Sơ đồ tư duy bài Thúy Kiều báo ân báo oán (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 8 2.3 K 3

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Thúy Kiều báo ân báo oán Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Thúy Kiều báo ân báo oán dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:

THÚY KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN

A. Sơ đồ tư duy Thúy Kiều báo ân báo oán

1

B. Tìm hiểu Thúy Kiều báo ân báo oán

I. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: Truyện thơ Nôm + Thể thơ: lục bát

2. Xuất xứ: Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai của “Truyện Kiều” (Gia biến và lưu lạc).

3. Bố cục: 2 phần

- Phần 1: (12 câu thơ đầu): Thúy Kiều báo ân

- Phần 2: Còn lại: Thúy Kiều báo oán

4. Giá trị nội dung

Qua ngôn ngữ đối thoại Nguyễn Du đã làm nổi bật tính cách nhân vật Thuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư. Đoạn trích “Thuý Kiều báo ân báo oán” là sự thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành”.

5. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại.

- Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian.

- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.

II. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Thúy Kiều báo ân

- Người đầu tiên mà Thúy Kiều muốn báo đáp là Thúc Sinh.

- Với Thúc Sinh, tình nghĩa “nặng trọng như núi” là người đã cứu Kiều ra khỏi thanh lâu, người đã rất mực yêu thương, đối xử với Thúy Kiều như một người vợ đích thực. “Lâm Tri chàng còn nhớ không?” chính vì thế chàng trở thành người đầu tiên mà nàng báo ân. Lời Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh mới chân thành, tha thiết làm sao. Dùng điển tích “Sâm Thương” để nói về sự biết ơn đối với Thúc Sinh đã thể hiện được tấm lòng chân thành ấy đối với “cố nhân”.

2. Thúy Kiều báo oán

- Vị thế: 

+ Kiều là người xét xử

+ Hoạn Thư là kẻ bị xét xử

- Thái độ và lời nói của Kiều:

+ Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà Hoạn Thư. Vừa thấy Hoạn Thư, “nàng đã chào thưa”, vẫn gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”. Cả hành động và lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.

+ Không chỉ mỉa mai, trong lời nói của Kiều còn có cả giọng đay nghiến: câu thơ như dằn ra từng tiếng, từ ngữ được lặp lại nhấn mạnh (dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt, càng oan trái…). Kiều đưa ra những lời nhận xét đay nghiến, vạch trần bộ mặt của Hoạn Thư một nhân vật ghê gớm và khôn ngoan.

⇒ quyết tâm trừng trị Hoạn Thư

- Thúy Kiều đã kiên nhẫn khuyên Hoạn Thư nên giữ chừng mực trong cách ăn nói của mình, đừng làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng. 

- Những lời xin tội của Hoạn Thư ngẫm ra thì cũng có lý, có tình, chỉ vì khen quá nên Hoạn Thư mù quáng. Trong cuộc đời này cảnh chồng chung không ai thích và chẳng ai muốn chia sẻ chồng mình với người phụ nữ khác nên hành động của Hoạn Thư cũng có thể tha thứ được.

⇒ Tấm lòng vị tha, nhân hậu, thấu hiểu lẽ đời.

- Thái độ và lời nói của Hoạn Thư: Trước khí thế bề trên cùng những lời lẽ đay nghiên của Kiều, Hoạn Thư mới đầu còn tỏ ra sợ hãi. Nhưng ngay lập tức, bản tính vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của “họ Hoạn danh gia” đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội cho bản thân với những lập luận lí lẽ sắc sảo:

+ Thứ nhất: Tôi cũng là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình⇒ đưa ra vấn đề có tính chất thông thường, không thể bác bỏ.

+ Thứ hai: Tôi cũng đã đối xử tốt với cô khi ở gác Quan Âm để viết kinh, khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng cho người đuổi theo⇒ Kể công, khơi gợi lòng thương của Thúy Kiều.

+ Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung chẳng ai dễ nhường cho ai⇒ Mong sự cảm thông vì hoàn cảnh trớ trêu..

+ Thứ tư: Nhưng dù sao, tôi cũng đã gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lòng khoan dung, độ lượng của cô⇒ Nhận tội và đề cao Thuý Kiều 

⇒ Qua sự đối đáp, biện hộ của mình trước Thúy Kiều, biến mình từ thế bị động sang chủ động đã cho thấy Hoạn Thư là một người tinh ma xảo trá như thế nào và đặc biệt bà ta là một người “sâu sắc nước đời”, hiểu các thể loại người để đối phó và tìm cách lươn lẹo.

- Kết thúc màn báo ân báo oán: Lúc đầu ai cũng nghĩ Thúy Kiều sẽ phải hành hạ lại Hoạn Thư cho hả dạ những ngày nàng tủi nhục, cay đắng. Nhưng trước những lời cầu xin có tình, có lý của Hoạn Thư, Thúy Kiều cảm thấy siêu lòng và nàng quyết định tha bổng cho Hoạn Thư.

III. Bài phân tích

Trải qua hết nạn này đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng như nàng đã buông xuôi trước số phận. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất chẳng những đã cứu thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh mà còn đưa nàng bước lên địa vị của một quan tòa quyền quý. Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa, vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân. 

Đoạn trích chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh báo ân; những câu thơ còn lại là cảnh Kiều báo oán. Trước hết là báo ân, trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm “giữ giàng”:

Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên

Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ mời rất trọng vọng cho gươm mời đến Thúc Lang. Kiều nói về nghĩa, về chữ tòng, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là “người cũ”, là “cố nhân” mà Kiều “há dám phụ”. Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng, nghĩa nặng nghìn non... Kiều đã dùng một số từ như: “nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân” cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh rất giàu ân nghĩa thủy chung. Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật “hậu”, khẳng  định cái nghĩa đối trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân.

Tạ lòng để xứng báo ân gọi là.

Sau đó, Kiều dùng lời lẽ sắc sảo để nói về “vợ chàng”. Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. “Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ đời” có phải như thế không? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cành “gươm lớn giáo dài”

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc “kẻ cắp bà già gặp nhau” hay “kiến bò miệng chén”. Cách nói ấy vừa tạo ngữ điệu đanh hơn vừa theo quan điểm “ác giả ác báo” của nhân dân nên mượn luôn lời ăn tiếng nói của nhân dân để diễn đạt. Từ cách nói này để cô chuyển sang Hoạn Thư – báo oán. Đoạn này gồm những lời đối thoại trực tiếp giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trong hai đoạn lời nói của Kiều lộ rõ thái độ mỉa mai với Hoạn Thư. Nàng vẫn cố tình giữ thái độ và cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô trong nhà họ Hoạn:

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.

Thái độ “chào thưa” hay gọi Hoạn Thư là “tiểu thư” khi giữa hai người đã có sự thay đổi ngôi thứ, nhất là vào lúc này Kiều đang ngồi ở ghế xử án và Hoạn Thư là kẻ có tội thì điều đó quả là một đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Nhưng không dừng lại ở đó sang những câu nói sau giọng của Kiều đã dần thay đổi, giọng đay nghiến, phẫn uất càng ngày càng tăng tiến. Người ta như cảm nhận được giọng nói rành rọt từng tiếng đang dằn ra, nhấn mạnh:

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.

Cách nói này quả là xứng với lối đối đáp “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” nếu không cái mụ nham hiểm giết người không dao ấy lại lấn lướt như trước kia Kiều đã từng chịu trận. Đến đây ta thấy thái độ quyết trừng trị Hoạn Thư của Kiều cho bõ những ngày tháng Kiều bị mụ ta hành hạ. Vậy liệu Hoạn Thư đối phó thế nào trước thái độ ấy.

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

Quả thật là khôn ngoan đến giảo hoạt. Nhận thấy điều bất lợi đang đến gần mụ ta đã cố gắng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”:

Rằng: Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Một câu nói thật khôn khéo đến mức tinh vi. Thứ nhất mụ nói về tâm lý chung của phụ nữ: ghen tuông là chuyện thường tình, cách nói này vừa để kêu gọi lòng trắc ẩn của người đàn bà trong Kiều vừa có tính phổ quát. Thứ hai ngôn ngữ sắc như dao “chút phận” – hạ thấp mình thành nhỏ bé, “thường tình” – đó là chuyện bình thường chứ không đáng tội: “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Qua miệng lưỡi biện bạch của mụ, tội nhân đã trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Mà đã là nạn nhân ai lại nỡ trừng trị. Hoạn Thư quả là một luật sư tự bào chữa cực giỏi. Sau đó như lẽ tất yếu để “lấy lòng” Thúy Kiều, Hoạn Thư đã “kể công” với Kiều: cho nàng ra gác Quan Âm viết kinh, không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Cuối cùng Hoạn Thư nhận tội và trông chờ tấm lòng bao dung, độ lượng của Kiều:

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

Quả thực đó là một bài đối thoại được sắp xếp chặt chẽ, logic, hợp lý. Qua lời đối thoại ấy Kiều phải thừa nhận đó là con người: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Chính những lời nói đó khiến cho Kiều bị thuyết phục và phải phân vân:

Tha ra thì cũng mang đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Hoạn Thư đã biện bạch đến thế nếu Kiều quyết trả thù thì lại trở thành người nhỏ nhen, ích kỷ. Và thái độ của Kiều đã thay đổi so với đoạn trước. Hoạn Thư đã biết lỗi “Đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”.

         Như vậy, thông qua đoạn trích này, người đọc không chỉ được chứng kiến cảnh phân xử đầy li kì, hấp dẫn của Thúy Kiều mà thông qua ngòi bút đầy tinh tế, tài năng của Nguyễn Du ta còn có thể hình dung về nhân vật một cách sắc nét, chân thực. Đây quả là một bức kí họa chân dung xuất sắc của một bậc kì tài.

IV. Một số lời bình về tác phẩm

1. “Thường tình người ta cái oán ghi sâu hơn cái ân, trả oán được nghĩ đến trước trả ân. Đó là cảm tính theo tâm tí tự nhiên. Ở đây ngược lại, nguyên do phẩm chất Thúy Kiều, con người trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình, nên cái ân trọng hơn cái oán, đáng đặt ra trước cái oán. Nguyên do cũng còn ở lẽ công bằng của nhân dân: nhân dân khi tỉnh táo đúng với bản chất, bao giờ cũng quý trọng ân nghĩa hơn hằn thù, thậm chí ân nghĩa dù nhỏ bao nhiêu cũng ghi lòng, “một chút cũng đền”. 

(Lê Trí Viễn, Những bài giảng văn ở đại học, NXB Giáo dục, 1992)

Sơ đồ tư duy Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

 

Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả, đoạn trích:

+ Nguyễn Du (1765 – 1820) là một người có hiểu biết sâu rộng, vốn sống phong phú.

+ Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là đoạn trích rất đặc sắc tả lại cảnh Thuý Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư.

2. Thân bài

* Khái quát về đoạn trích:

- Vị trí đoạn trích: Thúy Kiều báo ân báo oán được trích từ phần sau đoạn “Kiều gặp Từ Hải” (từ câu 2289 đến câu 2450 của Truyện Kiều)

- Nội dung chính: Miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn (Thúc Sinh), đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác (Hoạn Thư).

* Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh

- Thúc Sinh được mời đến trong cảnh oai nghiêm nơi Kiều xử án: "Cho gươm mời đến Thúc Lang"

- Kiều biết ơn Thúc Sinh

+ Đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh.

+ Cho nàng về làm vợ lẽ (dù phải chịu nhiều đau đớn hơn phận tôi đòi).

+ Trân trọng Thúc Sinh

- Kiều đền ơn Thúc Sinh: “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”.

- Nhắc đến những việc mà Hoạn Thư đã gây ra cho mình.

- Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ Hán Việt (chữ tòng, cố nhân, sâm thương), những điển cố, cách nói sang trọng, phù hợp với việc thể hiện lòng biết ơn.

- Cách cư xử tế nhị, khôn khéo của Thúy Kiều khi báo ân Thúc Sinh.

- Kiều là người có bản chất vị tha, thông minh, sáng suốt và sống có tình nghĩa.

* Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư

- Kiều và Hoạn Thư gặp nhau lần này trong vị thế đã thay đổi:

+ Vị thế của Thúy Kiều:

  • Lúc ở nhà Hoạn Thư là nô tì, vợ lẽ.
  • Giờ là phu nhân quan tòa (người xét xử)

+ Vị thế của Hoạn Thư:

  • Lúc trước là chủ nhà.
  • Giờ là bị cáo (người bị xét xử)

- Cử chỉ "chào thưa", cách xưng hô “tiểu thư” : thể hiện thái độ mỉa mai, đay nghiến, đe dọa với những hình phạt khủng khiếp đối với Hoạn Thư và danh gia nhà họ Hoạn.

- Thái độ của Hoạn Thư: tuy sợ nhưng vẫn tỏ ra là người khôn ngoan, gian xảo.

+ Đầu tiên, dựa vào cớ mình là phụ nữ hay ghen để gỡ tội.

+ Khôn khéo gợi lại những việc làm nhân nghĩa đối với Kiều: cho chép kinh ở Quan Âm Các, không bắt giữ khi Kiều bỏ trốn.

+ Tự nhận lỗi về mình.

- Hoạn Thư là một người khôn ngoan, quỷ quyệt, biết biến nguy thành an.

- Trước lí lẽ sắc bén của Hoạn Thư, Kiều đã:

+ Khâm phục tài trí, miệng lưỡi của Hoạn Thư.

+ Phân vân, khó xử.

+ Răn đe và tha bổng cho Hoạn Thư.

- Kiều là người độ lượng, khoan dung, vị tha và nhân hậu.

- Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ mang tính ước lệ và ngôn ngữ nôm na, bình dân, thành ngữ dân gian. Sự trừng phạt cái ác theo quan điểm nhân dân phải được diễn tả bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

* Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích

- Xây dựng những đoạn đối thoại đặc sắc

- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ

- Khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại

- Từ ngữ mang tính ngôn ngữ nôm na, bình dân

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.

3. Kết bài

- Tổng kết nghệ thuật 

- Nêu cảm nhận về đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.

Top 10 bài Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất (ảnh 1)

 

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 1

Đền ơn trả oán là một mô típ rất quen thuộc trong văn học dân gian, đặc biệt là trong các câu chuyện cổ tích. Người có công lao khó nhọc, ăn ở hiền lành, hay làm điều tốt thì sẽ được đền bù, kẻ ác sẽ bị trừng trị đích đáng. Đó là mơ ước của nhân dân ta.Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dựng lên một cảnh báo ân báo oán. Thế nhưng, khác rất nhiều so với các câu chuyện cổ tích, cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều không đơn giản là sự thể hiện khát vọng công lí của nhân dân. Sức hấp dẫn của đoạn trích thể hiện chủ yếu ở khả năng khắc hoạ tâm lí nhân vật của nhà thơ.

Cả đoạn trích gồm 34 câu với ba nhân vật, rất ít lời miêu tả, hầu như chỉ có lời Thuý Kiều nói với Thúc Sinh, lời qua tiếng lại giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư, vậy mà không chỉ chân dung, từ giọng điệu, tính tình của từng nhân vật đều được bộc lộ hết sức sinh động. Có thể dễ dàng nhận thấy trong đoạn trích có hai cảnh: báo ân và báo oán.Cảnh báo ân: Chàng Thúc Sinh khi được "gươm mời đến" thì "Mặt như chàm đổ, mình dường dễ run. Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa.Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng "gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân" bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào.Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều "báo ân" hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa:

“Nàng rằng: "Nghĩa nặng tình non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?

Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là...".

Video bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán

Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lí mà bằng cái tình của nàng. Điều này có vẻ như không hợp với cách nghĩ thông thường, không thoả mãn được một số bạn đọc khó tính nhưng chính ở đây lại làm bật lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nguyễn Du đã không xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo một công thức định sẵn.Ngược lại, ông đã tạo nên một nhân vật rất sinh động, rất đời thường. Kiều đã suy nghĩ, nói năng và hành động hoàn toàn hợp với phẩm chất và tính cách của nàng. Điều này càng được chứng minh rõ ràng hơn qua cảnh tiếp theo.Cảnh báo oán: Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư vợ Thúc Sinh. Mặc dù không trực tiếp đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh nhưng Hoạn Thư cũng là kẻ đã gây không ít đau khổ cho cuộc đời Kiều. Con người đã trở thành hình tượng điển hình cho sự ghen tuông ấy đã lặng lẽ cho người đến bắt nàng về, đã dựng cảnh trớ trêu: bắt nàng hầu rượu Thúc Sinh để mà hả hê sung sướng khi tận mắt chứng kiến nỗi cực nhục của cả hai người. Thuý Kiều hẳn không thể quên nỗi nhục hôm ấy, theo đó thì tội của Hoạn Thư đáng chết một trăm lần.

Thế nhưng Nguyễn Du đã không để cho lí trí của mình dẫn dắt sự việc một cách giản đơn. Ông âm thầm chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai người đàn bà (mà theo Thuý Kiều là "kẻ cắp, bà già gặp nhau"), thuật lại cuộc đấu khẩu của họ. Biệt tài của Nguyễn Du là khi chứng kiến và miêu tả cuộc đụng độ "nảy lửa" ấy, ông đã không thiên vị một ai, không đứng về phía nào. Ông để cho sự việc tự nó phát triển, từ đó đã tạo nên một trong những chi tiết nghệ thuật giàu chất sống, chất "tiểu thuyết" nhất của tác phẩm.Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ "thịt nát xương tan".

“Thuý Kiều đã khởi sự "báo oán" như thế nào?

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

...

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, "e lệ nép vào dưới hoa" ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hóa ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận.Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để "rứt da rứt thịt" Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả" ở đời ("Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều"). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu! Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng

"Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nham hiểm giết người không dao":

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình...".

Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà", Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn" cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thúy Kiều trốn đã không đuổi bắt,...Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ "hồn lạc phách xiêu" chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thúy Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.Rốt cuộc, trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó người thua lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời "bào chữa" của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: "Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời" và tự nói với mình rằng: "Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen".

Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn "báo ân" với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, Kiều vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa.Đây là một đoạn trích rất hấp dẫn, một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học trung đại tiến một bước rất dài. Miêu tả chân thực và sinh động đời sống như nó đang xảy ra, đó là một yếu tố quan trọng tạo nên "Chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du".

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 2

Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán.Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, Kiều trở thành một mệnh phụ phu nhân. Chẳng bao lâu sau, Từ Hải đã có binh cường tướng mạnh:

“Trong tay mười vạn tinh binh,

Kéo về đóng chật một thành Lâm Tri.”

Kiều đã dựa vào uy thế Từ Hải để báo ân báo oán. Trong Truyện Kiều, cảnh báo ân báo oán là một tình huống giàu kịch tính, thể hiện ước mơ công lí ở đời. Cảnh báo ân báo oán được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu thơ (từ câu 2289 đến câu 2450), Thúc Sinh, mụ quản gia, vãi Giác Duyên được báo ân. Hoạn Thư cùng 7 tên khác bị báo oán:

“Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,

Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.

Tú Bà với Mã Giám Sinh,

Các tên tội ấy đáng tình còn sao?”

Ở đây, chúng ta chỉ nói đến hai tình tiết: Kiều báo ân Thúc Sinh và báo oán Hoạn Thư. Tâm lí và cách ứng xử của Thúy Kiều, tính sáng tạo của Nguyễn Du là những điều mà ta có thể tìm hiểu và cảm nhận trong đoạn thơ này.Sau khi mắc lừa Sở Khanh, Thúy Kiều bị Tú Bà bắt ép làm gái lầu xanh. Và Kiều đã gặp Thúc Sinh "cũng nòi thư hương”, là con rể của quan Thượng thư, một con người phong tình "quen thói bốc rời". Lúc đầu chỉ là "trăm gió", nhưng về sau, Thúc Sinh và Thúy Kiều trở thành "đá vàng”.Thúc Sinh đã chuộc Kiều, lấy làm vợ lẽ: "Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai". Mặc dù sau này có chuyện đánh ghen, bị làm nhục, nhưng Thúc Sinh trong điều kiện có thể, nói với Hoạn Thư đưa Kiều ra Quan Âm các "giữ chùa, chép kinh", thoát khỏi kiếp tôi đòi. Tuy "thấp cơ thua trí đàn bà" nhưng tình cảm của Thúc Sinh đối với Thúy Kiều, trong bi kịch vẫn "nặng lòng":

“Bây giờ kẻ ngược người xuôi,

Biết bao giờ lại nối lời nước non?”

Có thể chê trách Thúc Sinh này nợ, nhưng Thúc Sinh là ân nhân của Kiều, đã giúp Kiều hoàn lương. Kiều là một người phúc hậu, nên nàng không bao giờ có thể quên ơn chàng. Trong cuộc tầm nã của ba quân, gia đình Thúc Sinh đã được Kiều quan tâm “giữ giàng":

“Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.”

Cảnh báo ân diễn ra, Kiều đã dùng một chữ "mời" rất trọng vọng "cho gươm mời đến Thúc Lang". Kiều nói về "nghĩa", về chữ "tòng", đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là "người cũ", là "cố nhân" mà Kiều "há dám phụ".Nàng khẳng định cái tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình ngày xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: "nghĩa nặng nghìn non...". Kiều đã dùng một số từ như: "nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân..." cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân tình, nhân hậu; cách ứng xử của nàng đối với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa thủy chung:

“Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”

Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân Thúc Sinh cũng thật "hậu", khẳng định cái nghĩa đối với "cố nhân" trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng. Sau đó, Kiều dùng lời lẽ dân dã, sắc sảo để nói về "vợ chàng". Bao năm tháng đã trôi qua, lòng Kiều vẫn chưa nguôi. "Miếng ngon nhớ mãi, đòn đau nhớ đời" có phải như thế không? Vị thế đã đổi thay: kẻ là phạm tội, người là quan tòa đang ngồi trong trướng hùm giữa cảnh "gươm lớn giáo dài":

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kè cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

Kiều đã có 2 cách nói khác nhau: nói về ân nghĩa thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo nên hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều, điều đó cho thấy thi hào rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.Dù là được báo ân, nhưng đứng trước cảnh “Vác đòng chật đất, tinh kì rợp sân", Thúc Sinh cực kì khủng khiếp: "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run", mồ hôi toát ra "ướt dầm", không nói được một lời nào, sống trong tâm trạng vừa "mừng", vừa "sợ":

Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã bao năm tháng? Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người "chiến thắng" ra tay báo oán, Kiều đã "chào thưa" bằng những lời "mát mẻ":

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Giọng nói trở nền chì chiết, đay nghiến. Các chữ "mấy tay", "mấy mặt", "mấy gan" như những mũi dao sắc lạnh:

"Đàn bà dễ có mấy tay

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!"

Kiều nghiêm giọng cảnh cáo Hoạn Thư đã từng hành hạ mình, làm cho mình đau khổ: "Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều". Là "thủ phạm" đang đứng giữa pháp trường, xung quanh là bọn đao phủ đã “gươm tuốt nắp ra", Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu". Người đàn bà này tự biết tội trạng mình, cảnh ngộ mình, khó lòng thoát khỏi lưỡi gươm trừng phạt?Vốn khôn ngoan, sắc sảo, đứa con của "họ Hoạn danh gia" đã trấn tĩnh lại, tìm cách gỡ tội. Một cái "khấu đẩu" giữ lễ, khi chân tay đang bị trói. Trước hết nhận tội "ghen tuông" và lí giải đó là chuyện "thường tình" của đàn bà. Tiếp theo Hoạn Thư gợi lại chút "ân tình" ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các "giữ chùa chép kinh", không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua. Cách nói rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. "Nghĩ cho" là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:

“Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”

Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương". Tuy "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư "kính yêu" Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội và xin Thúy Kiều rộng lượng:

“Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”

Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành. Vì thế, Kiều phải "khen cho” "Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời". Không thể là "người nhỏ nhen", Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:

“Đã lòng tri quá thì nên:

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”

Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, vốn là một phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội Hoạn Thư, Thúy Kiều càng tỏ ra vô cùng cao thượng.Ai đã từng đọc bản dịch Kim Vân Kiều truyện, đem đối chiếu với Truyện Kiều, ta mới thấy hết tài sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du, nhất là trong cảnh báo ân báo oán. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm! Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lí, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo. Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung.Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.

 

Tài liệu có 8 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống