Giải SGK Kinh tế Pháp luật 11 Bài 9 (Kết nối tri thức): Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

6.5 K

Lời giải bài tập Giáo dục Kinh tế Pháp luật lớp 11 Bài 9: Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật sách Kết nối tri thức hay, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời câu hỏi Kinh tế Pháp luật 11 Bài 9 từ đó học tốt môn KTPL 11.

Giải bài tập KTPL lớp 11 Bài 9: Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

Mở đầu trang 54 KTPL 11: Em hãy chia sẻ suy nghĩ của mình về câu nói của Bác Hồ “Không được bắt luật pháp dành quyền ưu tiên riêng cho mình?”.

Lời giải:

(*) Tham khảo: Chia sẻ suy nghĩ:

+ Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ qua những thời kì lịch sử khác nhau. Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật được nhà nước tôn trọng, bảo vệ và ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật.

+ Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật được hiểu là: mọi công dân không phân biệt về: giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, địa vị xã hội… đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lí theo quy định của pháp luật.

+ Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người và xã hội.

1. Một số quy định cơ bản của pháp luật về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

Câu hỏi 1 trang 55 KTPL 11: Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lí được thể hiện như thế nào ở mỗi thông tin, trường hợp trên?

Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lí được thể hiện như thế nào

Lời giải:

- Đoạn Thông tin 1 cho biết:

+ Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội.

+ Mọi công dân đều có nghĩa vụ: tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng và có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định.

- Trường hợp 2 cho biết: mọi công dân không phân biệt nam, nữ; thành phần dân tộc đều có nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia.

- Trường hợp 3 cho biết: con cái (không phân biệt: con chung/ con riêng; con nuôi/ con đẻ, con trai/ con gái) đều bình đẳng trong việc thừa hưởng di sản thừa kế của bố mẹ.

- Trường hợp 4 cho biết: mọi công dân không phân biệt giới tính đều được hưởng quyền bình đẳng về giáo dục.

- Trường hợp 5 cho biết: mọi công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Câu hỏi 2 trang 55 KTPL 11: Em hãy nêu một số quy định pháp luật thể hiện công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lí, cho ví dụ minh hoạ.

Lời giải:

- Một số quy định của pháp luật thể hiện công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ:

+ Điều 8 Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án”.

+ Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.”

+ Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này.”

+ Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định: “Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân.”

- Ví dụ minh họa:

+ Ví dụ 1: Thành phố Hà Nội tiến hành cải tạo, sửa chữa vỉa hè cho người đi bộ, trong đó, tập trung xây dựng thêm đường trượt dành cho người khuyết tật đi xe lăn; lát gạch có rãnh lõm dành cho người khiếm thị.

+ Ví dụ 2: Sau khi có kết quả thi tốt nghiệp THPT, các bạn học sinh lớp 12 (không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo - tín ngưỡng, điều kiện gia đình,…) đều có quyền đăng kí tham gia tuyển sinh đại học theo nguyện vọng của bản thân.

2. Ý nghĩa quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật đối với đời sống con người và xã hội

Câu hỏi 1 trang 57 KTPL 11: Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí được thể hiện như thế nào ở mỗi thông tin, trường hợp trên?

Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí được thể hiện như thế nào ở mỗi

Lời giải:

- Các đoạn thông tin 1, 2, 3 cho biết: mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,... nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì đều bị xử lí theo quy định của pháp luật.

- Trường hợp 4 cho biết: ông A và ông B tuy ở 2 vị trí công việc khác nhau, nhưng đều bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm Luật Giao thông đường bộ.

- Trường hợp 5 cho biết: ông P và ông Q tuy làm những nghề nghiệp khác nhau, nhưng đều bị xử phạt khi có hành vi vi phạm Luật Bảo vệ môi trường.

- Trường hợp 6 cho biết: ông V và anh M tuy khác nhau về độ tuổi, nhưng đều bị xử lí hình sự khi có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy.

Câu hỏi 2 trang 57 KTPL 11: Ở trường hợp 4 theo em để bảo đảm quyền bình đẳng của công dân thì số tiền mà ông A và ông B phải nộp phạt sẽ giống nhau hay khác nhau? Vì sao?

Lời giải:

Trường hợp 4. Tại một ngã tư giao thông, ông A (nhân viên) và ông B (thủ trưởng) cùng làm tại một cơ quan, do mải nói chuyện, không chú ý nên cả hai đã điều khiển xe máy vượt đèn đỏ và đều bị Cảnh sát giao thông xử phạt vi phạm hành chính.

- Trong Trường hợp 4, để bảo đảm quyền bình đẳng của công dân thì số tiền mà ông A và ông B phải nộp phạt sẽ giống nhau.

- Vì: ông A và ông B cùng phạm một lỗi (vượt đèn đỏ); mức độ vi phạm ngang nhau và hành vi vi phạm xảy ra trong một hoàn cảnh như nhau.

Câu hỏi 3 trang 57 KTPL 11: Em hãy nêu một số quy định pháp luật thể hiện công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí và cho ví dụ minh hoạ.

Lời giải:

- Một số quy định của pháp luật:

+ Điều 9 Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lí theo pháp luật.

+ Khoản 6 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định: Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

+ Điều 95 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Ví dụ minh họa:

+ Ví dụ 1: Anh B là con trai của chủ tịch tỉnh X, anh B  cùng với chị C có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác. Khi đưa ra xét xử thấy hành vi của anh B có tính chất dã man, còn chị C là đồng phạm. Vì vậy toà tuyên án anh B là 2 năm 4 tháng tù còn chị C bị tuyên mức án là 1 năm 7 tháng tù.

=> Như vậy có thể thấy rằng toà án căn cứ vào mức độ, tính chất và hành vi vi phạm để xác định hình phạt và mức án phạt. Cho dù anh B là con trai của chủ tịch tỉnh X thì cũng vẫn phải chịu mức án về hành vi của mình, không có sự thiên vị nào ở đây cả bởi anh B bình đẳng như mọi công dân Việt Nam khác về trách nhiệm pháp lý.

+ Ví dụ 2: Doanh nghiệp A có hành vi trốn thuế, sau khi điều tra và phát hiện doanh nghiệp A đã cấu kết với một cán bộ trong cơ quan thuế để thực hiện trót lọt các hành vi này. Cơ quan điều tra đã khởi tố những người liên quan trong doanh nghiệp thực hiện hành vi này và cả người cán bộ trong cơ quan thuế để xử lý một cách nghiêm minh, đúng pháp luật. 

=> Trong ví dụ này, có thể thấy rằng pháp luật nghiêm minh xử lý đúng người đúng tội, cho dù có là cán bộ cơ quan nhà nước nhưng khi có sai phạm vẫn sẽ bị xử lý theo đúng pháp luật.

Câu hỏi 1 trang 57 KTPL 11: Em hãy cho biết việc thực hiện tốt quyền bình đẳng của công dân đã mang lại những lợi ích gì cho bản thân chị V, anh A và xã hội?

Em hãy cho biết việc thực hiện tốt quyền bình đẳng của công dân đã mang lại

Lời giải:

- Trường hợp 1:

+ Việc thực hiện tốt quyền bình đẳng của công dân đã giúp cho chị V được hưởng quyền học tập; quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội.

+ Với đại biểu Quốc hội khóa XV, chị V đã có nhiều ý kiến, kiến nghị về chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân.

- Trường hợp 2: Việc thực hiện tốt quyền bình đẳng của công dân đã giúp cho anh A được hưởng quyền học tập và lao động, cống hiến cho xã hội.

Câu hỏi 2 trang 57 KTPL 11: Việc Nhà nước ban hành và thực hiện một số chính sách ưu tiên đối với sinh viên là người dân tộc thiểu số có ý nghĩa như thế nào trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật?

Lời giải:

- Đồng bào các dân tộc thiểu số thường sinh sống tại những địa bàn còn nhiều khó khăn về kinh tế; thông tin liên lạc và cơ sở vật chất cho giáo dục còn nhiều thiếu thốn, lạc hậu hơn so với các khu vực khác trong cả nước; mặt khác, do kinh tế khó khăn và nhận thức của một bộ phận đồng bào còn hạn chế, nên nhiều gia đình chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con, em.

=> Vì vậy, việc nhà nước Việt Nam ban hành và thực hiện một số chính sách ưu tiên đối với học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Những chính sách ưu tiên này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa,… có thể tiếp tục học tập, lĩnh hội tri thức như mọi công dân khác. Qua đó, góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước.

Câu hỏi 3 trang 57 KTPL 11: Theo em, nếu không quy định quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật thì sẽ dẫn đến những hậu quả gì cho công dân và cho xã hội?

Lời giải:

- Nếu không quy định quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật thì sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, như: 

+ Tạo ra sự bất bình đẳng giữa các công dân; khiến cho các công dân không được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, không được phát triển đầy đủ và toàn diện… 

+ Sự tôn nghiêm của Hiến pháp và pháp luật bị xâm phạm. 

+ An ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội bị đe dọa.

Luyện tập

Luyện tập 1 trang 58 KTPL 11: Em đồng tình hay không đồng tình với những ý kiến nào dưới đây? Vì sao?

a. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ của mọi công dân, không phân biệt người lớn hay trẻ em.

b. Mọi công dân khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật đều có quyền kinh doanh.

c. Trẻ em không có nghĩa vụ bảo vệ môi trường.

Lời giải:

d. Mỗi người sinh ra và lớn lên trong những điều kiện khác nhau nên không thể bình đẳng với nhau.

- Ý kiến a. Đồng tình. Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân” (Khoản 1 Điều 45).

- Ý kiến b. Đồng tình. Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Khoản 2 Điều 16) và “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33).

- Ý kiến c. Không đồng tình. Vì: bảo vệ môi trường là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, điều này đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật (Điều 43 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”).

- Ý kiến d. Không đồng tình. Vì: Mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, độ tuổi,… nếu có đủ các điều kiện theo quy định của Hiến pháp, pháp luật thì đều bình đẳng với nhau; không ai bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ công dân và phải chịu trách nhiệm pháp lí khi vi phạm pháp luật.

Luyện tập 2 trang 58 KTPL 11: Em hãy nhận xét, đánh giá hành vi, việc làm của các chủ thể sau:

- Trường hợp a. Anh M năm nay đủ 18 tuổi nhưng cán bộ xã T đã không ghi tên vào danh sách cử tri để anh tham gia bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp với lí do anh M không đọc thông, viết thạo tiếng Việt.

Câu hỏi:

1/ Hành vi của cán bộ xã T là thực hiện đúng hay vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật? Vì sao? 

2/ Trong trường hợp này, anh M cần làm gì để thực hiện quyền bình đẳng của mình? 

- Trường hợp b. Anh V là người tỉnh A đã theo học nghề làm gốm sứ tại làng nghề gốm truyền thống thuộc tỉnh B. Dựa vào kiến thức, kinh nghiệm và biết áp dụng công nghệ vào sản xuất, quảng bá sản phẩm, nắm bắt nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, anh V đã mở xưởng sản xuất riêng tại tỉnh B, thu hút nhiều lao động của tỉnh B vào làm việc, giúp người dân nơi đây thoát nghèo. Những người đã từng dạy nghề làm gốm sử cho anh V buộc phải thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh để có thể cạnh tranh với anh V và cùng tồn tại, phát triển ngay trên quê hương của mình.

Câu hỏi: Việc anh V mở xưởng sản xuất tại tỉnh B có phải là thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực kinh tế không? Vì sao?

- Trường hợp c. G và N cùng tốt nghiệp trung học phổ thông. G dự thi và trúng tuyển vào hệ chính quy của Trường Đại học B, còn N đi làm công nhân tại Nhà máy X, sau đó dự thi và trúng tuyển vào hệ vừa học vừa làm cũng của Trường Đại học B. Sau những năm miệt mài học tập, cả hai đều tốt nghiệp Trường Đại học B và cũng làm việc tại Nhà máy X.

Câu hỏi:

1/ Quyền bình đẳng trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục được G và N thực hiện như thế nào?

2/ Việc G và N cùng làm việc tại Nhà máy X có thể hiện sự bình đẳng của công dân không? Vì sao?

- Trường hợp d. Bà U kinh doanh mặt hàng điện máy, ông Y kinh doanh vật liệu xây dựng. Cả hai cùng trốn thuế nên đã bị cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế và xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi: Việc cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế và xử phạt hành chính đối với bà U và ông Y có thể hiện sự bình đẳng về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí của công dân trước pháp luật không? Vì sao?

Lời giải:

♦ Trả lời câu hỏi Trường hợp a.

- Yêu cầu số 1: Hành vi của cán bộ xã T là vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Vì: theo quy định tại Điều 27 Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử.

- Yêu cầu số 2: Để thực hiện quyền bình đẳng của mình, anh M nên, giải thích cho cán bộ xã T hiểu 2 vấn đề sau:

+ Vấn đề 1: Quy định của Hiến pháp và pháp luật về quyền bình đẳng của công dân trong việc bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

+ Vấn đề 2: Quy định tại Khoản 4 Điều 13 Nghị định số 54/2018/NĐ-CP của Chính phủ: “Trường hợp cử tri không biết chữ hoặc không biết tiếng Việt, cử tri là người khuyết tật không tự đánh dấu và ký tên vào Phiếu lấy ý kiến cử tri thì được nhờ người trong gia đình hoặc người thân viết hộ.

=> Từ đó, yêu cầu cán bộ xã T ghi tên mình vào danh sách cử tri.

♦ Trả lời câu hỏi Trường hợp b. 

- Việc anh V mở xưởng sản xuất tại tỉnh B là thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực kinh tế.

- Vì: Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Khoản 2 Điều 16) và “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33).

♦ Trả lời câu hỏi Trường hợp c.

- Yêu cầu số 1: Quyền bình đẳng trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục được G và N được thể hiện thông qua việc: G và N đều có quyền: đăng kí tham gia tuyển sinh, học tập và lựa chọn chương trình đào tạo (chính quy/ vừa học vừa làm)…. theo nhu cầu của bản thân.

- Yêu cầu số 2: Việc G và N cùng làm việc tại Nhà máy X đã thể hiện sự bình đẳng của công dân. Vì: Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: 

+ “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Khoản 2 Điều 16)

+ “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” (Khoản 1 Điều 35).

♦ Trả lời câu hỏi Trường hợp d.

- Việc cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế và xử phạt hành chính đối với bà U và ông Y đã thể hiện sự bình đẳng về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí của công dân trước pháp luật không.

- Vì: bất kì công dân nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình và phải bị xử lí theo quy định của pháp luật, không phân biệt người đó là người có chức, có quyền, có địa vị xã hội… hay là một công dân bình thường; không phân biệt giới tính, tôn giáo,…

Luyện tập 3 trang 59 KTPL 11: Em hãy xử lí các tình huống sau:

- Tình huống a. Từ ngày được bổ nhiệm làm Giám đốc công ty và có thu nhập cao nên bố của T yêu cầu mẹ của T dừng công việc giảng dạy tại trường trung học phổ thông và ở nhà để chăm lo việc gia đình. Mẹ của T không đồng ý.

Câu hỏi: 

1/ Theo em yêu cầu của bố T có vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật không? Vì sao?

2/ Theo em, để đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ trong gia đình, bố của T cần phải làm gì?

3/ Nếu là T, em sẽ giải thích cho bố như thế nào?

- Tình huống b. Nhà P có hai anh em. P đang học Trường Đại học G (theo đúng nguyện vọng của bản thân), còn người em gái của P có nguyện vọng học Trường Đại học Thể dục - Thể thao vì rất thích đá bóng, nhưng bố mẹ P không đồng ý và yêu cầu em phải thi vào Trường Đại học Sư phạm để tiếp nối truyền thống của gia đình. 

Câu hỏi:

1/ Theo em, bố mẹ P có vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật không? Vì sao?

2/ Nếu là P hoặc là em gái của P, em sẽ giải thích với bố mẹ như thế nào?

Lời giải:

♦ Trả lời câu hỏi tình huống a:

- Yêu cầu số 1: Yêu cầu của bố T là vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Vì: Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: 

+ “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Khoản 2 Điều 16)

+ “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” (Khoản 1 Điều 35).

- Yêu cầu số 2: Để đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ trong gia đình, bố T cần:

+ Bàn bạc, thảo thuận và tôn trọng quyết định của mẹ T về công việc, nơi làm việc…

+ Yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ các thành viên trong gia đình.

+ Cùng chia sẻ, giúp đỡ mẹ T thực hiện các công việc trong gia đình.

- Yêu cầu số 3 (tham khảo): Nếu là T, em sẽ giải thích với bố rằng: 

“Việc tự do làm việc, lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc của mọi công dân đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Do đó, việc bố yêu cầu mẹ phải nghỉ việc ở trường để về chăm sóc gia đình là không phù hợp và trái với pháp luật. Bố không nên làm như vậy. 

Bên cạnh vấn đề về pháp luật, con nghĩ rằng: đối với bất kì ai, gia đình luôn chiếm giữ vị trí quan trọng, thiêng liêng; tuy nhiên, công việc cũng là một phần trong cuộc sống. Với mẹ, công việc giảng dạy không chỉ thể hiện niềm đam mê, vị trí xã hội mà còn cùng với bố kiếm thêm thu nhập để lo cho gia đình. Bao năm qua, mẹ đã làm rất tốt việc sắp xếp thời gian để vừa có thể chăm sóc chu toàn cho gia đình vừa hoàn thành tốt công việc giảng dạy. Vì vậy, con tin rằng bố sẽ lăng nghe, thấu hiểu và tôn trọng quyết định của mẹ về vấn đề này”.

♦ Trả lời câu hỏi tình huống b:

- Yêu cầu số 1: Bố mẹ P đã vi phạm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, vì: bố mẹ P đã có thái độ và hành động ép buộc em gái P đăng kí thi vào trường ĐHSP Hà Nội - trái với mong muốn và nguyện vọng của em ấy.

- Yêu cầu số 2: Nếu là P hoặc em gái P, em sẽ giải thích với bố mẹ rằng: 

+ Việc tự do lựa chọn nghề nghiệp của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, việc bố mẹ ép em gái theo học trường ĐHSP Hà Nội là hành vi trái với pháp luật. Bố mẹ không nên làm như vậy.

+ Mặt khác, nếu học tập không đúng với đam mê, sở thích thì cũng không có động lực để cố gắng và khó đạt được kết quả cao.

Luyện tập 4 trang 59 KTPL 11: Hãy chia sẻ những việc mà em và người thân đã làm để thực hiện các quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

Lời giải:

- Một số việc em và người thân đã làm để thực hiện các quy định về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật:

+ Đăng kí và tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi theo quy định.

+ Thực hiện tốt nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ bảo vệ môi trường,…

+ Tham gia bầu cử Đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân theo đúng quy định của pháp luật.

+ Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Vận dụng

Vận dụng trang 59 KTPL 11: Em hãy cùng các bạn trong nhóm xây dựng và thực hiện kịch bản có nội dung phản ánh những vấn đề sau:

- Tôn trọng và bảo vệ quyền bình đẳng trong học tập, vui chơi của trẻ em. 

- Không phân biệt đối xử với người nghèo, người khuyết tật.

Lời giải:

(*) Tham khảo tiểu phẩm: HÃY CHO CON ĐƯỢC ĐẾN TRƯỜNG!

Người dẫn truyện (dẫn dắt): Thưa cùng quý thầy cô và các bạn!

 “Trẻ em như búp trên cành - Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”… Các bản Hiến pháp trong lịch sử Việt Nam đều ghi nhận quyền học tập là một trong những quyền cơ bản của công dân nói chung và trẻ em nói riêng. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách pháp luật ưu đãi trong lĩnh vực giáo dục để mọi người đều được bình đẳng trong giáo dục, học tập, để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của mình; trẻ em có cơ hội được phát triển tài năng, năng khiếu, sáng tạo...

Tuy nhiên, thực trạng hiện nay, ở một số địa phương, nhất là ở vùng nông thôn hay vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, lạc hậu, có không ít trẻ em không được đi học, không được đến trường. Có nhiều nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan dẫn đến điều đó, trong đó,nhiều em phải bỏ học do hoàn cảnh khó khăn, đói nghèo.

Để đảm bảo quyền học tập của mọi trẻ em, cần có sự chung tay của các bậc cha mẹ, gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Chính việc quan tâm, tạo điều kiện thực hiện quyền học tập của trẻ em sẽ góp phần nâng cao dân trí, từ đó, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, một đất nước văn minh, hiện đại, hội nhập và phát triển...

Tiểu phẩm “Hãy cho con được đến trường” dưới đây là câu chuyện nói về điều đó.

I. Giới thiệu nhân vật:

- Ông Bảo

- Bà Trà (vợ ông Bảo)

- Ông Bách (bạn ông Bảo)

- Cô giáo chủ nhiệm.

II. Nội dung tiểu phẩm:

Cảnh 1. Tại quán rượu quê

Ông Bảo và ông Bách vốn làm bạn với nhau cũng đã hơn hai chục năm. Tại quán rượu quê, hai ông đang ngồi uống rượu và thao thao bất tuyệt câu chuyện về những đứa con gái của mình.

Ông Bảo: Tôi với ông có cái “duyên” đẻ toàn vịt giời, đã chẳng có người bàn chuyện “đại sự” lại không có ai lo hương khói lúc về già...

Ông Bách: Thế vợ chồng ông có tính đẻ thêm không? Tôi là tôi ra chỉ tiêu cho vợ tôi rồi, sẽ phải đẻ bằng được một thằng cu để có người chống gậy lúc về già, dù là đứa thứ 5 hay thứ 10 cũng đẻ.

Ông Bảo: Vợ ông còn trẻ, còn trứng mà đẻ, chứ bà vợ tôi còn đẻ nỗi gì… Tôi là tôi tính cho chúng đi làm, kiếm tiền cho mình nhẹ gánh.

Ông Bách: À, mà con Hằng nhà ông lớn tướng rồi ấy nhỉ. Con gái cho chúng học ít thôi, cho nó đi làm đi, đằng nào thì sau này nó chẳng đi lấy chồng, học lắm có phải tốn công của mình không. Đấy, như con bé nhà tôi năm nay 11 tuổi, làm được khối việc rồi. Từ đợt Covid đầu năm nay, tôi cho nó nghỉ học, đi phụ bác nó bán hàng ăn. Mỗi tháng cũng kiếm được tiền triệu đấy. Nó đi làm tôi mới có tiền uống rượu…

Ông Bảo (tâm đắc): Vậy cơ hả, cái tuyệt chiêu của ông hay đấy. Tôi sẽ học theo cách của ông để con Hằng nhà tôi đi làm theo con gái ông. Ông giúp cho tôi nhé!

Trên đường về nhà, ông Bảo tay cầm chai rượu, chân bước siêu vẹo. Vừa đi, ông vừa lẩm bẩm và hát mấy điệu nghêu ngao. “Rượu là từ gạo mà ra. Ta đây, uống rượu cũng là ăn cơm…”. Về đến nhà trong bộ dạng say sỉn, vừa bước chân đến cửa, ông đã lớn tiếng gọi con: “Con Hằng đâu? Con Hằng đâu? Ra đây tao bảo”.

Bà Trà (đang lúi húi dọn trong bếp, thấy chồng về trong bộ dạng say xỉn, liền chạy ra đỡ và dìu vào nhà. Rồi bà buồn rầu, than vãn): “Trời ơi là trời! Ông đi đâu mà giờ mới về? Lại còn say xỉn thế này nữa, rõ khổ, ngày nào cũng như ngày nào”….

Ông Bảo bước đi loạng choạng gọi to với giọng say không quan tâm gì đến vợ đang dìu mình vào nhà.

Ông Bảo: Không học hành gì cả! Vợ với chả con, đẻ toàn vịt giời rồi lại bay đi…!

Bà Trà: Con nào chả là con, thà nuôi dạy cho tốt còn hơn đẻ nhiều, còn phải nuôi dưỡng con cái, chăm sóc để chúng học hành nên người chứ!   

 Bà Trà dìu ông vào nhà, ông Bảo thiếp đi vì say. Bà thở dài rồi lại đi ra.

Cảnh 2. Tại nhà ông Bảo

Sáng hôm sau, ông Bảo và bà Trà ngồi tại bàn uống nước nói chuyện trong khi Hằng đang đọc sách bên hiên nhà.

Ông Bảo (nói với vợ): Tôi tính rồi, nhà mình nghèo, lại đông con, mà con Hằng cũng đã lớn rồi. Nó đi học nữa lấy gì mà nuôi. Nhà 6 miệng ăn chứ có ít gì đâu.

(Dừng lại một chút, ông nhìn ra cửa nói tiếp): Hôm qua tôi nghe ông Bách nói, con gái út của ông ấy còn kém tuổi cái Hằng nhà mình mà nó đã kiếm được tiền rồi đấy, mà là tiền triệu chứ chẳng ít đâu. Ông ấy còn bảo, nếu tôi đồng ý, ông ấy sẽ giới thiệu cho cái Hằng nhà mình đi phụ giúp cho quán ăn của người nhà ông ấy ở trên thành phố. Con đi làm, vừa có tiền phụ thêm thu nhập cho bà, đồng thời sau này lớn lên nó cái nghề mà sống. Với lại con gái lớn rồi, cũng phải để cho nó rèn luyện mới trưởng thành được, ý bà thế nào?

Bà Trà: Nhưng mà con còn đang tuổi đi học. Vợ chồng mình tuy nghèo nhưng phải cố cho con “cái chữ”. Có “cái chữ” sau này nó mới có nghề nghiệp ổn định, ra cuộc đời mới đỡ vất vả ông ạ! Thời nay, con trai, con gái đều như nhau, con nào chả là con hả ông.

Hằng đang ngồi đọc sách, nghe bố, mẹ bàn việc nghỉ học để đi làm, em bước vào nhà, hai dòng nước mắt chảy dài. Em vừa khóc vừa lay vào vai bố nói: “Bố ơi con muốn được đi học. Bố cho con đi học đi, con sẽ cố gắng sắp xếp thời gian để vừa học vừa giúp bố mẹ”. Quay sang mẹ ngồi bên, Hằng nói: “Mẹ nói với bố cho con đi học đi, con không muốn bỏ học đâu”.

Ông Bảo: (Cầm điếu cày, vê thuốc, rít một hơi dài, rồi chỉ tay, vẻ dứt khoát): Tao đã quyết rồi, không học với hành gì nữa cả! Con gái, con đứa học cho lắm cũng chẳng để làm gì. Với lại, mày không đi làm lấy đâu tiền còn nuôi một lũ em sau mày nữa. Mày ở nhà phụ mẹ đi kiếm tiền, rồi lớn thêm tý nữa lấy chồng là xong. Tao cũng chỉ lo được đến đây là hết sức rồi.

Bà Trà (vừa ôm con vừa quay sang thuyết phục ông Bảo): Ông ạ! Đúng là vợ chồng nhà mình còn nhiều khó khăn, nhưng tôi nghĩ cứ để con Hằng đi học. Nó mà thất học, các em của nó rồi cũng thế thôi. Cái nghèo cứ đeo bám mãi. Tôi sẽ cố kiếm việc làm thêm, rồi tăng gia sản xuất để các con đỡ khổ. Với lại con Hằng cũng phải cố gắng học cho tốt để bố mẹ nở mặt nở mày ra…

Ông Bảo: Tôi đã quyết rồi. Bà đừng bàn ngang nữa. Mà bà xem ở cái làng này, đứa con gái nào lớn mà chả phải đi làm. Đầy đứa có học hành gì đâu mà vẫn nên người đấy thôi. Với lại, có cố học thì học xong cũng chả có tiền đâu mà xin việc.

Bà Trà: Ông lại nói vậy rồi, đúng là ai lớn thì cũng phải đi làm. Nhưng muốn có việc làm tốt, thu nhập ổn định thì phải học. Ông thấy đấy, làng quê bây giờ cũng đổi khác nhiều rồi, không như trước nữa. Đấy, cái Loan, cái Huệ, con gái nhà cô giáo Hồng đầu làng đấy thôi, bố nó đi công tác xa có mấy khi về đâu, thế mà cả hai chị em đều học giỏi, tốt nghiệp đại học rồi. Học xong, chị em nó tự thân vận động thi tuyển rồi có việc làm, có mất đồng nào đâu. Lại còn được hưởng chính sách thu hút của thành phố nữa đấy.

Ông Bảo: Bà mơ mộng quá đấy, tôi đã quyết không được cãi. Từ mai con Hằng nghỉ học đi phụ bếp ở nhà hàng người thân nhà ông Bách, tôi thu xếp rồi. Làm trái lời tôi là đừng có trách!

Nói rồi ông đứng lên đi ra ngoài. Hằng ôm mẹ khóc nức nở. Bà Trà ôm con vào lòng với nỗi buồn khôn tả, bất lực, mắt rưng rưng hai dòng lệ.

Cảnh 3. Tại nhà ông Bảo

Sau mấy ngày không thấy Hằng đến lớp, cô giáo chủ nhiệm đã tìm hiểu và biết được nguyên nhân câu chuyện. Cô đã cùng Ban đại diện cha mẹ học sinh đến nhà Hằng. 

Tại nhà Hằng, cô giáo vừa đến, gọi cửa và ông Bảo ra mở cửa.

Cô giáo: Vâng, chào bác. Tôi xin giới thiệu, tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp của em Hằng. Mấy hôm nay, thấy em Hằng không đi học nên hôm nay tôi đến đây thăm gia đình và tìm hiểu lý do sao em Hằng không đến lớp.

Đúng lúc đó Hằng đi về, với vẻ mặt mệt mỏi, thấy cô chủ nhiệm, Hằng chào cô rồi vừa tủi vừa thẹn, em bước nhanh về phía mẹ.

Ông Bảo (đứng phắt dậy, nói gằn giọng): Cô có hiểu chuyện của gia đình tôi không? Tôi là bố nó, tôi có trách nhiệm lo cho nó. Cô biết đấy, nhà tôi nghèo, không có tiền nuôi 6 chị em nó ăn học nên tôi cho nó nghỉ. Thế thôi! Mà cô cũng không cần phải khuyên răn tôi về chuyện học hành của nó đâu. Tôi tự giải quyết được việc này.

Cô giáo: Vâng, bác cứ bình tĩnh. Việc em Hằng đi học là cần thiết lắm, không phải như bác vừa nói đâu ạ!

Ông Bảo: Tôi đã bảo việc nhà tôi tôi lo, không cần cô quan tâm.

Cô giáo: Tôi cũng biết hoàn cảnh kinh tế nhà bác khó khăn nên bác mới phải cho con nghỉ học chắc bác cũng đau lòng lắm. Làm cha làm mẹ, ai chả muốn con cái học đàng hoàng, sau này có công ăn việc làm ổn định, nhưng…

Ông Bảo: Thôi, cô không cần giải thích. Tôi không cần cô phải dạy khôn tôi. Việc nhà tôi, tôi đã quyết, cái Hằng sẽ không đi học nữa. Nó phải đi làm. Không thể nuôi báo cô mãi được, lớn rồi chứ còn bé gì. Với lại, học rồi cũng làm cái gì, nó đâu có giống cô được đâu.

Hằng ngồi lặng nghe bố mẹ và cô giáo nói chuyện. Mẹ Hằng đi lại rót nước mời cô giáo và nhẹ nhàng nói với chồng: Ông ạ, cô giáo nói như vậy, tôi thấy đúng đấy!

Ông Bảo: (cắt ngang giọng gắt gỏng): Bà không phải “tát nước theo mưa”. Chuyện tôi đã quyết, hai mẹ con cứ thế mà làm. Rất hoan nghênh cô đã quan tâm đến cháu, nhưng bây giờ thì xin mời cô về cho.

Cô giáo kéo Hằng ra giữa nhà và nhìn bố mẹ Hằng nói giọng nghiêm nghị: 

Cô giáo: Các bác nhìn xem, em Hằng mới chỉ 12, 13 tuổi, cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, tuổi của con phải được ăn học, vui chơi… Việc bác bắt cháu bỏ học sớm và đi làm là vi phạm về quyền và nghĩa vụ của trẻ em đó.

Ông Bảo: Cái gì? Trẻ em mà cũng có quyền nữa à? Quyền là ở tôi. Không có pháp luật gì cả cô nghe chưa!

Cô giáo: Thưa bác, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên của Châu Á đã phê chuẩn công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. Rồi Luật Trẻ em năm 2016 cũng đã quy định rất cụ thể các quyền của trẻ em như quyền được sống, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển và quyền được đến trường. Không những vậy, pháp luật cũng nghiêm cấm các hành vi sử dụng lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động, rồi cản trở việc học tập của trẻ em…

 (Dừng lại một phút, cô tiếp tục giải thích):

  Đó là quy định của pháp luật, chúng ta phải cùng nhau tuân thủ, chấp hành và thực hiện cho đúng. Còn về chuyện cuộc sống gia đình bác, tôi biết việc cho cháu nghỉ học cũng là bất đắc dĩ vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nhưng nếu bác bắt cháu bỏ học để đi làm phục vụ vất vả như vậy ở quán ăn là trái pháp luật đấy! Bộ luật Lao động năm 2019 quy định việc sử dụng lao động chưa thành niên ở độ tuổi của cháu Hằng phải được sự đồng ý của cháu. Vả lại, việc bố trí làm việc không ảnh hưởng đến giờ học tại trường của cháu.

Ông Bảo: Gì mà quyền với luật lắm thứ thế. Tôi không hiểu và không quan tâm. Tôi đã bảo ở cái gia đình này, quyền là ở tôi, do tôi. Cô cứ nói chuyện ở tận đẩu, tận đâu ấy. Cô xem đang có bao nhiêu đứa trẻ phải lang thang kiếm sống, chúng làm đủ thứ nghề nào là xây dựng, phụ hồ, kéo xe… có sao đâu, “có làm thì mới có ăn” chứ!.

Cô giáo: Bác Bảo ạ, tôi mong bác suy nghĩ lại và đồng ý cho cháu Hằng trở lại lớp học. “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Trẻ em là tương lai của đất nước mà. Để phát triển những mầm non tương lai, không những gia đình, nhà trường mà toàn xã hội cũng phải quan tâm giáo dục và tạo điều kiện để các cháu được phát triển. Trong lớp, em Hằng là một học sinh giỏi và rất ngoan, các bác nên tiếp tục cho cháu đi học. Chỉ có học mới nâng cao tri thức và sẽ là đôi cánh chắp cánh ước mơ thoát nghèo bác ạ!

Mẹ Hằng ôm con gái, nhìn cô giáo rồi nói với chồng:

Bà Trà: Ông ơi! Cô giáo nói đúng đó. Thôi thì vì con, nể lời cô giáo, ông cho con Hằng đi học trở lại đi. Tôi sẽ cố gắng làm thêm việc phụ để có thêm thu nhập, chi tiêu tằn tiện để con được đi học. (Bà nhìn sang cô giáo nói tiếp): Mong cô thông cảm, cũng vì gia đình đông con, nhà nghèo nên cháu Hằng mới thiệt thòi như vậy. Cho cháu đi làm, tôi và bố nó cũng thương con lắm. Hôm nay cô giáo nói những điều hay ý đẹp, mà đẹp cho tương lai con gái chúng tôi, tôi cũng hiểu hơn rồi cô ạ!

Cô giáo: Cuộc đời hai bác đã vất vả, lam lũ rồi. Nếu hai bác để cháu Hằng thất học thì cũng lại đi theo lối mòn đó và sẽ thật là đáng tiếc. Cháu bỏ học bây giờ, sau này không có trình độ, không có bằng cấp thì tương lai mờ mịt sẽ đi về đâu hả bác?

Ông Bảo (cố vớt vát):Thì.., thì…tôi cũng mới chỉ tính trước mắt cho con đi làm để có thêm thu nhập cho gia đình, cũng chưa nghĩ sâu xa như cô vừa nói! Mong cô thông cảm cho tôi.

Cô giáo: Vâng, chính vì hiểu và cảm thông hoàn cảnh gia đình bác nên tôi mới đến đây để động viên bác cho cháu đến trường. Ban đại diện Hội cha mẹ học sinh cũng trích một phần trong Quỹ khuyến học của trường, giúp cho gia đình ta bớt khó khăn hơn đây bác ạ!

Ông Bảo (Ngồi lặng lẽ không nói nữa. Ông đi lại bên con gái, giọng nói của ông dịu xuống): Ừ, thì… cũng chỉ vì nhà mình nghèo, con đông nên bố mới đành lòng như thế, cho con đi làm bố cũng thương lắm.

Hằng (ôm bố thủ thỉ): Bố! Con biết bố mẹ khổ tâm vì chúng con. Con sẽ cố gắng học thật tốt để không phụ lòng bố mẹ và thầy cô. Ngoài giờ học trên lớp, con sẽ phụ giúp bố mẹ những việc gia đình, trông nom các em để bố mẹ đỡ vất vả. Bố cho con đi học trở lại nhé!   

Ông Bảo: Ừ, con hãy cố gắng học thật tốt để trở thành người có ích nhé. Rồi ông cầm tay Hằng tiến lại gần cô giáo vẻ hối hận: Xin lỗi cô, tôi cả giận mất khôn. Những lời của cô làm tôi thấy xấu hổ với chính mình và con gái của mình. Âu cũng do mưu sinh nên tôi mới đành lòng làm thế! Mong cô giáo thông cảm và thứ lỗi cho tôi. Tôi đã nhận ra và xin gửi gắm con gái tôi, nhờ cô giáo giúp cho cháu quay lại học tập và tiến bộ.

Ông Bảo (đi đến bên vợ): Tôi sẽ quyết tâm cai rượu và cùng bà tích cực làm việc để có thêm tiền cho các con ăn học. Bà cũng tha lỗi cho tôi nhé!

Hằng hết nhìn cô giáo lại quay sang bố, mẹ đầy xúc động. Ngày mai, em lại được đến trường./.

Lý thuyết KTPL 11 Bài 9: Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

1. Một số quy định cơ bản của pháp luật về quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

a) Công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ

- Mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, độ tuổi,... nếu có đủ các điều kiện theo quy định của Hiến pháp, pháp luật thì đều được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mà Hiến pháp, pháp luật đã quy định.

b) Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý

- Mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,... nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Lý thuyết KTPL 11 Kết nối tri thức Bài 9: Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật | Kinh tế Pháp luật 11

2. Ý nghĩa quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật đối với đời sống con người và xã hội

- Việc quy định quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật là tôn trọng sự khác biệt giữa các công dân, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, tạo điều kiện để mỗi người, nhất là những người yếu thế có điều kiện phát triển, vươn lên, làm cho xã hội đoàn kết, dân chủ, công bằng, mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Lý thuyết KTPL 11 Kết nối tri thức Bài 9: Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật | Kinh tế Pháp luật 11

Xem thêm các bài giải SGK Giáo dục Kinh tế và Pháp luật lớp 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Bài 8: Văn hóa tiêu dùng

 
Đánh giá

0

0 đánh giá