Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 10 bài: Tam đại con gà - Nhưng nó phải bằng hai mày mới nhất, tài liệu bao gồm 7 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Tam đại con gà - Nhưng nó phải bằng hai mày
Bài giảng: Tam đại con gà
Soạn bài 10: Tam đại con gà nhưng nó phải bằng hai mày
1. Soạn bài: Tam đại con gà
1.1. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
- Trong truyện Tam đại con gà, “ông thầy” liên tiếp bị đưa vào hai tình huống;
+ Thầy đồ đi dạy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì,
học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều…”
+ Khi bị người nhà phát hiện dạy sai, thầy ra sức bao biện để chối tội và giấu dốt.
- Tình huống 1: “ông thầy” giải quyết bằng cách nói liều và còn viện đến thổ công
để “chứng giám” một cách hú họa cho sự dốt nát của mình.
- Tình huống 2: “ông thầy” đã giải quyết để bào chữa cho mình bằng một cái “lí sự
cùn”
- Qua hai tình huống, cái bản chất “dốt” của thầy đồ đã được bộc lộ rõ. Dốt nhưng
vẫn ham khoe giỏi và nhất quyết bao biện cho mình bằng một cái “lí sự cùn” hoàn
toàn không thể tin tưởng được.
=> Cái dốt không che đậy được, càng giấu càng lộ ra, càng làm trò cười cho thiên
hạ.
Câu 2 (trang 79 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Truyện Tam đại con gà phê phán một loại người, một thói tật xấu trong xã hội:
muốn giấu dốt và cố tình che giấu cái dốt một cách liều lĩnh.
1.2. Luyện tập
Gợi ý:
- Các hành động của thầy đồ:
+ Bảo học trò đọc khe khẽ (thận trọng).
+ Xin đài âm dương (thận trọng).
+ Ngồi bệ vệ trên giường bảo học trò đọc to (đắc chí).
- Các lời nói của thầy chứa đựng sự phi lí:
+ Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà.
+ Dạy học trò biết đến tận tam đại con gà.
=>Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến.
2. Soạn bài: Nhưng nó phải bằng hai mày
2.1. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
a. Mối quan hệ giữa Cải và thầy lí trước khi xử kiện là mối quan hệ đã được xếp
đặt sẵn (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng).
b.
- Cải ung dung nghĩ mình thắng kiện, tuy nhiên thầy lí xử Cải bị phạt mười roi.
- Thầy lí:
+ Hành động: Xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay phải.
+ Lời nói: “tao biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày”.
Câu 2 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Nghệ thuật gây cười qua lời nói của thầy lí ở cuối truyện: thầy lí xòe năm ngón tay
trái úp lên năm ngón tay phải.
=> Sợi dây liên hệ thông suốt giữa: lẽ phải – những ngón tay và những đồng tiền.
=> Ý nghĩa tố cáo của truyện: đồng tiền đo lẽ phải, tiền nhiều lẽ phải nhiều, tiền ít
lẽ phải ít.
Câu 3 (trang 80 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Nhân vật Cải và Ngô:
- Là những người nông dân tội nghiệp, vừa đáng thương vừa đáng trách.
- Là nạn nhân của chế độ phong kiến.
2.2. Luyện tập
Đặc trưng của truyện cười thông qua hai truyện Nhưng nó phải bằng hai mày và
Tam đại con gà:
Tam đại con gà | Nhưng nó phải bằng hai mày |
- Mâu thuẫn gây cười: thầy đồ dốt nát nhưng huênh hoang, ngụy biện. |
- Mâu thuẫn gây cười: việc phân xử, công lí được đong đếm bằng tiền. |
=> Nội dung truyện cười: thường châm biếm, chế giễu thói hư tật xấu trong một bộ
phận người.
=> Nghệ thuật tạo tiếng cười: chưa đựng mâu thuẫn trái tự nhiên, kết cấu truyện
ngắn gọn, mạch lạc, logic, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm tạo tiếng cười.
3. Soạn bài: Tam đại con gà nhưng nó phải bằng hai mày
3.1. KIẾN THỨC CƠ BẢN
3.1.1. Về khái niệm truyện cười
a) Truyện cười là những truyện dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất
ngờ, kể về những sự việc, hành vi trái tự nhiên của con người, có tác dụng gây
cười, nhằm mục đích giải trí và phê phán xã hội.
b) Truyện cười thường khai thác những mâu thuẫn trái tự nhiên những hành động
kệch cỡm, rởm đời hay dốt nát trong cuộc sống. Truyện thường ngắn nhưng chặt
chẽ, ít các chi tiết rườm rà, mâu thuẫn phát triển nhanh và kết thúc bất ngờ. Truyện
cười mang ý nghĩa giải trí và giáo dục. Ngoài tiếng cười, nó tập trung phê phán
những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân, vì thế mới có ý kiến cho rằng, truyện
cười không chỉ là sản phẩm của óc khôi hài mà còn là một thứ vũ khí đấu tranh đắc
dụng của nhân dân ta.
c) Truyện cười có hai loại: Truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài
chủ yếu nhằm mục đích giải trí (tuy nhiên vẫn bao hàm giá trị giáo dục). Truyện
trào phúng được sáng tác với mục đích phê phán. Đối tượng phê phán phần lớn là
các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa (như: bọn
quan lại bất tài, tham nhũng...). Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật
xấu trong nội bộ nhân dân.
3.1.2. Về hai văn bản Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày.
Hai truyện cười này đều thuộc loại truyện trào phúng. Đối tượng của sự phê phán
là thầy đồ dốt nói chữ và bọn quan lại tham nhũng ở địa phương.
Truyện Tam đại con gà hướng sự châm biếm, đả kích vào những kẻ "xấu hay làm
tốt, dốt hay nói chữ". Cái xấu, cái dốt càng che đậy càng dễ lộ ra, kệch cỡm và
đáng cười hơn rất nhiều lần.
Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày lại giống như một màn kịch ngắn. Khai thác
triệt để sự kết hợp giữa lời nói với cử chỉ và với lối chơi chữ độc đáo, truyện đã
vạch trần hành động tham nhũng trắng trợn của thầy lí. Đồng thời, truyện cũng nói
lên tình cảnh vừa bi hài, vừa đáng thương, đáng giận của những người lao động.
3.2. RÈN KĨ NĂNG
3.2.1. Trong truyện Tam đại con gà, "ông thầy" liên tiếp bị đưa vào hai tình
huống:
Thầy đồ đi dạy học trò nhưng "thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết
chữ gì, học trò lại hơi gấp, thầy cuống, nói liều...".
Khi bị người nhà phát hiện dạy sai, thầy ra sức bao biện để chối tội và giấu
dốt.
Trong lần thứ nhất, để "giải quyết tình huống", "ông thầy" đã nhắm mắt chọn cách
nói liều. Hài ước hơn khi ngay sau đó, "ông thầy" còn viện đến thổ công để "chứng
giám" một cách hú họa cho sự dốt nát của mình.
Trong tình huống thứ hai, "ông thầy" đã giải quyết để bào chữa cho mình bằng một
cái "lí sự cùn".
Qua chỉ hai tình huống, cái bản chất "dốt" của thầy đồ đã được bộc lộ rõ ra. Cái
mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật này là dốt >< khoe giỏi. Thầy đồ đi dạy học mà
dốt đến mức cái chữ tối thiểu trong sách cũng không biết, không đọc được. Dốt
như vậy mà thầy đồ vẫn ham khoe giỏi (sau khi khấn thổ công, "thầy lấy làm đắc
chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to"). Sự hài ước của câu
chuyện lên đến đỉnh điểm khi thầy đồ, dù đã biết mình dạy dốt vẫn cứ nhất quyết
bao biện cho mình bằng một cái "lí sự cùn" hoàn toàn không thể tin tưởng được.
Tất cả những hành động cố gắng "lấp liếm" cái dốt này, quả thực chỉ làm cho thầy
đồ càng thảm hại hơn thôi.
3.2.2. Qua hình ảnh thầy đồ trong truyện Tam đại con gà, truyện phê phán
một tật xấu trong nội bộ nhân dân, phê phán những người dốt mà không chịu
học hỏi, dốt mà cứ cố tình che đậy sự dốt nát của mình. Tuy nhiên cái cười
trong truyện ngắn này chủ yếu vẫn mang tính chất giải trí - cười sự ngây ngô và
liều lĩnh của thầy đồ, chứ chưa tới mức cười nhằm đả kích và triệt tiêu đối tượng.
3.2.3. Về truyện Nhưng nó phải bằng hai mày
a) Mối quan hệ giữa Cải và thầy lí trước khi xử kiện là mối quan hệ đã được xếp
đặt rồi (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng). Cải cứ nghĩ là quan sẽ cho
mình được kiện nên rất ung dung. Tuy nhiên không ngờ khi xử kiện, Cải lại bị thầy
lí tuyên bố đánh mười roi. Cải từ thế chủ động chuyển hoàn toàn sang bị động và
không thể nói tiếp được lời nào.
b) Sự độc đáo của câu chuyện chính là sự kết hợp giữa hai thứ "ngôn ngữ". Ngôn
ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt ở đó
nghe. Nhưng thứ "ngôn ngữ" bằng động tác thì chỉ có thầy lí và Cải mới hiểu được.
Nếu Cải xòe ra năm ngón tay và "ngầm" ra hiệu với thầy lí đó là "lẽ phải" thì thày
lí đã đáp lời nhanh chóng bằng việc xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay
mặt, ý nói "lẽ phải" kia đã được nhân đôi. Sự thú vị được người đọc nhận ra khi
tìm thấy sợi dây liên hệ thông suốt giữa: lẽ phải - những ngón tay và những đồng
tiền.
Ý nghĩa tố cáo của truyện chính là ở chỗ: lẽ phải đối với người xử kiện được tính
bằng tiền. Đồng tiền đo lẽ phải, tiền nhiều lẽ phải nhiều, tiền ít lẽ phải ít.
3.2.4. Lời nói của thầy lí ở cuối truyện Nhưng nó phải bằng hai mày là một sự
vận dụng độc đáo và sáng tạo nghệ thuật chơi ngữ gây cười. "Phải" là một từ
chỉ tính chất, đem ghép nó với một từ chỉ số lượng (phải bằng hai) tưởng như vô lí.
Thế nhưng khi ta liên tưởng đến năm đồng và mười đồng tiền đút lót của Ngô và
Cải, ta lại thấy nó hoàn toàn hợp lí. Lời phán quyết của thầy lí "vô lí" trong xử kiện
nhưng lại có lí trong mối quan hệ (tiền bạc) với các nhân vật. Chính việc "đánh lộn
sòng" này đã tạo ra tiếng cười hài ước và sự thích thú trong quá trình "giải mã" tác
phẩm của mỗi chúng ta.
3.2.5. Ở truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, nhân vật bị thất bại trong vụ
kiện là nhân vật Cải. Cải bị bất ngờ nên không kịp trở tay vì thế mà bị rơi vào
tình trạng thảm hại (vừa mất tiền lại vừa bị đánh). Thế nhưng câu chuyện chính là
lời phê phán cả hai nhân vật. Sự tham lam của bọn quan lại sẽ càng ngày càng tráo
trở hơn nếu còn có những người như Ngô và Cải. Hành vi tiêu cực của chính họ là
nguyên nhân làm cho họ trở nên thảm hại. Trong sự việc này, họ là những kẻ đáng
thương nhưng cũng là những người đáng giận.
3.2.6. Có thể thấy rõ đặc trưng thể loại của truyện cười qua việc phân tích lời
nói và hành động của nhân vật trong hai truyện Tam đại con gà và Nhưng nó
phải bằng hai mày.
a) Đối với truyện Tam đại con gà
Câu chuyện có nhiều hành động và lời nói của thầy đồ có tác dụng gây cười:
Các hành động của "Ông thầy":
Bảo học trò đọc khe khẽ (vì chưa biết mình dạy đúng hay sai nên phải "thận
trọng" để giấu dốt).
Xin đài âm dương 3 lần (hành động ngược đời - đúng ra phải hỏi lại người
có hiểu biết hơn mình để giảng giải cho học trò rõ). Hành động này hàm ý
"Ông thầy" coi cái chuyện dạy học hệ trọng này chẳng khác gì chuyện đánh
bạc cầu may.
Ngồi bệ vệ trên giường, bảo học trò đọc to (đắc chí với sự ngốc nghếch của
mình mà không biết).
Lời nói của thầy:
Dủ dỉ là con dù dì
Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà
Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà.
Tất cả các lời nói này đều cho thấy sự ngốc nghếch và phi lí trong những 'bài học"
và lời nói của "Ông thầy". Xét về mức độ, ta thấy hành động và lời nói của nhân
vật được nhà văn sắp xếp theo trật tự tăng tiến. Mức độ phi lí và sự nực cười của
lời nói và hành động ngày càng được đẩy lên cao.
b) Đối với truyện Nhưng nó phải bằng hai mày
Hành động của nhân vật Cải và Ngô: hai người đều tìm cách đưa đút lót
trước cho thày lí mà không rõ hành động của người kia.
Thầy lí thì tham lam nên nhận tiền của cả hai người. Khi xử kiện lại lấy bàn
tay để ra hiệu.
Lời nói hài ước của các nhân vật: "Xin xét lại, lẽ phải về con mà!" (Cải nói).
"Tao biết mày phải... nhưng nó lại phải... bằng hai mày!" (lời đáp của thầy lí)
c) Từ hai truyện trên, có thể khái quát mấy đặc trưng chung của thể loại truyện
cười:
Khai thác những sự việc, hành vi, thói xấu của một bộ phận đối tượng trong
dân gian.
Chứa đựng những mâu thuẫn trái quy luật tự nhiên và tiềm ẩn những yếu tố
gây cười.
Dung lượng ngắn, kết cấu lôgíc chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc
hoặc liên tưởng bất ngờ.