Top 9 bài Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua Thúy Kiều báo ân báo oán 2023 hay nhất

Tải xuống 12 4.1 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất, gồm 12 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 9 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN NHÂN VẬT THÚY KIỀU QUA ĐOẠN TRÍCH THÚY KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN

Bài giảng: Thúy Kiều báo ân báo oán

Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 1

Hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân - thể hiện lòng biết ơn và nghĩa tình sâu nặng. Qua những lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

“Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân ?”

Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình mà nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non. Kiều nói về nghĩa, về chữ tòng, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là người cũ, là cố nhân mà Kiều há dám phụ. Nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình khi xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: nghĩa nặng nghìn non... Kiều đã dùng một số từ ngữ như nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân hậu, cách ứng xử của nàng với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa, thủy chung.Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân cho Thúc Sinh cũng thật hậu, khẳng định cái nghĩa đối với cố nhân trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng:Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Nàng cho rằng dù có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân cũng chưa xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh.Những bài Phân tích hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhấtThúy Kiều báo oán kiên quyết nhưng vẫn khoan dung, độ lượng:Bao năm tháng đã trôi qua nhưng lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Vì thế giờ đã đổi thay: kẻ chịu đầy đọa giờ đã là quan tòa ngồi trong trướng giữa cảnh gươm lớn giáo dài:

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, chứng tỏ vết thương lòng mà vị tiểu thư kia gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo ra hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều đã cho thấy ông rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã trải qua bao năm tháng. Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người chiến thắng ra tay báo oán, Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:

"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Hành động, lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay đổi là một cách mỉa mai, quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có cá giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với Hoạn Thư, phù hợp với con ngươi bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán là sự phản ánh khát vọng ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.Nhưng sau khi nghe những lời gỡ tội cua Hoạn Thư vừa có lí vừa có tình thì Thúy Kiều đã tha riêng cho Hoạn Thư. Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Thúy Kiều đã tỏ ra vô cùng cao thượng.Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.

 Sơ đồ tư duy

Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:

– Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du là một tuyệt phẩm, để lại nhiều tiếng vang trong nền thi ca Việt Nam.

– Trong đó, trích đoạn “Thúy Kiều báo ân, báo oán” là một trích đoạn hay để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong cảm xúc của người đọc về một Thúy Kiều công tư phân minh, biết phân biệt thị phi, đúng sai.

2. Thân bài:

– Khái quát qua nội dung đoạn trích: Thúy Kiều đã tổ chức một cuộc gặp mặt giữa những người mình hàm ơn, và cả những người đã xô đẩy đời nàng tới con đường cùng để giải quyết mọi khúc mắc trong lòng:

– Đoạn trích này thể hiện mong muốn gì của tác giả Nguyễn Du? Trong tác phẩm Truyện Kiều, trích đoạn “Thúy Kiều báo ơn, báo oán” thể hiện khát khao muốn đòi lại công lý của người đời cũng như của tác giả Nguyễn Du.

– Phân tích sự gặp gỡ của Thúy Kiều và Thúc Sinh sau nhiều năm xa cách như thế nào?

- Làm “Vợ người ta” nên cũng có những kỷ niệm gắn bó, quên làm sao ngay được. Anh ta đã cố hết sức mình để bảo vệ nàng nhưng tại bà vợ ghê gớm cao -tay quá. Những từ “Nghĩa nặng tình non”, “Cố nhân”,” Người cũ” thể hiện Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa, dù sao cũng một thời nàng

– Hành động Thúy Kiều ban tặng nhiều gấm vóc, tiền bạc cho Thúc Sinh nói lên điều gì? Nàng ban tặng cho Thúc Sinh rất nhiều gấm lụa và tiền bạc, điều này thể hiện rằng Thúy Kiều là người chung thủy trước sau như một. Giàu sang, phú quý cũng không vì thế mà quên tình nghĩa xưa kia

– Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi gặp lại Hoạn Thư? Ngay từ khi xuất hiện Hoạn Thư đã sử dụng ngôn ngữ chua ngoa, đúng với bản chất của mình để nói về Thúy Kiều bằng những ngôn ngữ trì triết. Thúy Kiều vẫn kiên nhẫn khuyên Hoạn Thư nên giữ chừng mực trong cách ăn nói của mình, đừng làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng. “Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.”

– Phân tích những từ ngữ khi cầu xin tha lỗi của Hoạn Thư nói lên điều gì? Hoạn Thư là người đàn bà xảo ngôn, nhưng giờ đang là thủ phạm bị báo oán, đứng trước nhiều binh linh gươm đao quanh mình, Hoạn Thư có chút run sợ. Hoạn Thư tự biết mình đã hành xử quá đáng với Thúy Kiều nên xuống nước cầu xin, dùng những lời lẽ khôn ngoan để biện hộ cho tội lỗi của mình.

 Hành động tha tội cho Hoạn Thư thể hiện Thúy Kiều là con người như thế nào?

 Diễn biến và kết thúc trích đoạn này như thế nào?

 Tác giả muốn nhắn nhủ điều gì qua đoạn trích này?

3. Kết bài

– Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán”thể hiện sự mong mỏi của tác giả về khát khao đòi công lý, công bằng trong xã hội cũ. Mong muốn những cái xấu bị loại trừ trả giá và những điều tốt được đền đáp là ước mong của tất cả mọi người trong xã hội.

Top 4 bài Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 2

Truyện Kiều là áng thơ văn lớn, có giá bị bậc nhất của nền văn học Việt Nam trung đại, truyện xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, một con người tài sắc xuất chúng song lại có một cuộc đời đầy khổ đau bất hạnh. Suốt mười lăm năm dài đằng đẵng với bao song gió, thăng trầm, đã từng hai lần ra vào thanh lâu "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần", cũng nhiều lần nàng đã cố tự vẫn để chấm dứt cuộc đời đau khổ của mình nhưng bất thành.

Đọc truyện Kiều người đọc sẽ thấy xót xa, đồng cảm với những khổ đau mà người con gái tài hao mà bạc mệnh ấy phải hứng chịu. Những tưởng cuộc đời khổ đau triền miên cứ thế vây hãm lấy cuộc đời nàng, tuy nhiên, trong những khoảng thời gian nhất định, Thúy Kiều cũng đã đòi được công bằng cho mình, có cơ hội được báo ân, báo oán. Sau khi trải qua bao nhiêu biến cố, đau khổ, cuối cùng Thúy Kiều cũng gặp được Từ Hải- người anh hùng "đầu đội trời, chân đạp đất". Ta cũng có thể thấy đây là khoảng thời gian tươi sáng nhất trong cuộc đời Thúy Kiều kể từ khi sa vào cuộc đời lưu lạc.Gặp được Từ Hải, Thúy Kiều đã hoàn toàn được thay đổi thân phận, vị trí của mình, từ một người kĩ nữ chốn lầu xanh đã bị người đời chà đạp,đối xử bất công giờ đã trở thành "phu nhân" của một vị chủ tướng tài năng, xuất chúng.Cũng nhờ Từ Hải mà Thúy Kiều có cơ hội báo ân, báo oán những con người đã đi qua cuộc đời của nàng.Trước hết, khi đã có được danh vị, khi đã đứng ở một vị trí hơn người thì Thúy Kiều vẫn nhớ đến công ơn của những người đã từng giúp đỡ mình trong quãng đời lưu lạc và mong muốn được báo đáp phần nào công ơn ấy:

"Nàng rằng: " nghĩa nặng nghìn non"

Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân"

Trước hết, Thúy Kiều nhớ đến ân tình của Thúc Sinh đối với mình. Cuộc sống đầy trốn thanh lâu đã mang đến cho Thúy Kiều bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu tủi hờn, bị người đời chà đạp cả về thể xác cũng như tâm hồn.Trong hoàn cảnh ấy,Thúc Sinh đã cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, mang lại cho cuộc đời Kiều le lói tia hi vọng. Chính ân tình ấy cũng được Kiều khẳng định là " nghĩa nặng nghìn non".

Cuộc sống ở bên Thúc Sinh không hề là bằng phẳng, thuận lợi mà đầy trái ngang, cay đắng. Nhưng Kiều vẫn nhớ tình xưa "Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?", tuy nàng và Thúc Sinh có duyên mà không có phận nhưng một ngày mang nghĩa vợ chồng thì nàng cũng ghi nhớ, tạc sâu trong lòng. Lời nói của Kiều với Thúc Sinh cũng đầy tha thiết, ân tình.Thúy Kiều là con người trọng tình trọng nghĩa, ân oán phân minhSử dụng điển tích " Sâm Thương" để nói một cách trang trọng về Thúc Sinh, Thúy Kiều đã thể hiện mình là con người đầy nhân nghĩa, đặc biệt là nó không xuất phát từ sự sòng phẳng "nợ- trả" mà nó xuất phát từ chính tấm lòng đầy yêu thương, chân thành của Kiều "Tại ai ai dám phụ lòng cố nhân". Tấm lòng của nàng thật đáng quý làm sao.

"Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân

Tạ lòng để xứng báo ân gọi là"

Lễ vật mà Thúy Kiều dùng để báo đáp Thúc Sinh cũng thật " hậu" nhằm để báo đáp ơn nghĩa của "cố nhân".Thúy Kiều là người ân oán rạch ròi, những người từng có ơn với nàng thì nhất định nàng sẽ báo đáp, còn những kẻ gieo rắc đau khổ vào cuộc đời nàng thì nàng cũng sẽ trả cho bằng hết.Giọng nói chân thành, da diết khi nhắc đến nghĩa xưa tình cũ đã chuyển sang sự mạnh mẽ, khảng khái khi nói về Hoạn Thư- vợ của Thúc Sinh:

"Thoắt trông nàng đã chào thưa

Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây"

Câu thơ đầu của Thúy Kiều có vẻ trịnh trượng, hình thức khi dùng từ "chào thưa", nhưng chỉ cần đọc đến câu thơ thứ hai ta sẽ thấy sắc thái của câu thơ khác hẳn " Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây".Thì ra lời chào hỏi của Thúy Kiều cũng mang những hàm ý sâu sa. Gọi Hoạn Thư là "tiểu thư" như để chế giễu, vừa mang chút gì đấy hả hê với tình cảnh lúc này của Hoạn Thư: xuất hiện với tư cách của một kẻ chờ bị định tội chứ không phải phong thái sang trọng,đài các của một phu nhân danh giá như xưa.

"Đàn bà dễ có mấy tay

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan

Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"

Giọng điệu của Thúy Kiều đã rất đanh thép,quyết liệt khi kết tội Hoạn Thư- người đã gây cho mình bao nhiêu đau khổ, ê chề. Nàng không chỉ định tội mà còn rõ ràng khẳng định sự trừng phạt của mình sẽ dành cho Hoạn Thư: "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".Tuy nhiên, đối với sự khôn ngoan, sắc sảo của Hoạn Thư khi biện minh cho mình là "chút phận đàn bà" .Nhận tội ghen tuông nhưng lại lí giải nó là chuyện thường tình. Hoạn Thư cũng kể nể công lao khi xưa cho Kiều ra Quan âm các chép kinh, rồi khi Kiều bỏ trốn cũng không cho người truy đuổi.Là một con người thông minh nhưng cũng rất thấu tình đạt lí, Thúy Kiều tuy rất hận đối với những hành động của Hoạn Thư đối với mình nhưng cũng nhận thấy sự hợp lí trong những lí lẽ của Hoạn Thư.Với tấm lòng nhân hậu, sự vị tha, tình nghĩa của mình,Thúy Kiều đã tha cho Hoạn Thư tội chết mà chỉ phạt đánh để cảnh cáo.Hành động này của Thúy Kiều lại làm cho vẻ đẹp nhân cách của nàng trở nên bừng sáng. Tuy yêu, ghét phân minh nhưng cũng là con người biết những lí lẽ ở đời, nàng sẵn sang tha thứ cho người đã đẩy cuộc đời nàng chìm sâu vào "vũng bùn tối tăm" của số phận.

Cuộc đời "bể dâu" biết bao sóng gió, những con người đi qua cuộc đời Thúy Kiều, ơn có, hận có. Khi đã có được "tiếng nói", khi đã đứng trên vị trí quan tòa để định tội, định ơn thì Thúy Kiều rất rõ ràng, phân minh khi báo ơn, trả oán. Tuy vậy, ngay trong buổi xử phạt thì nhân cách,phẩm chất cao cả, vị tha của nàng vẫn làm cho người đọc khâm phục, ngưỡng mộ.

Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 3

Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" là một cảnh rất đặc sắc, làm nổi bật lên tấm lòng của tác giả cũng như tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất sáng tạo dùng những lời thoại biến hóa về chuyện báo ân báo oán, vừa ca ngợi sự thủy chung, tình nghĩa, bao dung và độ lượng của Thúy Kiều, đồng thời cũng lên án bọn giảo trá, tinh quái.Trong cảnh Thúy Kiều báo ân, Thúy Kiều bộc lộ lên là một người biết nhớ ơn nghĩa, nghĩa tình sâu nặng, lời nói của Kiều cho thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh trong cơn hoạn nạn:

Top 4 bài Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán hay nhất (ảnh 2)

"Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non...

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?"

Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, khỏi cảnh phải làm thê thiếp ô nhục, nàng cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc gia đình mà nàng gọi đó là "nghĩa nặng nghìn non". Thúy Kiều đề cao đạo lí thủy chung, nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh với mình là vô cùng to lớn, sâu nặng, là cố nhân, nên nàng há dám phụ. Trái tim Kiều rất nhân hậu, biểu lộ tấm lòng trân trọng và biết ơn, cách ứng xử của nàng giàu ân nghĩa và trọn nghĩa thủy chung. Lễ vật báo ơn của Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh cũng thật hậu "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân", dù gắn bó với Thúc Sinh là một lần nữa Thúy Kiều phải làm phận lẽ đau đớn tủi nhục nhưng nàng biết điều đó không phải Thúc Sinh gây ra mà là do Hoạn Thư. Bao năm tháng đã trôi qua nhưng những nỗi đau trong lòng Kiều vẫn chưa nguôi:

"Vợ chàng quỷ quái tinh ma...

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa."

Nhắc lại chuyện cũ, ta thấy vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Thúy Kiều là vô cùng xót xa, Nguyễn Du đã rất xuất sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật Thúy Kiều, chỉ bằng một lượt lời nhưng đã tạo ra hai giọng điệu khác nhau khi nói về ân và oán.Phân tích hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán để thấy được vẻ đẹp nhân cách của nàng Kiều

Từ đêm bị đánh ghen ấy đến nay đã bao năm tháng trôi qua, gặp lại Hoạn Thư trong hoàn cảnh này, với tư thế của người chiến thắng, Thúy Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:

"Thoắt trông nàng đã chào thưa:

"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!"...\

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"

Cả hành động và lời nói của Thúy Kiều đều biểu lộ sự mỉa mai đối với Hoạn Thư, sự đay nghiến dằn ra từng tiếng khi từ ngữ được lặp lạ và nhấn mạnh hơn: dễ dàng, dễ có, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói đó rất tương xứng với con người Hoạn Thư, bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong lòng đầy nham hiểm giết người không dao. Từ thân phận chịu áp bức đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lí, đó cũng phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Sau khi nghe những lời lí lẽ vừa có lí vừa có tình của Hoạn Thư thì Thúy Kiều đã mỏ rộng lòng bao dung nhân hậu mà tha riêng cho Hoạn Thư:

"Khen cho: "Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"...

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."

Tuy ngoài sức tưởng tượng của mọi người nhưng quyết định của Thúy Kiều là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, thuần phong mỹ tục của người Việt ta. Vốn là người đã trải qua bao năm thắng nếm đắng cay, Thúy Kiều tự biết mình đã xâm phạm tới hạnh phúc gia đình người khác nên Thúy Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư, thể hiện sự rộng lượng và cao thượng của mình.

Cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 4

Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.Hình tượng nhân vật Thúy Kiều: Thúy Kiều báo ân – thể hiện lòng biết ơn và nghĩa tình sâu nặng. Qua những lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.

Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình mà nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non. Kiều nói về nghĩa, về chữ tòng, đề cao đạo lí thủy chung. Thúc Sinh là người cũ, là cố nhân mà Kiều há dám phụ.Nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh đối với mình khi xưa là vô cùng to lớn, sâu nặng: nghĩa nặng nghìn non... Kiều đã dùng một số từ ngữ như nghĩa, nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, người cũ, cố nhân cùng với giọng điệu ôn tồn, biểu lộ một tấm lòng trân trọng, biết ơn một người đàn ông đã từng yêu thương mình, cứu vớt mình. Trái tim của Kiều rất nhân hậu, cách ứng xử của nàng với Thúc Sinh là giàu ân nghĩa, thủy chung.Cái lễ vật chất mà Kiều báo ân cho Thúc Sinh cũng thật hậu, khẳng định cái nghĩa đối với cố nhân trong những năm tháng ở Lâm Tri là vô cùng sâu nặng: Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Nàng cho rằng dù có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân cũng chưa xứng với ơn nghĩa của Thúc Sinh.Thúy Kiều báo oán kiên quyết nhưng vẫn khoan dung, độ lượng: Bao năm tháng đã trôi qua nhưng lòng Kiều vẫn chưa nguôi. Vì thế giờ đã đổi thay: kẻ chịu đầy đọa giờ đã là quan tòa ngồi trong trướng giữa cảnh gươm lớn giáo dài:

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, chứng tỏ vết thương lòng mà vị tiểu thư kia gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Kiều đã có hai cách nói khác nhau: nói về ân thì trang trọng, ôn tồn; nói về oán thì nôm na, chì chiết. Nguyễn Du đã tạo ra hai giọng điệu, hai thứ ngôn ngữ trong một lượt lời của Thúy Kiều đã cho thấy ông rất tinh tế, sâu sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật.Từ lần bị đánh ghen đêm ấy, đến nay đã trải qua bao năm tháng. Gặp lại Hoạn Thư lần này, trong tư thế của người chiến thắng ra tay báo oán, Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:

Thoắt trông nàng đã çhào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.

Hành động, lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay đổi là một cách mỉa mai, quất mạnh vào danh gia họ Hoạn.Trong lời nói của Kiều có cái giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,... Cách nói này hoàn toàn phù hợp với Hoạn Thư, phù hợp với con người bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong nham hiểm giết người không dao.Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lí. Đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán là sự phản ánh khát vọng ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Nhưng sau khi nghe những lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí vừa có tình thì Thúy Kiều đã tha riêng cho Hoạn Thư.

Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Thúy Kiều đã tỏ ra vô cùng cao thượng.Nguyễn Du đã sáng tạo ra những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện báo ân báo oán, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều.

Cảm nhận nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 1

Khi nhắc tới Hoạn Thư, chúng ta không chỉ biết đến là danh từ riêng nữa mà nó là một chỉ dấu để nói lên những người phụ nữ ghen tuông trong chuyện tình ái đày sóng gió. Trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" đã làm bật lên được tính cách của nhân vật mà người ta còn nhắc tới nhiều hơn cả Thúy Kiều.Hoạn Thư là con gái của Thượng Thư bộ lại vào thời Minh triều thời đó, tương đương với chức Thủ tướng bây giờ, là người có quyền sắp xếp mọi công việc trong triều đình. Khi mụ ta lấy Thúc Sinh một người đàn ông có địa vị và tài sản thua xa so Hoạn Thư, yếu thế hơn thì dĩ nhiên là thế lực của Hoạn Thư mạnh hơn Thúy Kiều rất nhiều.

Và thật lạ lùng thay, hầu như ai cũng biết đến cái tên Hoạn Thư dù đã đọc hay chưa đọc truyện Kiều bởi nó trở thành một "đại danh từ" biểu tượng cho sự ghen tuông tàn độc của người đàn bà.Nếu như so sánh cái ghen của Hoạn Thư đối với thời đại ngày nay thì Hoạn Thư còn hiền so với cách đánh ghen của chị em phụ nữ bây giờ, bởi vì Hoạn Thư là một người có ăn có học, bà ta đánh ghen đều có tinh toán, sắp xếp đâu ra đấy hết, chứng tỏ bà là một người thông minh, xảo quyết. Thể hiện qua những cái lời nói đối đáp với Kiều, để đủ hiểu bà ta là người không phải nông cạn. Hoạn Thư đánh ghen phải để trả thù Thúy Kiều, chà đạp lên cái nhân phẩm của người con gái đó, mà bà ta làm như thế đề trả thù Thúc Sinh. Trong truyện tác giả cũng có nhắc tới việc Hoạn Thư đã mở cửa cho Thúc Sinh đưa Kiều về ra mắt nhưng Thúc Sinh sợ lại không dám đưa nàng về. Hoạn Thư là một con người có hiểu biết, có trí tuệ và cách trả thù với người chồng bạc nghĩa không nông nổi, hồ đồ.

Trong đoạn trích này tác giả nói về sự trả thù của Thúy Kiều, theo nguyên tác thì sự trả thù của Thanh Tâm tài nhân là vô cùng độc ác, nhưng sau khi được Nguyễn Du dùng cái tâm và văn hóa của người Việt để làm cho sự trả thù của Thúy Kiều trở nên nhân văn, nhân bản phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa của đất nước ta. Để hiểu hơn về tính cách của Hoạn Thư thì ta cần tìm hiểu qua đoạn Thúy Kiều đối đáp với Hoạn Thư trong cảnh báo oán.Sau khi đã báo đáp ân nghĩa cho Thúc Sinh đã cứu mình khỏi cảnh lầu xanh, cảnh tì thiếp là cảnh Thúy Kiều cho gọi Hoạn Thư vào để báo oán. Khi mời Hoạn Thư lên công đường thấy bà ta Thúy Kiều đã lập tức chào hỏi.Ban đầu, trước những lời nói và thái độ của Thúy Kiều, Hoạn Thư như "hồn lạc, phách xiêu", nhưng với bản chất khôn ngoan của mình Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh lại để "liệu điều kêu ca". Những điều Hoạn Thư "kêu ca" thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình hay nói đúng hơn là đang tự biên minh cho mình:Trước hết, Hoạn Thư đã đưa ra tâm lí thường tình của phụ nữ:

"Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình."

Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung "chút phận đàn bà". Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai". Từ "tội nhân", Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành "nạn nhân" của chế độ đa thê.Sau đó, Hoạn Thư kể lại "công" của mình đối với Kiều:

"Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo."

Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành "ân nhân",con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.

Sau khi đã cố biện minh cho tội lỗi của mình, Hoạn Thư đã cố gắng lôi kéo Thúy Kiều về phía của mình và trông chờ vào sự khoan dung, độ lượng của nàng để được Thúy Kiều tha cho. Biết được điểm yếu và bản chất hiền lành, lương thiện, thương người của nàng, Hoạn Thư đã:

"Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng."

Qua sự đối đáp, biện hộ của mình trước Thúy Kiều, biến mình từ thế bị động sang chủ động đã cho thấy Hoạn Thư là một người tinh ma xảo trá như thế nào và đặc biệt bà ta là một người "sâu sắc nước đời", hiểu các thể loại người để đối phó và tìm cách lươn lẹo.Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen

"Khen cho: Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời."

Vì là người hiền từ, nhân hậu dù đã bị Hoạn Thư hại cho ra nông nỗi này nhưng trước lời lẽ của bà ta, Thúy Kiều có đôi chút băn khoăn, không biết nên trả thù nữa hay không hay là tha thứ cho mụ ta.

"Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen."

Dân gian có câu: "Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại". Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha, dù rằng bà ta đã gây cho nàng biết bao nhiêu vết thương, nhưng đứng trên phương diện của một người đàn bà bị người chồng của mình bội bạc như thế thì ai cũng hành xử như Hoạn Thư mà thôi.Qua đoạn trích nói riêng và cả truyện Kiều nói chung, ta thấy Hoạn Thư là một con người có ăn có học, nó thể hiện qua cái cách đánh ghen và những lời đối đáp có lý có tình với Kiều, nhưng vì tình yêu, vì sự bội bạc của người chồng nhu nhược, nhút nhát đã khiến cho cả hai người đàn bà của anh ta đều đau khổ.

"Hỏi thế giời tình ái là chi

Mà lứa đôi thề nguyền sống chết"

Cảm nhận nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 2

Hoạn Thư là một nhân vật trong Truyện Kiều- một trong những người làm nên tấn bi kịch cho cuộc đời Kiều. Không chỉ là con người có tính cách bạo tàn, ngang ngược khi ngược đãi, chà đạp Thúy Kiều mà trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", Hoạn Thư còn hiện lên là một con người xảo quyệt, đầy cá tính, khôn ngoan.Khi gặp được Từ Hải, được chuộc ra khỏi chốn thanh lâu, được sống cuộc sống hoàn toàn mới, Thúy Kiều dưới sự giúp đỡ của Từ Hải đã tiến hành một "phiên tòa" để tiến hành báo ân báo oán.Vốn là người gây ra bao nhiêu đau khổ, bi kịch cho Thúy Kiều, Hoạn Thư khi bị người của Từ Hải giải đến đã vô cùng hoảng hốt, lo sợ.Sự lo sợ này thể hiện ra ngay trong nét mặt:

"Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca"

Là một người đàn bà thông minh, khi bị Thúy Kiều cho giải đến lễ đường thì đã nhận thức ngay được tình huống, biết mối nguy hiểm, những hình phạt đáng sợ mà tới đây mình sẽ phải gánh chịu. Nên dù là con người hống hách, không coi air a gì thì vào hoàn cảnh này, Hoạn Thư cũng phải "hồn lạc phách xiêu", sự hoảng loạn, sợ hãi thể hiện ran gay trong nét mặt.Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là người biết mình, biết ta, không buông xuôi mà có những hành động cụ thể để tự cứu lấy mình.

"Khấu đầu dưới trướng,liệu điều kêu ca"Hành động "khấu đầu" này cho thấy Hoạn Thư đã vứt bỏ cái "tôi" kiêu hãnh để lạy lục dưới chân mà mình vô cùng căm ghét, từng coi là kẻ thù phải bị diệt bỏ. Tuy độc ác, bạo tàn nhưng Hoạn Thư cũng biết sợ hãi trước cái tử cần kề, làm mọi cách để duy trì được mạng sống.Hoạn Thư là một con người đầy linh hoạt, khéo léo.Biết sử dụng những lí lẽ của mình để thuyết phục Thúy Kiều. Hành động dã man đã đối xử với Thúy Kiều của Hoạn Thư đã quá rõ ràng, hơn nữa người trong cuộc cũng đã đích danh chỉ tội:

" Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư"

Tuy nhiên, Hoạn Thư biết cách để đánh động vào sự cảm thông,lòng trắc ẩn của Thúy Kiều khi đưa ra lí lẽ:

"Rằng: Tôi chút phận đàn bà

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"

Hoạn Thư bộc lộ là một người sắc sảo, khôn ngoanLí lẽ Hoạn Thư đưa ra vô cùng sắc sảo mà cũng không kém phần hợp lí.Trong hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" như vậy nhưng Hoạn Thư vẫn có thể nghĩ ra những lí do và sắp xếp nó hợp tình hợp lí như vậy,chứng tỏ nàng ta là một người vô cùng bản lĩnh và cũng vô cùng tin tưởng vào bản thân mình.Hoạn Thư đã giải thích những hành động của mình đối với Thúy Kiều vì mang "chút phận đàn bà", và đã là đàn bà thì ghen tuông là chuyện rất "thường tình", đáng thương hơn là đáng trách.Khi đã "quy đồng" tội danh của mình vào thân thận đàn bà,Hoạn Thư không dừng lại ở đó mà tiếp tục "đánh đòn tâm lí" mạnh hơn đối với Thúy Kiều, khiến Kiều không chỉ cảm thông mà còn mang ơn với Hoạn Thư:

"Nghĩ cho khi gác viết kinh

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo"

Hoạn Thư đã rất khéo léo khi nhắc tới những lần mình đã vô tình giúp Thúy Kiều,đó là khi cho Thúy Kiều ra Quan Âm các chép kinh thay vì cuộc sống khổ sai, bạo tàn ở nhà của Hoạn bà. Hơn nữa, Hoạn Thư cũng nhấn mạnh vào sự "từ bi" của mình khi không cho người đuổi theo khi Thúy Kiều bỏ trốn. Biết Thúy Kiều là con người trọng ân nghĩa, lại rất mực nhân hậu, vị tha nên Hoạn Thư đã kể nể đủ điều bởi nàng ta cũng biết mình đã phần nào khơi lên sự thương cảm của Kiều, đây chỉ là đòn quyết định để Thúy Kiều giảm nhẹ hình phạt đối với mình.Khi Thúy Kiều còn đang lưỡng lự, suy nghĩ thì Hoạn Thư lại tiếp tục minh oan cho mình:

"Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai

Trót lòng gây việc chông gai

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"

Hoạn Thư cũng kể ra nỗi khổ của mình khi sống cuộc sống "chung chồng", và cũng biện minh cho mình vì hồ đồ nên "trót" gây ra bao tai họa cho Thúy Kiều.

Ở đây Hoạn Thư nhận hết mọi lỗi lầm của mình, nhưng bằng những lí lẽ đưa ra thì những lỗi lầm ấy trở nên nhỏ bé hơn, Hoạn Thư từ có tội dần trở thành vô tội. Điều cuối cùng mà Hoạn Thư muốn đó là sự ban ơn của Thúy Kiều đối với mình. "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"Sự khéo léo trong lời nói, lập luận chặt ché đánh động được vào tâm lí người nghe cùng với bản lĩnh, sự thông minh của người đàn bà lọc lõi lẽ đời đã khiến Hoạn Thư thoát khỏi án tử, bản án cũng trở nên vô hiệu. Chính Thúy Kiều cũng phải cất tiếng khen ngợi:

"Khen cho thật đã nên rằng

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"

Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 1

Khi Từ Hải xuất hiện, cuộc đời của Thúy Kiều bước sang một trang mới, mở ra một hành trình tươi sáng hơn, nàng thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ bẩn còn đưa nàng từ thân phận “con ong cái kiến” bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều đang ở một cương vị mới, là người có quyền cao chức trọng, nàng cho gọi lần lượt những con người mà nàng nghĩ mình nên báo đáp cũng như người mình trừng phạt vì đã gieo biết bao nhiêu đau khổ cho nàng

. Đúng với phẩm chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: “Cho gươm mời đến Thúc lang”nh với mình trong thời gian trôi dạt của nàng.Thúc Sinh là một con người vốn hiền lành, tốt bụng nhưng cũng là kẻ đa tình và nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng khí để bảo vệ và che chở cho tình yêu của mình, khi thấy cảnh “Cho gươm mời đến Thúc lang” chàng ta đã vô cùng hốt hoảng, điều này cũng dễ hiểu thôi vì bản tính của chàng ta vẫn là kẻ nhút nhát. Nhưng Thúy Kiều là một người coi trọng ân nghĩa, trong cơn hoạn nạn, dù là kẻ nhu nhược nhưng đã đứng lên hành động nghĩa hiệp để phần nào cứu giúp nàng trong lúc khó khăn:

“Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?…”

Khi Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, Thúy Kiều đã có những tháng ngày được xem là tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, nàng không bao giờ quên.Thúy Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi,biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng. Khi nói với Thúc Sinh, trong ngôn ngữ của Kiều xuất hiện nhiều từ Hán Việt: “nghĩa”,”tòng”,”phụ”,”cố nhân”… kết hợp với điển cố “Sâm Thương”.Lời lẽ của Kiều khi nói với Thúc Sinh là lời lẽ của một “phu nhân” với những khái niệm đạo đức phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” và “những phong cách biểu hiện ước lệ, công thức “Sâm Thương”, “nghĩa trọng nghìn non” ( Đặng Thanh Lê). Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.Vì muốn thoát khỏi cảnh: “Sống làm vợ khắp người ta” nên Kiều đã nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi đòi khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.

Thúy Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Dù thế nhưng trong thâm tâm nàng chưa bào giờ oán hận và trách cứ chàng điều gì cả, tuy thời gian ở bên chàng ít và cũng không hẳn là yên ổn nhưng đối với Thúy Kiều lúc thì như thế là một ân huệ quá lớn, nàng đem “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” xem như báo đáp phần nào những gì mà Thúc Sinh đã cố gắng giúp đỡ mình trong thời gian đó.Nhưng thật sự những nỗi đau mà do người vợ của chàng gây ra đến tận bây giờ nàng cũng chưa thể nào quên được, chưa thể nào xoa dịu được, bởi vết thương lòng quá lớn, nàng như muốn hét lên vì những tội ác mà do vợ của chàng gây ra:

“Vợ chàng quỉ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

Cách nói đã có thay đổi. Khi nhắc về ân nghĩa của Thúc Sinh, cách nói của Kiều rất trang trọng. Nhưng nói đến Hoạn Thư, cách nói lại chuyển sang nôm na như kiểu nói của người bình dân. Những thành ngữ “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân: cái ác phải bị trừng phạt, “ác giả ác báo”.

Qua việc báo ân Thúc Sinh, ta thấy Thúy Kiều là một người nhân hậu,nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”. Và Thúc sinh là một con người tốt bụng, hiền lành nhưng lại tỏ ra nhu nhược, hèn nhát không dám đứng lên để bảo vệ tình yêu của mình, bảo vệ người mình yêu thương.Sau khi đền đáp công ơn việc Thúc Sinh đã giúp đỡ mình trong thời gian nàng ở lầu Ngưng Bích thì nàng còn tiếp tục trừng trị người đã gây cho nàng không ít những đau khổ, trái ngang, tủi nhục mà có lẽ suốt cả cuộc đời này, nàng sẽ không bao giờ quên được.Trong đoạn trích này tác giả nói về sự trả thù của Thúy Kiều, theo nguyên tác thì sự trả thù của Thanh Tâm tài nhân là vô cùng độc ác, nhưng sau khi được Nguyễn Du dùng cái tâm và văn hóa của người Việt để làm cho sự trả thù của Thúy Kiều trở nên nhân văn, nhân bản phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa của đất nước ta. Để hiểu hơn về tính cách của Hoạn Thư thì ta cần tìm hiểu qua đoạn Thúy Kiều đối đáp với Hoạn Thư trong cảnh báo oán.Sau khi đã báo đáp ân nghĩa cho Thúc Sinh đã cứu mình khỏi cảnh lầu xanh, cảnh tì thiếp là cảnh Thúy Kiều cho gọi Hoạn Thư vào để báo oán. Khi mời Hoạn Thư lên công đường thấy bà ta Thúy Kiều đã lập tức chào hỏi.

Ban đầu, trước những lời nói và thái độ của Thúy Kiều, Hoạn Thư như “hồn lạc, phách xiêu”, nhưng với bản chất khôn ngoan của mình Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh lại để “liệu điều kêu ca”. Những điều Hoạn Thư “kêu ca” thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình hay nói đúng hơn là đang tự biện minh cho mình: Trước hết, Hoạn Thư đã đưa ra tâm lí thường tình của phụ nữ:

“Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”

Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ “tội nhân”, Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành “nạn nhân” của chế độ đa thê.Sau đó, Hoạn Thư kể lại “công” của mình đối với Kiều:

“Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”

Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành “ân nhân”,con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.Sau khi đã cố biện minh cho tội lỗi của mình, Hoạn Thư đã cố gắng lôi kéo Thúy Kiều về phía của mình và trông chờ vào sự khoan dung, độ lượng của nàng để được Thúy Kiều tha cho. Biết được điểm yếu và bản chất hiền lành, lương thiện, thương người của nàng, Hoạn Thư đã:

“Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”

Qua sự đối đáp, biện hộ của mình trước Thúy Kiều, biến mình từ thế bị động sang chủ động đã cho thấy Hoạn Thư là một người tinh ma xảo trá như thế nào và đặc biệt bà ta là một người “sâu sắc nước đời”, hiểu các thể loại người để đối phó và tìm cách lươn lẹo. Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen:

“Khen cho: Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”

Vì là người hiền từ, nhân hậu dù đã bị Hoạn Thư hại cho ra nông nỗi này nhưng trước lời lẽ của bà ta, Thúy Kiều có đôi chút băn khoăn, không biết nên trả thù nữa hay không hay là tha thứ cho mụ ta.

“Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.”

Dân gian có câu: “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha:

“Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”

Qua đoạn trích này, ta thấy được vẻ đẹp nhân từ và tấm lòng trời cao như phật của Thúy Kiều, và ngược lại Hoạn Thư lại hiện lên là một kẻ ma ranh tinh quái, nhưng lại vô cùng hiểu sự thế trời đời, cái gì cũng biết, cũng có thể hóa đen thành trắng đươc, là người “sâu sắc nước đời”.Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí chính nghĩa của nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 2

Trải qua biết bao đau đớn, bất hạnh những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi chìm trong "màn đêm tăm tối" của số phận, không có ngày thoát ra được. Nhưng từ khi gặp được Từ Hải,Thúy Kiều không chỉ được sống cuộc sống của một người bình thường, có danh phận mà còn được Từ Hải giúp đỡ để báo đền mọi ân oán. Đoạn trích " Thúy Kiều báo ân báo oán" thể hiện rõ nét của phiên tòa xử phạt ấy.

Cuộc sống nổi trôi thăng trầm,bao nỗi bất hạnh đi qua cuộc đời nhưng những ai đã từng cơ ơn,những ai gieo rắc đau khổ cho mình thì Thúy Kiều đều ghi tạc rất rõ trong lòng.

Nay được Từ Hải cho cơ hội báo ân, báo oán,Thúy Kiều không chỉ cho gọi đến những người có ân để tiện bề đền đáp, mà còn đưa những người đã từng chà đạp, coi thường nàng đến để định tội,trừng phạt. Đoạn trích "Kiều báo ân báo án" như một phiên tòa xét xử,trong đó, người "thẩm phán" chính là Thúy Kiều. Trước hết, Thúy Kiều tiến hành báo đáp những người có ơn với mình trước:

"Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai,ai há phụ lòng cố nhân"

Người đầu tiên mà Thúy Kiều muốn báo đáp là Thúc Sinh. Với Thúc Sinh, tình nghĩa "nặng trọng như núi". Người đã cứu Kiều ra khỏi thanh lâu, người đã rất mực yêu thương, đối xử với Thúy Kiều như một người vợ đích thực."Lâm Tri chàng còn nhớ không?" Lời Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh mới chân thành, tha thiết làm sao. Dùng điển tích "Sâm Thương" để nói về sự biết ơn đối với Thúc Sinh đã thể hiện được tấm lòng chân thành ấy đối với "cố nhân".

Tuy là đối tượng được báo đáp nhưng Thúc Sinh lại tỏ ra rất sợ hãi, lo lắng: "Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run". Các từ ngữ như "chàm đỏ", "run" vừa thể hiện được được cái xám ngắt của sắc mặt, vừa thể hiện được cái run rẩy của đôi chân Thúc Sinh.Khi nghe Thúy Kiều kết tội Hoạn Thư thì trên mặt Thúc Sinh đã "ướt đầm mồ hôi". Dù chỉ được phác họa bằng vài nét tả xong Nguyễn Du cũng đã khắc họa thành công tính cách,con người của Thúc Sinh: hèn nhát, nhu nhược, thiếu bản lĩnh.

Với người có ơn với mình Thúy Kiều hết lòng báo đáp, còn đối với những người mắc oán với mình thì Thúy Kiều cũng phân tính rạch ròi. Điển hình của màn báo oán này là đối với nhân vật Hoạn Thư. Đối với Hoạn Thư,ngay từ lúc nhìn thấy,Thúy Kiều đã lớn tiếng kết tội: "Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư".

Tiếng kết tội này không chỉ rõ ràng,đanh thép mà còn thể hiện được sự phẫn nộ của Thúy Kiều đối với Hoạn Thư.Không chỉ vậy, khi đối thoại với Hoạn Thư, Thúy Kiều cũng nói bằng giọng điệu đầy châm chọc:

"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây

Đàn bà dễ có mấy tay

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan

Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"

"Tiểu thư" là cách nói đầy trào phúng của Thúy Kiều dành cho Hoạn Thư nhằm chế giễu con người sang trọng, quyền quý như Hoạn Thư mà cũng có ngày hôm nay. Với Thúc Sinh lời nói chân thành da diết bao nhiêu thì với Hoạn Thư giọng nói đanh thép, phẫn nộ bấy nhiêu.Cuối cùng là sự kết án rõ ràng "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều" như định sẵn một bản án dành cho Hoạn Thư.

Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là con người đầy khôn ngoan, lọc lõi sự đời.Khi bị áp giải đến "phiên tòa" thì cũng sợ hãi đến "hồn bay phách lạc" nhưng sự từng trải cùng bản lĩnh hơn người đã khiến nàng ta bình tâm và đưa ra những lí lẽ đầy sức thuyết phục:

"Rằng: Tôi chút phận đàn bà

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình

Nghĩ cho khi gác viết kinh

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo

Lòng riêng riêng những kính yêu

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai"

Trước hết, lí lẽ là Hoạn Thư đưa ra đó là mình "chút phận đàn bà" nên ghen tuông, cay nghiệt với vợ bé của chồng cũng là "người ta thường tình". Nếu sự biện minh này bước đầu chạm vào tấm lòng vị tha của Thúy Kiều thì câu thơ sau lại khiến Kiều có cảm giác mình mang ơn Hoạn Thư:

"Nghĩ cho khi gác viết kinh

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo"

Hoạn Thư đã kể nể sự "nhân ái" của mình đã từng dành cho Thúy Kiều, đó là lần cho Thúy Kiều ra Quan Âm Các viết kinh và khi Thúy Kiều bỏ trốn cũng không sai người truy cứu "dứt tình chẳng theo". Hoạn Thư kể ra nỗi khổ khi sống cảnh chung chồng "Chồng chung ai dễ ai chiều cho ai".

Điều này đã "quy đồng" cảnh ngộ của cả mình và Thúy Kiều, đó là cảnh chung chồng, từ đó gợi ra được sự cảm thông của Kiều.Có thể nói Hoạn Thư là con người thông minh, lí lẽ sắc bén, biết cách đánh vào tâm lí người đối diện. Chẳng thế mà Thúy Kiều cũng có lời khen: "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"

Như vậy, thông qua đoạn trích này,người đọc không chỉ được chứng kiến cảnh phân xử đầy li kì, hấp dẫn của Thúy Kiều mà thông qua ngòi bút đầy tinh tế, tài năng của Nguyễn Du ta còn có thể hình dung về nhân vật một cách sắc nét, chân thực. Đây quả là một bức kí họa chân dung xuất sắc của một bậc kì tài.

Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – mẫu 3

Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một cảnh rất đặc sắc, làm nổi bật lên tấm lòng của tác giả cũng như tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã rất sáng tạo dùng những lời thoại biến hóa về chuyện báo ân báo oán, vừa ca ngợi sự thủy chung, tình nghĩa, bao dung và độ lượng của Thúy Kiều, đồng thời cũng lên án bọn giảo trá, tinh quái.

Trong cảnh Thúy Kiều báo ân, Thúy Kiều bộc lộ lên là một người biết nhớ ơn nghĩa, nghĩa tình sâu nặng, lời nói của Kiều cho thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ của Thúc Sinh trong cơn hoạn nạn:

“Nàng rằng: nghĩa nặng nghìn non…

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”

Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, khỏi cảnh phải làm thê thiếp ô nhục, nàng cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc gia đình mà nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Thúy Kiều đề cao đạo lí thủy chung, nàng khẳng định tình nghĩa của Thúc Sinh với mình là vô cùng to lớn, sâu nặng, là cố nhân, nên nàng há dám phụ.

Trái tim Kiều rất nhân hậu, biểu lộ tấm lòng trân trọng và biết ơn, cách ứng xử của nàng giàu ân nghĩa và trọn nghĩa thủy chung. Lễ vật báo ơn của Thúy Kiều dành cho Thúc Sinh cũng thật hậu “Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân”, dù gắn bó với Thúc Sinh là một lần nữa Thúy Kiều phải làm phận lẽ đau đớn tủi nhục nhưng nàng biết điều đó không phải Thúc Sinh gây ra mà là do Hoạn Thư. Bao năm tháng đã trôi qua nhưng những nỗi đau trong lòng Kiều vẫn chưa nguôi:

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma…

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.”

Nhắc lại chuyện cũ, ta thấy vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Thúy Kiều là vô cùng xót xa, Nguyễn Du đã rất xuất sắc khi thể hiện tâm lí nhân vật Thúy Kiều, chỉ bằng một lượt lời nhưng đã tạo ra hai giọng điệu khác nhau khi nói về ân và oán.

Từ đêm bị đánh ghen ấy đến nay đã bao năm tháng trôi qua, gặp lại Hoạn Thư trong hoàn cảnh này, với tư thế của người chiến thắng, Thúy Kiều đã chào thưa bằng những lời mát mẻ:

“Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!”…

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”

Cả hành động và lời nói của Thúy Kiều đều biểu lộ sự mỉa mai đối với Hoạn Thư, sự đay nghiến dằn ra từng tiếng khi từ ngữ được lặp lạ và nhấn mạnh hơn: dễ dàng, dễ có, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái,… Cách nói đó rất tương xứng với con người Hoạn Thư, bề ngoài thơn thớt nói cười mà trong lòng đầy nham hiểm giết người không dao.

Từ thân phận chịu áp bức đau khổ, Thúy Kiều đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lí, đó cũng phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Sau khi nghe những lời lí lẽ vừa có lí vừa có tình của Hoạn Thư thì Thúy Kiều đã mở rộng lòng bao dung nhân hậu mà tha riêng cho Hoạn Thư:

“Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”…

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”

Tuy ngoài sức tưởng tượng của mọi người nhưng quyết định của Thúy Kiều là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, thuần phong mỹ tục của người Việt ta. Vốn là người đã trải qua bao năm tháng nếm đắng cay, Thúy Kiều tự biết mình đã xâm phạm tới hạnh phúc gia đình người khác nên Thúy Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư, thể hiện sự rộng lượng và cao thượng của mình.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.

- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.

- Cuộc đời:

+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.

+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.

- Sự nghiệp văn học

+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.

+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.

2. Tác phẩm

1. Vị trí đoạn trích:

- Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

- Nội dung: Sau khi chịu nhiều đau khổ, Thúy Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng đền ơn, trả oán. Đoạn trích trên tả cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.

2. Bố cục

- 12 câu đầu : Thúy Kiều báo ân.

-  22 câu cuối : Thúy Kiều báo oán.

3. Nội dung chính

Sau khi chịu bao đau khổ, tủi nhục, đoạ đầy, Thuý Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng thoả nguyện đền ơn trả oán. Đây là trích đoạn tả cảnh báo ân, báo oán của Thúy Kiều.

4. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, tự sự

5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.

6. Giá trị nội dung

- Qua ngôn ngữ đối thoại Nguyễn Du đã làm nổi bật tính cách nhân vật Thuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư. Đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán là sự thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành”.

7. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại

- Từ ngữ mang tính nôm na, bình dân

- Sử dụng nhiều thành ngữ dân gian

- Có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và miêu tả.

 

Tài liệu có 12 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống