Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo - Trần Đăng Khoa - Nội dung, tác giả, tác phẩm

6 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo Ngữ văn lớp 10 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Lính đảo hát tình ca trên đảo lớp 10.

Lính đảo hát tình ca trên đảo - Ngữ văn lớp 10

I. Tác giả Trần Đăng Khoa

1. Tiểu sử

- Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/04/1958, quê ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

- Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam

- Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968 khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ Hạt gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).

- Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.

- Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10 trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về Quân chủng Hải quân, ông cũng từng chiến đấu ở Chiến trường Tây Nam Việt Nam giai đoạn 1978-1979.

- Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện văn học thế giới M. Gor-ki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội.

- Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài tiếng nói Việt Nam.

- Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa - Du lịch Vietnam Jouney), ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này.

- Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để ông chuyển sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.

- Ông nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Phó bí thư thường trực của Đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam

- Hiện nay, ông giữ chức Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội

- Ông cũng là Trưởng ban chung khảo, hội đồng giám khảo quốc gia của cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam từ 2016 đến nay, thay cho Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Trí Huân.

- Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền Phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (năm 2001)

- Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh – tác giả các tập thơ Nhà thơ và Hoa cỏ, Bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh..., từng là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một chị gái là Trần Thị Bình, hiện sống ở quê cùng với thân mẫu của nhà thơ. Ông còn có một người em gái tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

2. Sự nghiệp văn học

- Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã cao tuổi.

- Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa:

+ Từ góc sân nhà em (1968)

+ Góc sân và khoảng trời, tập thơ (1968) gồm 107 bài thơ, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên thế giới.

+ Đi đánh thần Hạn (trường ca 4 chương, 1970)

+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 1), tuyển tập thơ 1970

+ Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973

+ Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974

+ Trường ca Giông bão, trường ca, 1983

+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2), tuyển tập thơ, 1983

+ Bên cửa sổ máy bay, tập thơ (1986), 26 bài thơ

+ Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, đã được tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.

+ Thơ tình người lính biển, đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc

+ Đảo chìm, tập truyện-kí, 2000, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần

+ Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài

+ Đảo chìm Trường Sa, tuyển tập thơ văn, 2016

II. Tìm hiểu tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo

1. Xuất xứ

     Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo được nhà thơ Trần Đăng Khoa viết năm 1982, khi là anh lính hải quân cùng đồng đội ở ngoài Trường Sa sóng nước.

2. Bố cục Lính đảo hát tình ca trên đảo

 Văn bản Lính đảo hát tình ca trên đảo được chia thành 2 phần:

+ Phần 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo và cuộc sống, nếp sinh hoạt lạc quan yêu đời của họ

+ Phần 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.

3. Giá trị nội dung của Lính đảo hát tình ca trên đảo

- Bài thơ khắc họa hiện thực về cuộc sống khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ thứ của những người lính trên quần đảo Trường Sa

- Đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lãng mạn hào hoa của những người lính trẻ, dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn vui tươi và không ngừng hi vọng, mong chờ vào một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thủy thiết tha

- Cho thấy tình cảm yêu mến, trân trọng và ngợi ca của tác giả đối với những người lính trẻ

4. Giá trị nghệ thuật của Lính đảo hát tình ca trên đảo

- Giọng điệu bài thơ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ vẫn bồi hồi bỏng cháy

- Âm hưởng trẻ trung, lạc quan, yêu đời, tươi vui

- Ngôn từ mộc mạc, giản dị

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo

1. Khâu chuẩn bị biểu diễn của những người lính đảo

 - Không gian sân khấu thiếu thốn, tạm bợ

- Đá san hô làm sân khấu

- Vài tấm tôn làm cánh gà

=> Không gian biểu diễn chỉ cần có sân khấu và cánh gà

- Hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt 

- Gió rát mặt, đảo liên tục thay đổi hình dáng => Địa hình nơi đảo xa khó khăn, hiểm trở

- Hình ảnh so sánh “sỏi cát bay - lũ chim hoang” => thể hiện số lượng sỏi cát bay mịt mù trong gió trời

- Cả người hát lẫn người xem toàn là lính trọc đầu => Đặc điểm của những người lính trên đảo 

2. Buổi biểu diễn của những người lính đảo

- Tiết mục biểu diễn có sự góp sức của cả thiên nhiên

- Mây nước đã mở màn là biện pháp nhân hóa => Khúc ca có sự góp mặt của mây và nước

- Giai điệu của những người lính đảo phóng khoáng, tự do nhưng tràn đầy tình yêu

- Biện pháp so sánh: Giai điệu ngang tàng như gió biển => Giọng ca mát lành, phóng khoáng tự do

- Lời ca chỉ toàn tình yêu gửi đến nơi hậu phương 

=> Tâm hồn lãng mạn của những người lính đảo

3. Buổi biểu diễn đến cao trào 

- Lời hát nhắc lại những kỉ niệm nơi hậu phương 

- Kỉ niệm đi dạo dưới đêm trăng 

- Những bức thư tình chưa biết gửi cho ai

=> Nỗi nhớ nhung của những người lính đảo nơi chiến tuyến

- Lời hát là lời khẳng định lòng chung thủy nơi biển đảo

- Đứng vững giữa muôn trùng sóng vì tổ quốc yêu thương 

=> Dù trăm bề khốn khổ nhưng những người lính không quên nhiệm vụ của mình, rắn rỏi, ngang tàng

IV. Đọc tác phẩm:  Lính đảo hát tình ca trên đảo

Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa

Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Đá củ đậu bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn...

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau

Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang sóng sánh
Hoá ra là sư cụ hát tình ca

Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời...

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước

Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai...

Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Đất nước (Nguyễn Đình Thi)

Tác giả - tác phẩm: Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)

Tác giả - tác phẩm: Đi trong hương tràm

Tác giả - tác phẩm: Mùa hoa mận (Chu Thùy Liên)

Tác giả - tác phẩm: Bản sắc là hành trang

Đánh giá

0

0 đánh giá