Tài liệu nội dung chính bài Bố của Xi Mông Ngữ văn lớp 9 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.
Bố của Xi Mông
Bài giảng: Bố của Xi-mông
Tìm hiểu chung về văn bản:
1. Tác phẩm Bố của Xi Mông
Trời ấm áp vô cùng, dễ chịu vô cùng. Ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương. Và Xi-mông có những giây phút khoan khoái, có cái cảm giác uể oải thường thấy sau khi khóc, em rất thèm được nằm ngủ ở đây, trên mặt cỏ, dưới nắng ấm.
Một chú nhái con màu xanh lục nhảy dưới chân em. Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền. Cuối cùng em tóm được hai đầu chân sau của nó và bật cười nhìn con vật cố giãy giụa thoát thân. Nó thu mình trên đôi cẳng lớn, rồi bật phắt lên, đột ngột duỗi cẳng, ngay đơ như hai thanh gỗ; trong lúc giương tròn con mắt có vành vàng, nó dùng hai chân trước đập vào khoảng không, huơ lên như hai bàn tay. Thấy vậy, em nhớ đến một thứ đồ chơi làm bằng những thanh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi chồng lên nhau, và với động tác cũng giống như vậy, điều khiển các chú lính nhỏ cài bên trên tập tành. Thế là em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn vô cùng, em lại khóc. Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.
Bỗng một bàn tay chắc nịch đặt lên vai em và một giọng ồm ồm hỏi em: “Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi?”.
Xi-mông quay lại. Một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu. Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào:
- Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố.
- Sao thế - bác ta mỉm cười bảo – ai mà chẳng có bố.
Em bé nói tiếp một cách khó khăn, giữa những tiếng nấc buồn tủi:
- Cháu... cháu không có bố.
Bác công nhân bỗng nghiêm lại; bác nhận ra thằng bé con nhà chị Blăng-sốt, và tuy mới đến vùng này, bác cũng đã mong manh biết chuyện của chị.
- Thôi nào – bác nói – đừng buồn nữa, cháu ơi, và về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu... một ông bố.
Hai bác cháu lên đường, người lớn dắt tay đứa bé, và bác lại mỉm cười, vì bác chẳng khó chịu được đến gặp chị Blăng-sốt, nghe đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng; có lẽ trong thâm tâm, bác nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có thể lỡ lầm lần nữa.
Họ đến trước một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.
- Đây rồi – đứa trẻ nói, và em gọi to – Mẹ ơi!
Một thiếu phụ xuất hiện, và bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. E dè, mũ cầm tay, bác ấp úng:
- Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.
Nhưng Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại oà khóc và bảo:
- Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố.
Đôi má thiếu phụ đỏ bừng và, tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Người đàn ông xúc động vẫn đứng đó, không biết bỏ đi thế nào cho phải. Nhưng Xi-mông bỗng chạy đến bên bác và nói:
- Bác có muốn làm bố cháu không?
Im lặng như tờ. Chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường, hai tay ôm ngực. Thấy người ta không trả lời mình, em bé lại nói:
- Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở ra nhảy xuống sông chết đuối.
Bác công nhân cười đáp coi như chuyện đùa:
- Có chứ, bác muốn chứ.
- Thế bác tên là gì? – em bé liền hỏi – để cháu trả lời chúng nó khi chúng nó muốn biết tên bác?
- Phi-líp – người đàn ông đáp.
Xi-mông im lặng một giây, để ghi nhớ cái tên ấy trong óc, rồi hết cả hồn, em vươn hai cánh tay nói:
- Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu.
Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh.
Ngày hôm sau, khi em bé đến trường, một tiếng cười ác ý đón em. Và lúc tan học, khi thằng kia lại muốn trêu chọc, Xi-mông quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá: “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp”.
Khắp chung quanh bật lên những tiếng la hét thích thú:
- Phi-líp gì?... Phi-líp nào?... Phi-líp là cái gì?... Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?
Xi-mông không trả lời gì hết, và một mực tin tưởng sắt đá, em đưa con mắt thách thức chúng, sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn là bỏ chạy. Thầy giáo giải thoát cho em và em về nhà.
2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Guy đơ Mô-pa-xăng sinh năm 1850, mất năm 1893.
- Ông là một nhà văn người Pháp.
- Cuộc đời ngắn ngủi chỉ hơn bốn mươi năm nhưng ông đã để lại số lượng tác phẩm đồ sộ.
- Các tác phẩm của ông phản ánh sâu sắc nhiều phương diện của xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
- Một số tác phẩm: Một cuộc đời (1883), Ông bạn đẹp (1885),... và hơn 300 truyện ngắn.
2. Tác phẩm
Văn bản bố của Xi-mông trích trong truyện ngắn cùng tên.
3. Bố cục
- Đoạn 1: Mở đầu
- Đoạn 2: Trang phục của Rô- bin- xơn
- Đoạn 3: Trang của Rô- bin- xơn
- Đoạn 4: Diện mạo của Rô-bin-xơn
4. Tóm tắt
Cậu bé Xi-mông khoảng 7 – 8 tuổi lần đầu đến trường. Em bị bạn bè chế giễu vì không có bố. Xi-mông đã đánh nhau và tấn công những ai chế nhạo mình. Nhưng em vô cùng đau khổ vì sự thật em không có bố. Xi-mông đi ra bờ sông và định tự tử. Cảnh vật bờ sông làm em vơi bớt nỗi buồn đôi chút. Nhưng nghĩ đến nhà, đến mẹ, em lại khóc. Bác thợ Phi-líp nhìn thấy, an ủi và đưa em về nhà. Phi-líp đã nhận làm bố của em. Hôm sau Xi-mông đến trường, lũ bạn xấu vẫn giễu cợt nhưng Xi-mông dám đối mặt vì em tự tin rằng mình có bố Phi-líp
5. Phương thức biểu đạt: Tự sự kết hợp miêu tả + biểu cảm.
6. Thể loại: Truyện ngắn
7. Ngôi kể: Ngôi thứ ba
8. Giá trị nội dung
Đoạn trích khắc họa hình tượng cậu bé Xi mông. Truyện cảm thông với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác. Đồng thời, nhắc nhở về lòng yêu thương bạn bè, rộng ra là lòng yêu thương con người.
9. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả, khắc họa diện mạo nhân vật được sử dụng thành công, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn… là nét đặc sắc trong đoạn trích
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
- Truyện được kể theo trình tự diễn biến của các sự kiện tiếp nối nhau, không hể đảo ngược thời gian. Cách kể như vậy có vẻ đơn giản nhưng truyện vẫn hấp dẫn vì tác giả đã lựa chọn, sáng tạo những tình tiết bất ngờ mà hợp lí, có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ.
1. MỞ BÀI
- Giới thiệu sơ lược tác giả, tác phẩm:
+ Guy đơ Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XIX, một bậc thầy về truyện ngắn với nội dung phản ánh sâu sắc hiện hiện thực xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
+ Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi-mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp
2. THÂN BÀI
a) Luận điểm 1: Xi-mông - một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng đầy nghị lực
- Xi-mông là một đứa trẻ đáng thương:
+ Một bé trai độ 7 - 8 tuổi, hơi xanh xao, rất sạch sẽ nhưng có vẻ nhút nhát.
+ Không biết bố là ai.
+ Bị lũ bạn trêu chọc, em rất đau khổ.
- Tâm trạng ở bờ sông:
+ Xi - mông ra bờ sông định tự tự.
+ Trước cảnh đẹp, trời ấm, ánh nắng mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như ánh gương,... làm em quên đi chuyện đau khổ, chỉ muốn ngủ rồi muốn chơi đùa.
+ Em đuổi theo con nhái rồi vồ hụt, tóm được hai đầu chân sau, rồi bật cười. -> Tâm trạng vui đùa, bị cuốn hút bởi thiên nhiên.
+ Em nhớ mẹ, em lại khóc
-> Tâm trạng của một em bé hiện ra qua cảnh thiên nhiên đẹp, hành động và cử chỉ rất phù hợp với tâm lí lứa tuổi.
- Diễn biến tâm lí lứa tuổi được miêu tả tài tình:
+ Tâm trạng khi gặp bác Phi - líp và về nhà
-> Sự bất lực, tuyệt vọng của đứa bé.
+ Khi gặp mẹ: em la khóc, đau đớn, buồn tủi.
+ Hỏi bác Phi-líp: "Bác có muốn làm bố cháu không?" -> mong muốn có bố rất mãnh liệt.
=> Lời đối thoại rất tự nhiên, khát khao, ước mơ rất đáng thương, ngây thơ của Xi - mông dù là những điều bình dị nhất.
+ Sáng hôm sau đến trường.
=> Niềm vui, niềm tự hào lớn cho em sức mạnh để sống và học tập.
b) Luận điểm 2: Bác Phi-líp - người thợ rèn có lòng nhân hậu, thương người, đáng quí trọng
- Được giới thiệu là một người:
+ Cao lớn, râu tóc quăn đen
+ Vẻ mặt nhân hậu, làm nghề thợ rèn.
+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.
- Khi gặp Xi-mông:
+ Đặt tay lên vai em, an ủi và đưa em về.
+ Lúc đầu suy nghĩ có thể đùa cợt với chị Blang - sốt nhưng khi gặp bác hiểu chị là người tốt, không thể đùa được.
=> Thương Xi-mông, cảm mến chị Blang-sốt.
- Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông
=> Bác Phi-líp là người có lòng nhân hậu, thương người, đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em, thật đáng quí trọng.
c) Luận điểm 3: Blăng-sốt - người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm
- Từng là cô gái đẹp nhất vùng vì nhẹ dạ nên đã một lần lầm lỡ.
- Là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị,
- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.
- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị… như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa. -> Thái độ nghiêm nghị khiến người khác không thể đùa cợt.
- Nỗi lòng với con:
+ Mặt đỏ bừng tái tê đến tận xương tủy, hôn con, nước mắt lã chã.
+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn
-> Thương và hiểu lòng con.
=> Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí cho thấy Blăng-sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm, hoàn cảnh rất cần sự cảm thông.
3. KẾT BÀI
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
+ Nội dung: Khắc họa hình tượng cậu bé Xi-mông, cảm thông với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác, ca ngợi tình yêu thương và lòng nhân hậu của con người.
+ Nghệ thuật: Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật đặc sắc.
Bố của Xi-mông là một truyện ngắn hiện thực khá hay của Guy-đơ Mô-pa-xăng. Truyện này nói lên nỗi đau khổ của em bé Xi-mông và mẹ em vì những thành kiến, thói tục cổ lỗ, khi Xi-mông không rõ bố mình là ai và niềm sung sướng tràn ngập khi em được nhận chú Phi-lip làm bố. Đặc biệt, truyện đã đề cao tấm lòng nhân hậu của Phi-lip người thợ rèn đáng quý mến.
Hành động nhận làm bố Xi-mông của chú bị một số người cười chê là khờ dại. Thật ra, đó là một việc làm nhân đạo, cao cả. Vì chính việc làm này đã mang lại nhiều sung sướng, hạnh phúc cho Xi-mông, cứu em thoát khỏi cái chết. Bởi lẽ ngay từ ngày đầu tiên đi học ở trường Xi-mông đã bị đám bạn bè độc ác, vô ý thức đùa cợt, trêu chọc về việc em không có bố. Bị chế giễu, bị đánh đập, Xi-mông tức giận ném đá vào bọn chúng rồi bỏ đi ra bờ sông. Em đã khóc ròng và nghĩ đến việc nhảy xuống sông cho chết đuối. Em ngắm đàn cá bơi lội, em bắt con nhái chơi, nhưng cái ý định tự tử ấy cứ lởn vởn mãi.Em lại khóc người em cứ run lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được bài kinh vì những cơn nức nở lại dồn dập, xốn xang, choáng ngợp lấy em. Đang lúc đau khổ như thế thì Xi-mông gặp chú Phi-lip. Biết được tình cảnh của em, chú ấy đã dẫn em về nhà. Trước mặt mẹ Xi-mông chú đã trả lời câu hỏi của em mạnh mẽ và dứt khoát: "Có chứ, chú có muốn". Thế là lần thứ nhất chú Phi-lip đã cứu Xi-mông ra khỏi cơn tuyệt vọng giành em ra khỏi tay thần chết.Tuy nhiên đối với Phi-lip, lúc đầu chú nghĩ đây là một việc làm nhất thời, cố để an ủi cho Xi-mông trong phút giây thoát khỏi cơn tuyệt vọng. Nhưng sau đó, đến lúc Xi-mông đến nói với chú tại lò rèn: Bố Phi-lip này lúc nãy thằng con bác Mi-cốt bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi vì bố không phải là chồng của mẹ. Lúc này, không còn là nhất thời nữa rồi! Vấn đề đặt ra trước chú Phi-lip lúc này là một vấn đề nghiêm túc. Xi-mông lại có thể đứng trước tình thế tuyệt vọng một lần nữa, nếu như chú Phi-lip xem lời nói của mình lần trước là lời nói đùa.
Chính các bác thợ rèn đồng nghiệp của chú Phi-lip, những vị thần khổng lồ ấy đã giúp chú vượt qua định kiến đối với mẹ Xi-mông. Chị ta lầm lỗi không phải là do lỗi ở chị ta, để đi đến quyết định cuối cùng: ngỏ lời cầu hôn với người phụ nữ đáng thương mến này. Việc làm của chú Phi-lip đã mang lại cho Xi-mông hạnh phúc thật sự, cậu bé nhờ có đủ nghị lực để tuyên bố với các bạn cùng lớp: Bố tớ là Phi-lip Reemi (bác thợ rèn) và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ.
Chú Phi-lip và các bác thợ rèn trong truyện ngắn này được Guy đờ Mô-pa-xăng miêu tả như các vị phúc thần. Chú đã giải thoát cho Xi-mông khỏi nỗi đau khổ của em và mang lại cho em hạnh phúc. Việc làm ấy cũng giúp cho mẹ Xi-mông thoát khỏi đau khổ do lầm lỡ. Chú Phi-lip và các bác thợ đã nói và làm theo tiếng gọi của lương tri, thoát khỏi những thành kiến hẹp hòi, cổ hủ. Việc làm của họ như là đại diện cho sự công bằng, cho lòng nhân ái, giúp cho các nhân vật bị đau khổ, bất hạnh khỏi đau khổ và có hạnh phúc.
Hình ảnh của họ thật đẹp, thật hào hùng mà cũng nhân hậu xiết bao. Có ý kiến cho rằng việc làm của chú Phi-lip: nhận làm bố của Xi mông và làm chồng của mẹ em bé này thật là khờ dại. Không đúng. Phải nói đây là một việc làm nhân đạo, cao cả, xuất phát từ một tấm lòng yêu thương rộng lớn, đồng cảm sâu sắc đối với cảnh ngộ đáng thương mến của Xi mông và của em bé này. Chú đã khơi dậy trong lòng người đọc tình cảm quý mến đối với việc làm tốt đẹp, thấm đẫm tình người của một người lao động nhân hậu, cao cả.
Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế?
Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em - chị Blăng-sốt, thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng" đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt, “cao lớn, xanh xao”, phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố. Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ "'xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố".
Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “giương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu, con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố". Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, râu tóc đều quăn… nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã "lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi buồn nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em - chị Blăng-sốt. Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố". Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.
Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn" thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc" (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”: “Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ! Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ”, “Có bố thì hạnh phúc”.
Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và cũng rất đáng yêu!