, nhân vật Lục Vân Tiên được phác họa thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp, vừa giàu lòng thương, vừa hào hiệp, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì việc nghĩa mà không hề tính toán. Hình ảnh Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện Nôm truyền thống: một chàng trai tài giỏi cứu một cô gái thoát khỏi tình huống hiểm nghèo rồi từ nhân nghĩa dẫn đến tình yêu.Mô típ kết cấu đó thể hiện mong ước của tác giả và người dân trong thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc, nhân dân trông chờ vào những người tài đức, dám đưa tay cứu nạn giúp đời. Lục Vân Tiên là nhân vật lí tưởng của tác phẩm, thể hiện ước mơ của tác giả về người anh hùng trong cuộc sống đương thời. Chàng vừa tròn 16 tuổi, lòng đầy hăm hở bước vào đời, muốn lập công danh, giúp đời, giúp người. Gặp bọn cướp phong lai là thử thách đầu tiên, cũng là cơ hội để chàng bộc lộ phẩm chất anh hùng.Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Giữa đường Lục Vân Tiên bất ngờ gặp cảnh nhân dân dắt díu nhau chạy trốn. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp để cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương:
“Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi nào”
Căm giận lũ bất lương, chàng đứng về phía nhân dân, lên tiếng lên án hành động dã man của chúng:
“Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Hành động của chàng hoàn toàn vì nghĩa, đúng với truyền thống đạo lí của nhân dân ta: “Thương người như thể thương thân”. Tình thương người đã nâng cao ý chí và lòng dũng cảm của chàng trai họ Lục. Lũ cướp đông, gươm giáo sáng ngời, tên tướng cướp mặt đỏ phừng phừng đầy sát khí, hắn dữ tợn và có sức khỏe muôn người khôn địch. Vậy mà chàng thư sinh không một tấc sấc trong tay, chỉ có được cây gậy bẻ được bên đường làm vũ khí, vẫn dũng cảm xông vào đánh nhau với bọn cướp. Một mình một gậy, chàng tả đột hữu xông như giữa chốn không người. Tác giả đã so sánh chàng với người anh hùng Triệu Tử long nổi tiếng thời Tam Quốc:
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương giang”
Trong cuộc chiến không cân sức ấy, Vân Tiên đã bộc lộ là người có sức khỏe, võ nghệ cao cường và tài năng của một dũng tướng. Hình ảnh so sánh càng làm nổi bật tính cách nghĩa hiệp và vẻ đẹp của chàng. Một mình chống lại bọn cướp cứu dân làng, Lục Vân Tiên là hiện thân của con người luôn hành động vì nghĩa lớn. Sức mạnh của Vân Tiên là sức mạnh của chính nghĩa, của nhân dân, vì thế nó vô địch:
“Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng lập tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính, hấp dẫn, chàng trai thư sinh trở thành người dũng tướng. Đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc gặp gỡ giữa người đẹp và anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người, Vân Tiên động lòng an ủi: “Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la”. Rồi chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên tuổi đến gia cảnh, nguyên cớ gặp nạn. Cách cư xử của chàng thật tế nhị, lời nói chân tình: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai”. Ẩn chứa trong lời lẽ mộc mạc là tấm lòng thành thực, sự quan tâm lo lắng, chân tình, cảm động. Lời lẽ tuy thể hiện đạo đức phong kiến có phần cứng nhắc nhưng nó đáng được nể trọng bởi sự từ chối cái lạy tạ ơn của hai người. Vẻ mặt của Lục Vân Tiên ngời sáng khi Kiều Nguyệt Nga tỏ ý muốn mời chàng về quê để cha báo đức thù công: “Gẫm câu báo đức thù công. Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi". Vân Tiên nghe nói liền cười, một nụ cười rất tươi, thanh thản, biểu lộ một tâm hồn cao cả, vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem hành động của mình là một hành động nhân nghĩa là một lẽ đương nhiên, một tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che cho người bị áp bức. Đằng sau nụ cười hồn nhiên ấy là lời từ chối cũng rất đáng yêu:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Hai câu thơ thể hiện một phương châm của lẽ sống: thấy việc nghĩa mà không là thì con người ấy không phải anh hùng. Đã là người anh hùng thì làm việc nghĩa một cách vô tư, tự nguyện. Việc từ chối sự đền ơn của Kiều Nguyệt Nga càng tô đậm thêm con người nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên. Tiên đề cao quan niệm cứu nhân độ thế, tiêu biểu cho đạo đức của nhân dân ta: “Trọng nghĩa khinh tài”. Thông qua thái độ của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu khẳng định một lẽ sống cao đẹp của người anh hùng thời xưa, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, hành động hướng tới nhân nghĩa, coi việc nghĩa ở đời là trách nhiệm cao cả, thiêng liêng.Hình tượng Lục Vân Tiên được khắc họa qua hành động, cử chỉ, lời nói. Tác giả đặt nhân vật vào hành động cụ thể để nhân vật bộc lộ tính cách, tình cảm của mình. Từ cử chỉ, hành động, ngôn ngữ của Vân Tiên đều rất đẹp, mang phong thái của anh hùng thời xưa. Chiến công của Vân Tiên mãi mãi là bài ca hùng tráng để khích lệ, động viên mỗi con người vô tư, hào hiệp xả thân vì nghĩa. Hình tượng người anh hùng ấy là tấm lòng nhân nghĩa mà nhà thơ Nguyễn đình Chiểu để lại cho đời sau.
Lục Vân tiên là một anh hùng lý tưởng không chỉ của riêng Nguyễn Đình Chiểu mà còn cả người dân Nam Bộ. Hơn một trăm năm qua, người anh hùng ấy luôn được nhân dân ta yêu mến, tấm gương Lục Vân Tiên sáng chói mãi như một minh chứng hùng hồn của sức mạnh thơ ca, của truyện thơ mà nhà thơ để lại.
Truyện Lục Vân Tiên là truyện Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa, phê phán thói phản, trắc, đố kị, bất nhân bất nghĩa. Lục Vân Tiên là nhân vật anh hùng, văn võ toàn tài, thể hiện trọn vẹn ước mơ, lí tưởng của tác giả. Đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn kể về chiến công đầu tiên chàng trai họ Lục và cũng là cuộc gặp gỡ kì lạ đầu tiên giữa hai nhân vật chính trong truyện, một hình thức giới thiệu nhân vật thường thấy trong lối tự sự. Đoạn văn đã thể hiện nổi bật khí phách anh hùng và tinh thần nghĩa khí của Lục Vân Tiên, cũng như lòng biết ơn, lưu luyến của Kiều Nguyệt Nga.Sau khi từ biệt thầy học, lên đường lập nghiệp, Vân Tiên một mình đã qua mấy ngày đường đang tìm nơi trú chân và kết bạn thì gặp phải đám cướp làm cho dân làng tán loạn. Hỏi được nguyên nhân, Vân Tiên khảng khái xin nhận việc diệt cướp:
“Tôi xin đem sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Mặc cho mọi người khuyên can, ngăn cản, Vân Tiên vẫn một lòng xông ra.
Đoạn mở đầu với việc Vân Tiên tìm vũ khí:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
Chiếc gậy bằng cây là một vũ khí quá thô sơ trước một đảng cướp khét tiếng: nhưng với vũ khí đó càng chứng tỏ tinh thần anh dũng của Vân Tiên.Cái cách đánh giặc của chàng cũng công khai, đàng hoàng, quang minh, chính đại như các anh hùng hảo hán: gọi tên, trách mắng. Tên giặc điên cuồng kêu quân vây bủa. Vân Tiên một mình tả đột hữu xung:
“Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thương vong.”
Trận đánh kết thúc nhanh chóng như trong truyện cổ tích. Người đọc chưa kịp hồi hộp mà quân giặc dường như chỉ chờ Vân Tiên đến là bỏ chạy và chịu chết. Đó không phải trận đánh của vũ lực mà là trận đánh chính nghĩa chống gian tà.Sau trận diệt cướp là cuộc gặp gỡ với người đẹp gặp nạn. Điều thú vị là cuộc gặp gỡ này chỉ có toàn đối thoại, người hỏi, người đáp ngoài ra không có miêu ta. Hình như Vân Tiên chỉ nắm bắt thông tin bằng kênh nghe: Vân Tiên “Hỏi: AI ở trong xe này?”. Rồi lời đáp và than khóc:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
...
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”
Tiếp theo là Nguyệt Nga “Thưa rằng” một thôi. Rồi:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Tuy chỉ là hỏi đáp nhưng lời hỏi của Vân Tiên chứng tỏ chàng quang minh chính đại. Lời hỏi dõng dạc: muốn phân định ranh giới nam nữ rõ ràng, muốn biết rõ lí lịch cô gái, nguyên nhân mắc nạn phân biệt thứ bậc tớ thầy. Ngay hành động anh hùng chàng cũng không muốn nhập nhằng với việc làm ơn. Đó là một nhân cách sáng ngời. Nụ cười của chàng mới thiệt hiền lành. Chỉ có hỏi đáp mà tính cách Vân Tiên hiện lên thật đẹp đẽ.Câu trả lời của Nguyệt Nga cũng thể hiện phẩm chất hiền thục của nàng. Nàng một lòng vâng theo cha mẹ:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
...
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Lúc nào nàng cũng muốn làm theo đức hạnh. Chỉ mấy nét mà tác giả đã cho thấy một người nết na, đức hạnh theo quan niệm truyền thống.Tóm lại đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thực chất là đoạn thơ giới thiệu nhân vật. Qua đoạn này, phẩm chất cao đẹp, đức hành của hai nhân vật đã được bộc lộ, làm nền tảng cho tình yêu hai người về sau. Lời văn mộc mạc giản dị mà ý tình sâu nặng càng đọc càng thấy ý nghĩa sâu sắc và chắc nịch. Nhân vật nào cũng sống theo những lời day đạo đức cổ truyền. Lục Vân Tiên thì “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng”, theo câu “nam nữ thụ thụ bất thân”: “nàng là phận gái ta là phận trai”, rồi thoe câu “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Kiều Nguyệt Nga thì theo câu “Làm con đâu dám cãi cha”, lại theo câu “báo đức thù công”. Ta có thể nói trong các truyện Nôm, đây là những nhân vật “cổ điển nhất trong các nhân vật “cổ điển”.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kỳ về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ. Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
...
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi (1843), nhưng 6 năm sau (1849) ông bị mù.
- Sau đó, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân.
- Trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia phong trào kháng chiến cùng các vị lãnh tụ như bàn bạc việc đánh giặc hay sáng tác văn học để khích lệ tinh thần nhân dân. - Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi Nam Kỳ bị giặc chiếm, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre).
- Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu truyền bá đạo lý làm người và cổ vũ tinh thần yêu nước.
- Một số tác phẩm nổi tiếng: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định…
1. Vị trí của đoạn trích:
- Đoạn trích nằm ở phần đầu truyện “Lục Vân Tiên”. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ trước khi lên kinh đô thi, gặp bọn cướp đang hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình làm gậy xông vào đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
2. Bố cục
- Phần 1: Lục Vân Tiên đáng cướp
- Phần 2: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
3. Nội dung chính
Đoạn trích là cảnh Lục Vân Tiên đánh dẹp bọn con đồ. Vân Tiên trên đường lên Kinh Đô dự thi, chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành. Chàng đã bẻ cây bên đường làm gậy. Xông thẳng vào những kẻ trong tay có vũ khí. Chàng đã đánh tan chúng, cứu được Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
4. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả
5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.
6. Giá trị nội dung
Qua ngôn ngữ đối thoại Nguyễn Du đã làm nổi bật tính cách nhân vật Thuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư. Đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán là sự thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành”.
7. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại
- Từ ngữ mang tính nôm na, bình dân
- Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian
- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.