Văn bản Mắc mưu Thị Hến - Nội dung, tác giả, tác phẩm

12.6 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Mắc mưu Thị Hến Ngữ văn lớp 10 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Mắc mưu Thị Hến lớp 10.

Mắc mưu Thị Hến - Ngữ văn lớp 10

I. Tìm hiểu tác phẩm Mắc mưu Thị Hến

1. Thể loại: Tuồng hài: tuồng là một loại hình sân khấu truyền thống của dân tộc, ra đời từ xa xưa, do các tác giả dân gian sáng tác và được lưu truyền tới ngày nay. 

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

Đoạn trích “Mắc mưu Thị Hến” được trích trong vở tuồng nổ tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến” 

Mắc mưu Thị Hến - Tác giả tác phẩm (mới 2022) | Ngữ văn lớp 10 Cánh diều

3. Phương thức biểu đạt : tự sự

4. Bố cục

- Phần 1:   từ đầu đến ...“sẽ bày tự tình”

- Phần 2: tiếp đến ... “ hễ phá giới tức hành trảm quyết”

- Phần 3: tiếp đến... “ giữ dạ đừng ham của lạ”

- Phần 4: còn lại 

5. Tóm tắt

Ốc và Ngao rủ nhau đi ăn trộm nhà phú hộ Trùm Sò. Chúng đem bán tang vật cho Thị Hến. Lý Hà phát hiện của gian trói Thị Hến lên quan huyện xét xử. Bởi vì quan huyện và thầy Đề u mê trước vẻ đẹp của nàng nên đã tha bổng cho Thị Hến. Nghêu là một thầy tu phá giới, sa đọa cũng có ý với Hến. Hến cho mời cả ba đến nhà vào một buổi tối, và đã dùng mưu, tại đây đã diễn ra một cuộc hội ngộ đầy bẽ bàng và nhục nhã.

6. Giá trị nội dung

- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại, mưu trí, ứng biến mọi tình huống rất tinh tế và vô cùng khôn khéo.

- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện: tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

7. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng tuyến nhân vật với những tính cách đa dạng thể hiện được mọi góc nhìn về xã hội đương thời 

- Tình huống tuồng đắt giá giúp các nhân vật bộc lộ hết bản chất

II. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Mắc mưu Thị Hến

1. Nhân vật Thị Hến

- Thị Hến là một người đàn bà góa chồng nhưng trẻ trung, xinh đẹp nhưng trong mắt mọi người nàng lại lẳng lơ, điêu ngoa.

- Thị Hến mua nhầm phải tang vật của vụ ăn trộm từ Ốc và Ngao

- Sau đó bị Lý Hà phát hiện bắt giải Thị Hến quan huyện xét xử

- Nhưng trước nhan sắc của Thị Hến cả Đề Hầu và Huyện Trìa đều mê mẩn.

- Huyện Trìa ưu ái xử cho Thị Hến thắng kiện

“Chào thầy mới tới

trà nước vội vàng” 

=> Lịch sự, lễ phép chào mời khách đến chơi nhà

 “Đành lòng đây đó giao duyên

sợ nỗi thế gian đàm tiếu” 

=> Thị Hến sợ mang tai tiếng về danh dự và nhân phẩm, lẳng lơ

- Gài bẫy để cả ba người là thầy Đề, Nghêu, quan Huyện đều phải xuất đầu lộ diện trong tình huống xấu hổ, nhục nhã ê chề

2. Nhân vật Nghêu

- “ Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa” 

=> Là một thầy tu lừa bịp, đểu cáng, dựa dịp 

- Hắn đã gieo quẻ chỉ hướng cho Ốc vào ăn trộm nhà Trùm Sò

- “ Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang, mở cửa cho mình vào với”

=> Nghêu gõ cửa nhà Hến, hành động phá giới luật, không trang nghiêm, đường hoàng.

- Thái độ của Nghêu khi biết Đề Hầu đang gõ cửa nhà Hến

- “Trốn chỗ nào khác chỉ cho min”

=> Hoảng hốt, luống cuống, tìm chỗ ẩn nấp  

- “Chớ ra cửa có thầy Đề đứng đó”

=> Dặn Hến không được mở cửa cho thầy Đề vào vì sợ bị lộ thân phận, còn mình trốn xuống gầm phản

- Khi nghe thấy lời của Đề Hầu xỉa xói 

=> Tức tối, soi sục trong lòng, một phần thấy nhục nhã

3. Nhân vật thầy Đề

- “Ơn mỗ cứu cho bữa trước

….

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên

Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi”

=> Nhắc nhở Thị Hến về công lao của mình hôm xử kiện ở công đường

=> Bày tỏ tình cảm với Hến, trách Hến sao lại đồng ý qua lại với quan Huyện

- Mỉa mai, châm biếm Nghêu giữa nhà Hến 

+ “ Lỗ tai nghe quá chướng

Hễ phá giới tức hành trảm quyết”

- Khi biết tin thầy Huyền đến

+ “ Chắc hẳn thầy Đề mang khổ”

=> Tâm trạng lo lắng, sợ sệt, hoảng loạn

4. Nhân vật Huyện Trìa

- Nịnh bợ Thị Hến tha lỗi ch mình vì đã đến muộn 

+ “Thôi chớ làm giận, làm hờn nữa mà”

- Lại tiếp tục mỉa mai, nói móc Ngêu

+ “Phàm tu hành mà đã xuất gia

Có phá giới đánh đòn phát lạc”

=> Nghêu không chịu được sự xỉ nhục thêm nữa, lồm cồm bò ra , dùng những lời lẽ ngon ngọt để nịnh quan huyện

=> Đề Hầu cũng lộ diện, tố cáo Thị Hến và Nghêu mưu mẹo lừa gạt hắn ta và chịu lỗi trước quan huyện

=> Tất cả cùng đối mặt với nhau trong một tình huống thật chớ trêu và căng thẳng

Kết luận

- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại, mưu trí, ứng biến mọi tình huống rất tinh tế và vô cùng khôn khéo.

- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện:  tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

III. Đọc tác phẩm: Mắc mưu Thị Hến

LỚP 19 [.....]

NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,

Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.

(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)

THỊ HÊN: Chào thầy mới tới,

Trà nước vội vàng.

Đành lòng đây đó giao duyên,

(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).

NGHÊU: Vốn đà trước liệu, Lựa phải sau lo.

Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa, 

Cảy, cấy, đâm, xay đành phận mỗ. 

(Này này!) Khuyên cùng với đó,

Chớ khá phụ đây.

Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy, 

Ở như vậy uổng tài bà goá.

(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)

THỊ HỂN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chỉ lạ?

Hay thầy Lại tới đây?

(Này! Này! Mô Phật!)

Đi ra kẻo tội với thầy,

Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)

NGHÊU: (Trời trời!)

Lão Để lại làm chi quá ngặt? 

Khiến thầy tu chạy đã hầu điên. (Thím ơi! Thím)

Trốn chỗ nào khác chỉ cho min

(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!

THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó. 

(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây. 

Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây. 

(Để) Người về đã, sẽ vầy( hai mặt.

(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào) 

Lại nói: (Thưa thầy!)

Nghe kêu lật đật,

Mở cửa vội vàng, Thỉnh lại gia trang

Sẽ bày tình tự.

ĐÈ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,

Nay nường còn nhớ chưa quên? 

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên, 

Mà vội phụ thầy Để tình ngãi (hử)?

THỊ HÊN: Xin thầy hãy nghĩ lại,

Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng. 

Đành đôi ta là cái duyên hằng

(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)

ĐÈ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)

Đèn không khêu không tỏ,

Chuông không đánh không kêu. (Ta nói thiệt)

Đó không thương đây cũng quyết liều, (

Chừ Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.

THỊ HÉN: Ân ái việc còn thong thả,

Rượu trà xin hãy vui chơi! 

Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi, 

Bây giờ đã gặp nhau hai mặt. 

(Chừ có việc này)

Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày! 

Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,

Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)

ĐÈ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,

Trong luật lệ rất to,

Hễ phá giới tức hành trảm quyết!

(Huyện Trìa tới)

HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài cửa)

Viên ngoại diễu văn tế thuyết, 

Môn tiền hữu ngã quan nhơn

Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!

Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)

ĐỀ HẦU:

(Chui chao!)

Văn ngôn sắc biến! Sắc biển! 

Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh 

Nếu mà ông Huyện tri tình, 

Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!

(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)

HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quá gấp, 

Đêm tối tăm đảng xá (lại) khó đi. 

Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì, 

Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp. 

Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm, 

Từ rày xin tới mụ cho liên, 

Gẫm đà phải nợ phải duyên,

Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)

THỊ HÊN: Nghĩ mà tủi phận,

Đâu dám trách ai,

(Nhưng tôi nghĩ lại như ông) 

Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,

(Mà buộc tôi không đặng?)

Trai quá gái không thường lệ,

(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ, 

(Nhưng mà tôi)

E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)

(Cho nên tôi)

Lánh một xó, lọ một nơi,

Khó trối thây, giàu ai chẳng luy!

HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chử!)

Ta nghỉ ngơi kéo mệt,

Nói dài lắm cũng buồn.

Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng, 

Bớt bớt xin đừng nói bơm!

THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp, 

Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?

Rượu trà hãy xin mời,

Ái ân rồi có đó.

(Bây giờ tôi xin nhờ quan)

Vốn tôi chưa rõ,

Xin hỏi một lời:

Người từng xem luật lệ nơi nơi,

(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.

Rầy có chú thầy tu rất chạ),

Hay tới nhà mà ve bà goá,

Đã xuất gia, phá giới làm vợ), 

Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?

HUYỆN TRÌA: (Uẩy!)

Nói làm chỉ việc rối, Ai có tiếc làm chi.

Phàm tu hành mà đã xuất gia, 

Có phá giới đánh đòn phát lạc!

NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)

Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!

Thiện xử phân! Thiện xử phân!

(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)

Chơn vi phụ mẫu chi dân! 

(Chứ thầy Đề)

Chỉ thị dâm ô chỉ loại 

Như thầy tu phá giới, 

Thời bất quá đánh đòn. 

Còn thầy Lại phạm gian, 

Thật ắt là tội chết.

ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)

 Đầu đuôi tại mụ Hến, 

Mưu mẹo bởi lão thầy tu

Rày quan Huyện trớ trêu 

Mắc đàn bà quá tội. T

ôi cam chịu lỗi, 

Ai biết mà chê!

Trong nha môn cả Huyện đến Đề, 

Còn tạo lệ không mời luôn thể!

HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ, 

Như nhà sư bắt chước cố trêu.

 Mắc cỡ lêu lêu!

Lêu lêu mắc cỡ!

Rất nên quái gở,

Làm việc lăng nhăng! 

Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn, 

Còn đồ vặt bay làm sạch trụi. 

Thầy tu khá lui về cho khỏi, 

Đề lại mau cõng mỗ về nhà. 

Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề, 

Giữ dạ dừng tham của lạ.

(Hạ)

THỊ HẾN: Tâm khoái dã! 

Tâm khoái dã! Kế hoạn nhiên! Kế hoan nhiên! 

Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên, 

Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy. 

Giữ tiết hạnh một niềm cho toại, 

Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Xúy Vân giả dại (Trích chèo Kim Nhan)

Tác giả - tác phẩm: Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

Tác giả - tác phẩm: Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)

Tác giả - tác phẩm: Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: một hằng số văn hóa Việt Nam

Tác giả - tác phẩm: Lễ hội Đền Hùng

 

Đánh giá

0

0 đánh giá