Tài liệu nội dung chính bài Bắc Sơn Ngữ văn lớp 9 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.
Bắc Sơn
Tìm hiểu chung về văn bản:
1. Tác phẩm Bắc Sơn
Một cảnh nhà vào hạng phong lưu của người Tày.
Có cửa thông sang một căng buồng. Đêm, trong nhà thắp đèn.
LỚP I
Tóm tắt: Cuộc đối thoại giữa Thơm và Ngọc, trước khi Ngọc cùng đồng bọn lùng bắt Thái và Cửu – hai người cách mạng đang trốn tránh, sau khi cuộc khởi nghĩa bị giặc Pháp đàn áp. Mặc dù Ngọc cố quanh co, lừa dối, nhưng Thơm vẫn nghi ngờ và đã dần nhận ra bộ mặt phản động của y. Cô càng đau xót, ân hận khi nghĩ đến cái chết của cha và em trai, tình cảnh điên dại bỏ nhà đi lang thang của mẹ.
LỚP II
THƠM – THÁI – CỬU
CỬU (thất sắc[1]) – Nhầm rồi! Thôi hỏng! (Chĩa súng định bắn)
THÁI (gữ lại) – Đừng bắn. Cửu! (Cửu rụt súng lại, định quay ra, luống cuống). Đừng ra vội, Cửu! (bước lại gần Thơm) Cô Thơm...
THƠM (xua tay) – Hai ông...
THÁI (bảo Cửu) – Anh cứ yên. Cô Thơm không làm gì đâu. (bảo Thơm) Xin cô đừng nói gì.
THƠM (gật đầu se sẽ) – Vâng... Hai ông đi đâu? (một vài tiếng súng ở gần) Tôi sợ quá!
THÁI – Cô cứ yên tâm. (tươi cười) Cô có định bắt tôi không?
THƠM – Không, không đời nào. Nhưng tại sao ông lại vào đây? Ông định bắt Ngọc phải không?
THÁI – Không.
THƠM – Tôi cứ lo cho hai ông. Tưởng các ông chạy được xa rồi. (Có tiếng người rầm rầm bên ngoài. Tiếng chó sủa râm ran.)
CỬU (thất vọng và cảm động, lời nói đầy hối hận) – Anh Thái!
THÁI – Anh cứ yên. (cười) Chết là cùng chứ gì.
THƠM (thành thực) – Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ? Ngọc nó cũng vừa mới đi, chắc... Tôi không báo hai ông đâu. (thấy Cửu hoài nghi) Tôi chết thì chết, chứ không báo hai ông đâu. Nhưng làm thế nào để hai ông đi được bây giờ? (luống luống)
(tiếng người rầm rầm càng gần, chó sủa ran ran. Tiếng gậy gộc.)
CỬU – Tôi giết anh rồi!
THÁI – Phàn nàn vô ích! Đừng cuống mới được. Để tôi ra xem (định chạy ra cửa).
THƠM (ngăn lại) – Ông đừng ra, chết nỗi! Ông đừng nói nữa, nó nghe tiếng. Để tôi ra hơn, ông đừng ra! (Nàng rón rén ra).
CỬU (hoài nghi) – Không được! (định theo ra)
THÁI – Tôi biết cô Thơm. Anh đừng nghi dòng máu cụ Phương. Tôi tin như thế. Nghe giọng nói thì biết là thật hay không thật chứ.
CỬU- Tôi không tin. Vợ Việt gian cũng là Việt gian.
THƠM (hốt hoảng chạy vào) – Nó khám nhà bà Lục mấy nhà bác Chui. Làm thế nào, hai ông? (cuống quýt gần như khóc) Có cả Tây. Ngọc cũng đi vào đấy. Tôi lo quá... (nghẹn ngào)
THÁI (bảo Cửu) – Chúng ta bắt tay nhau một lần cuối cùng rồi đi. Ở đây liên luỵ đến cô Thơm, không tiện.
CỬU – Thì ra tôi giết anh à? Lẽ nào!
(Tiếng chân đi, tiếng gậy lộc cộc càng gần).
THƠM – Hai ông đừng nói nữa. Ngọc nó về. (Thái và Cửu định ra.) Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm vào đây, may ra... (chỉ vào buồng).
(Có tiếng người đi vào. Thái và Cửu ngơ ngác, Thơm ngoan ngoãn và mau lẹ, thân mật như một người em gái kéo hai người đẩy vào trong buồng và nói: “Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại”.)
LỚP III
THƠM – NGỌC
Thơm ngồi trên ghế gục đầu xuống thúng khâu.
NGỌC – (vào, đến lay vợ) – Chết nỗi, gục xuống đấy mà ngủ à?
THƠM (rũ rượi và buồn bã) – Đã về đấy à?
NGỌC - Sao mặt mũi bơ phờ thế kia? Sao không vào buồng mà ngủ?
THƠM – Từ lúc anh thằng Sáng[2] đi, tôi có ngủ được đâu. Buồn chết ra. Cứ nghĩ đến chú, đến mé thì không làm sao ngủ được. Còn có anh thằng Sáng, thì lúc nãy, tôi lại thế. Tôi nói anh thằng Sáng chả ra cái gì. Tôi nghĩ tôi chán quá. Từ lúc anh thằng Sáng đi, tôi cứ đứng ngồi không yên. Không biết anh thằng Sáng có chấp trách[3] không?
NGỌC – Cứ biết cho như thế, tôi cũng hả. Thôi, thế là được rồi!
THƠM – Anh thằng Sáng có còn phải đi nữa không? (có tiếng rầm rầm ở ngoài) Cái gì thế?
NGỌC – Các ông ấy đợi ở đằng sau nhà.
THƠM (nói to) – Đằng sau nhà! Ở chỗ buồng đi ra ấy à?
NGỌC - Ừ, thì làm sao?
THƠM (cuống quýt) – Sao lại đợi ở đấy? Sao không mời các ông ấy lên chơi cả cho vui có được không?
NGỌC – Thôi được, họ thích thế. Lại đi ngay ấy mà.
THƠM – Lại đi ngay à? Thế còn anh thằng Sáng?
NGỌC (đĩ thoã) – Tôi ở nhà nhớ?
THƠM – Tuỳ đấy, tôi biết đâu với công việc của ănh thàng Sáng mà... Thôi đi đi, không anh em người ta...
NGỌC (lấy điếu thông điếu) – Người ta làm sao? Bảo người ta cười phải không? (đánh diêm hút thuốc say sưa, nhìn vợ ngáp dài)
THƠM – Cười thì mặc người ta, sợ gì? (vui vẻ)
NGỌC - Ừ, cứ vui như thế mới được. Trông mặt rầu rầu, lắm lúc đến ghét. Thì ta cứ vui đi nào. Thôi thì chẳng may chú[4] mấy[5] thằng Sáng đã như thế, mình thương thì cứ thương trong bụng, rồi còn tính việc làm ăn, chứ cha con, chị em đứt ruột ra được ấy chứ lị. Nhưng một vừa hai phải thôi, chứ buồn suốt đời được à?
THƠM (xa xăm) – Vâng!
NGỌC – Lại nghĩ cái gì thế?
THƠM – Không, có nghĩ gì đâu. Chỉ thương anh thằng Sáng vất vả, lo nghĩ nhiều, ngày đã thế, đêm lại chẳng được nghỉ ngơi, người cứ hốc hác đi, rồi thì đến mang bệnh, mang tật ấy chứ lị. Rồi bây giờ lại đi chứ ở gì đấy...
NGỌC – Đêm nay muốn tôi ở nhà hay đi nào?
THƠM – Tôi biết thế nào mà bảo.
NGỌC – Tôi ở nhà nhớ?
THƠM – Ai biết được, cứ ỡm ờ làm gì?
(Có tiếng gọi: “Có đi không, bác Ngọc? Bảo tạt qua nhà một tí mà ngồi từ bấy đến giờ! Vợ ấy thì còn chết!”)
NGỌC (cười, nhìn vợ) – Nói đùa đấy chứ, cũng phải đi đây. Đi cho xong đi, cho “nó” khỏi cự[6] mình. Còn hai cái thằng ấy thì còn ăn không ngon, ngủ không yên.
THƠM – Hai thằng nào?
NGỌC (lúng túng) – Hai cái thằng tướng cướp... Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng. Chia cho tất cả anh em một nửa, mình lấy một nửa. Cái nhà này, thế là lấy xong rồi. Đẹp đấy chứ! Tậu được mấy mẫu ruộng nữa; làm thế nào chạy được cái hàm cửu phẩm, thế mà hơn làm nho[7] kia đấy. Chẳng tiếc nữa. Về làng chúng nó còn đỡ khinh. Rồi em xem, thế nào tôi cũng trị cho được cái thằng Tốn mới nghe. Nó lại muốn mua tranh ruộng của mình à? Rồi nó xem. Cái ruộng nó tậu được, nó lại phải nhả ra cho mình, mà còn lạy không xong kia. Thời buổi này mà nó dám trêu vào mình thì nó thật dại hơn con chó. Khoe tiền, rồi khóc vì tiền cho mà xem.
THƠM – Thì làm gì cứ phải thâm thù thế?
NGỌC – Thâm thù gì đâu, nhưng phải cho nó biết tay mình. Mình không là quan mà nó phải nể, thế mới thích. Lại làm thế nào khao được một chuyến, cho chúng nó biết tay, thế mới lại càng thích.
THƠM – Đấy nhớ, cứ đổ tội cho vợ tiêu. Khao, thì là ai tiêu?
NGỌC – Ai đổ tội? Thôi, có đi ngủ thì đi đi! Trông sút đi đấy. Tôi thì tôi phải đi mới được. (để đáp lại một sự bứt rứt trong lòng) Đằng nào thì chúng nó cũng bị bắt, mình chả bắt thì cũnng người khác bắt, bắt sớm lại đỡ khổ, dân lại được yên ổn làm ăn, thế lại hơn. (vui vẻ) Nhớ làm cơm cho các ông ấy đánh chén đấy. Những lũ khỉ, đi suốt đêm thế này, ngày mai giá ngủ bù thì phải, lại rủ nhau xóc đĩa[8]...
THƠM – Thôi, tôi van anh thằng Sáng. Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức. Người đã gớm chết ra thế kia!
NGỌC (nhìn vợ) – Sao độ này lại mặc áo vá thế kia? Có lấy tiền không?
THƠM – Thôi, có thì cho mà không thì thôi. Tôi cũng chả cần nữa. Già rồi còn gì!
NGỌC (cười, ngắm vợ) – Già nhỉ!
[...]
THƠM (nhìn trộm chồng, sốt ruột) – Thế nào, có đi không?
NGỌC (cau trán) – Đi bây giờ đây. Nhưng nghĩ xem chúng nó lẩn vào đâu mà mất tích chóng thế được. (lại hút thuốc, trầm ngâm) Không biết nó đi đâu. Ở xóm này, khám hết rồi, thế là không có rồi. Chắc là nó còn ở đấy, lúc nãy mình trông nhầm nó chạy về đây thì phải. Nhất định là nó còn ở đấy, phải, nhất định. Cứ vây cho đến sáng rồi xông vào, có hai thằng chứ có vạn gì mà không bắt nổi. Không bắt nổi thì tiêu tên tuổi. Lại để cho thằng Sĩ nó bắt được thì rồi “nó” còn tin mình gì nữa. Nhất định là nó còn ở đấy, chưa đi được đâu. Người chứ có phải là thánh đâu. (gật đầu) Dò đúng đến thế mà để xổng thì tự tử đi cho rồi.
THƠM – Tính gì mà tính kĩ thế?
NGỌC - Tính gì, tính tiền chứ còn tính gì? Thôi, tôi đi đây! (cầm đèn bấm và gậy định ra, lại trở vào) Giữ hộ tôi mấy trăm này.
THƠM – Cứ cầm đi có được không?
NGỌC - Thôi, lão lí cứ đòi vay. Đem đi mà không cho nó vay thì không tiện, mà cho nó vay thì đời nào nó trả mình. Tôi không có cái lối cho vay suông như thế. Đã được cửu phẩm[9] thì thôi tiền đi là phải. Mình cứ cầm đằng chuôi là hơn hết. (trao tiền cho vợ) Em như cũng hết tiền rồi?
THƠM (cầm lấy) – Anh thằng Sáng thật chỉ ăn người.
(Có tiếng gọi: “Có đi không nho Ngọc? Quan hỏi đấy”)
NGỌC (sấp ngửa) – Thôi, ở nhà nhớ! Đi ngủ đi! Mà cửa ngõ chẳng đóng gì thế là thế nào? Có đứa nào vào thì làm sao? Có ngày thì mất hết. Thôi, tôi đi đây (chạy ra).
2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Huy Tưởng (sinh năm 1912)
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng
+ Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên.
+ Năm 1951, ông tham gia chiến dịch biên giới
2. Tác phẩm
Xuất xứ
Vở kịch Bắc Sơn được Nguyễn Huy Tưởng sáng tác và đưa lên sân khấu vào đầu năm 1946 trong không khí sôi sục của những năm đầu cách mạng.
3. Bố cục
- Lớp I : Hoàn cảnh của Thơm.
- Lớp II : Thái và Cửu – hai cán bộ cách mạng bị truy đuổi, chạy vào nhà Thơm.
- Lớp III : Thơm đóng kịch qua mắt Ngọc – Ngọc sấp ngửa ra đi.
4. Tóm tắt
Vở kịch Bắc Sơn là câu chuyện đã thể hiện thành công một sự kiện cách mạng và những nhân vật mới của thời đại: quần chúng và người chiến sĩ cách mạng. Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi. Họ chạy vào đúng nhà Thơm (Ngọc). Buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng. Thơm đã giấu hai cán bộ cách mạng vào buồng và cứu thoát họ.
5. Phương thức biểu đạt: Tự sự
6. Thể loại: Kịch
7. Giá trị nội dung
- Thể hiện diễn biến nội tâm của nhân vật Thơm - một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ với cách mạng, sợ liên lụy đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định sức thuyết phục của chính nghĩa cách mạng.
8. Giá trị nghệ thuật
- Thành công trong vở kịch là: tạo dựng tình huống để bộc lộ xung đột, tổ chức đối thoại và thể hiện tâm lí, tính cách nhân vật.
- Cách tạo dựng tình huống, sử dụng ngôn ngữ đối thoại, nghệ thuật biểu hiện tâm lí và tính cách nhân vật.
- Thành công trong tạo dựng tình huống để bộc lộ xung đột.
- Ngôn ngữ đối thoại để thể hiện tâm lí, tính cách nhân vật.
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng: một nhà văn chủ chốt của nền văn học Việt Nam.
- Khái quát về đoạn trích: thuộc lớp 2,3 hồi 4 của kịch "Bắc Sơn": đoạn trích đã thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật Thơm,
II. Thân bài
1. Tình huống kịch
- Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi chạy vào đúng nhà Thơm (vợ Ngọc), tình huống này buộc buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.
2. Nhân vật Thơm
- Hoàn cảnh:
+ Cha, em trai: hi sinh.
+ Mẹ: bỏ đi.
- Còn một người thân duy nhất là Ngọc - chồng.
+ Sống an nhàn, được chồng chiều chuộng (sắm sửa, may mặc…).
- Tâm trạng: Luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.
- Thái độ với chồng:
+ Băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian.
+ Tìm cách dò xét.
+ Cố níu chút hi vọng về chồng.
- Hành động:
+ Che giấu Thái, Cửu – hai chiến sĩ cách mạng ngay trong buồng của mình.
+ Khôn ngoan, che mắt Ngọc bảo vệ cho 2 chiến sĩ cách mạng.
⇒ Nghệ thuật miêu tả ⇒ Hành động táo bạo, bất ngờ ⇒ Là người có bản chất trung thực, lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng nên đã biến chuyển thái độ, đứng hẳn về phía cách mạng.
⇒ Khẳng định chân lý: Cuộc đấu tranh cách mạng ngay cả khi bị đàn áp khốc liệt cũng sẽ không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm.
3. Nhân vật Ngọc
- Là nhân vật giả nhân giả nghĩa.
- Ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.
- Làm tay sai cho giặc (Việt gian).
- Tên Việt gian bán nước đê tiện, đáng khinh, đáng ghét.
⇒ Là một người hám lợi, hám danh.
4. Nhân vật Thái, Cửu
- Bị truy đuổi - chạy vào nhà Thơm.
- Thái: giữ lại, tươi cười, định chạy ra cửa ⇒ Hành động bình tĩnh, sáng suốt.
- Cửu: vẻ mặt thất sắc, chĩa súng định bắn thất vọng, hoài nghi ⇒ Nóng nảy, hăng hái nhưng thiếu chín chắn.
⇒ Những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…
III. Kết bài:
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
+ Nghệ thuật: Cách tạo dựng tình huống sử dụng ngôn ngữ đối thoại.
+ Nội dung: Thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật Thơm – người phụ nữ có chồng theo giặc – đứng hẳn về phía cách mạng.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, viết văn, làm báo từ trước 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng và kháng chiến. Các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực, đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Vở kịch Bắc Sơn được ông sáng tác và đưa lên sân khấu đầu năm 1946, trong khí thế sôi sục mở đầu kháng chiến. Bối cảnh của vở kịch là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 I 1941) và nội dung xoay quanh những biến cố xảy ra trong gia đình cụ Phương, dân tộc Tày. Cụ Phương cùng con trai là Sáng hăng hái tham gia chiến đấu. Còn bà cụ và cô con gái là Thơm lại ngại ngần, xa lánh. Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu. Tổ chức của ông giáo Thái là cán bộ Đảng đến giúp nhân dân củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc (chồng của Thơm) dẫn đường đã kéo vào chiếm lại Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Quân khởi nghĩa phải rút vào rừng. Cụ Phương trong lúc dẫn đường, bị giặc Pháp bắn đã hi sinh. Trước cái chết của cha và em trai Thơm, bộ mặt Việt gian bán nước của tên Ngọc dần dần lộ rõ. Thơm vô cùng đau xót và ân hận. Ở hồi 4 của vở kịch Bắc Sơn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một tình huống đặc biệt để thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù; đồng thời phản ánh diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật Thơm – một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định sức thuyết phục to lớn của chính nghĩa.
Sự kiện chính của hồi 4 như sau: Thái cùng một cán bộ phong trào là Cửu bị giặc truy lùng ráo riết, vô tình chạy nhầm vào nhà Thơm, mà Ngọc – chồng Thơm lại đang dẫn lính đuổi bắt hai người. Thơm nhanh trí che giấu và cứu thoát họ. Bằng hành động ấy, Thơm đã dứt khoát đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng. Sau đó, biết tin Ngọc dẫn đường cho quân Pháp lên đánh úp lực lượng du kích, Thơm đã luồn rừng đi suốt đêm đến báo để họ kịp thời đối phó. Lúc quay về, bất ngờ gặp Ngọc, Thơm đã bị y bắn; nhưng chính Ngọc lại chết vì trúng đạn của quân Pháp. Nội dung hồi 4 cho thấy nghệ thuật viết kịch rất già dặn của Nguyễn Huy Tưởng. Thành công nổi bật là tác giả đã tạo dựng nên tình huống bất ngờ, gay cấn để đẩy mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, bộc lộ tâm lí và tính cách nhân vật. Thơm là vợ Ngọc – một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Đã quen với cuộc sống an nhàn và ngại gian khổ nên Thơm không tham gia vào phong trào khởi nghĩa, mặc dù cha và em trai là những quần chúng tích cực. Tuy thế, ở Thơm vẫn chưa mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng và tính thương người. Thơm quý trọng ông giáo Thái là cán bộ được tổ chức cử đến giúp dân đẩy mạnh phong trào khởi nghĩa. Vì lực lượng yếu và thiếu kinh nghiệm nên phong trào cách mạng bị giặc đàn áp, cha và em trai Thơm đều hi sinh. Thơm ân hận và đau đớn khi biết chồng mình vì hám tiền, hám danh mà sẵn sàng làm tay sai cho Pháp, dẫn giặc về đốt phá bản làng, giết hại đồng bào.
Tâm trạng và hành động của Thơm được tác giả miêu tả trong hoàn cảnh éo le: cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, cha và em trai đã hy sinh, mẹ đau đớn đến điên dại bỏ nhà đi. Thơm chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, nhưng y đã dần dần lộ rõ bộ mặt Việt gian bán nước. Bằng số tiền thưởng của bọn Pháp, Ngọc đã thỏa mãn những nhu cầu vật chất của vợ chồng hắn như tậu nhà mới, mua sắm nữ trang, quần áo… Tuy vậy, Thơm vẫn sống trong day dứt và ân hận. Hình ảnh người cha lúc hi sinh, những lời trăng trối cuối cùng của ông, khẩu súng trao lại cho Thơm, sự hi sinh của đứa em trai, nhất là tình cảnh thương tâm của người mẹ. Tất cả những hình ảnh ấy luôn ám ảnh, giày vò tâm trí cô. Sự nghi ngờ của Thơm đối với Ngọc ngày càng tăng. Trong những lần trò chuyện với chồng, Thơm luôn tìm cách dò xét ý nghĩ và hành động của chồng để tìm hiểu sự thật, còn Ngọc thì luôn kiếm cớ lảng tránh. Tuy vậy, Thơm vẫn cố níu lấy một chút hy vọng: Đã chắc gì những lời đồn?… Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế?…. Một tình huống xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với Thơm, buộc cô phải lựa chọn thái độ dứt khoát: Thái và Cửu là hai cán bộ cách mạng bị bọn giặc truy lùng, đã chạy nhầm vào chính nhà Thơm, tức là nhà Ngọc. Ban đầu, Thơm hoảng sợ khi nghe tiếng súng nổ rất gần và sự xuất hiện đột ngột của Thái và Cửu. Nhưng với bản chất trung thực và lương thiện, cùng với sự quý mến sẵn có dành cho Thái và cả sự hối hận, tất cả những điều đó đã thôi thúc Thơm hành động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng ngủ của mình. Thơm nói với hai cán bộ cách mạng bằng giọng tự tin và quyết đoán: “Hai ông đừng nói nữa. Ngọc nó về. Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm ở đây, may ra…” Khi Ngọc về đến nhà, Thơm đã khôn ngoan, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ họ. Lúc đầu, Thơm giả vờ ngủ gật để hướng sự chú ý của Ngọc sang việc khác.
Tiếp đến Thơm kể chuyện ở nhà nhớ Ngọc ra sao rồi bảo Ngọc mời những kẻ đang lùng bắt cán bộ lên nhà chơi. Thơm khéo léo nói những lời tình cảm để Ngọc ra lệnh cho bọn truy lùng rút lui. Đồng thời cũng chính lúc này, Thơm đã nhận rõ bộ mặt Việt gian cùng sự xấu xa bỉ ổi của chồng. Điều đó sẽ dẫn đến hành động chủ động của cô ở hồi cuối: khi biết Ngọc sẽ dẫn đường cho quân Pháp vào rừng lùng bắt những người khởi nghĩa, cô đã luồn tắt rừng suốt đêm để báo tin cho du kích kịp thời đối phó. Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh căng thẳng và tình huống gay cấn, tác giả đã thể hiện đời sống nội tâm phức tạp với những nỗi day dứt, đau xót và ân hận của Thơm, để rồi cô đã hành động dứt khoát, đứng hẳn về phía cách mạng. Qua nhân vật Thơm, Nguyễn Huy Tưởng khẳng định rằng ngay cả khi gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng vẫn không thể bị tiêu diệt và nó vẫn có khả năng thức tỉnh quần chúng, ngay cả với những người ở vị trí trung gian.
Trong hồi 4, bản chất xấu xa của nhân vật Ngọc đã được tác giả miêu tả đầy đủ. Vốn chỉ là một gã thư ký quèn, địa vị thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn ham muốn địa vị, quyền lực và tiền tài. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân ở châu Bắc Sơn bị lật đổ, Ngọc thù hận cách mạng. Y cam tâm làm tay sai cho giặc, trực tiếp dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa.
Càng ngày, Ngọc càng bộc lộ bản chất tàn bạo. Y ra sức truy lùng cán bộ cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Để che giấu hành động xấu xa của mình, Ngọc ra sức chiều chuộng vợ. Tuy vậy, tâm địa và tham vọng đen tối của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước mắt Thơm, đặc biệt là khi Ngọc không giấu diếm thái độ ghen tức và ý đồ thẳng tay trừng trị “thằng Tốn” nào đó ở trong làng. Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không đơn thuần tập trung vào hắn những cái xấu, cái ác mà bên cạnh đó vẫn chú ý khắc họa tính cách riêng.
Kịch Bắc Sơn là một trong những tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về chủ đề cách mang, vở kịch ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò của các cán bộ cách mạng trong việc định hướng tư tưởng đấu tranh của nhân dân. Qua đó, tác giả biểu dương tinh thần yêu nước và ý chiến quật cường chiến đấu của quần chúng. Hồi IV của vở kịch là một trong những đoạn nổi bật nhất với tình huống gấp gáp, thể hiện bước ngoặt kịch tính về cả tâm lí nhân vật và diễn biến sự kiện. Tính bi tráng là hơi thở nổi bật của hồi kịch này, được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ dân tộc Tày tiêu biểu cho hàng ngàn quần chúng nhân dân đã và đang trên con đường giác ngộ cách mạng.
Tính bi tráng, bi là bi ai, buồn bã, cồn trắng là hùng tráng, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng. Bi tráng là đau thương, mất mát về một thời quá khứ oai hùng, vừa có tính bi thương, lại không hề kém phần gân guốc, hùng dũng. Trong vở kịch Bắc Sơn, tính bi tráng được thể hiện ở tinh thần cách mạng. bộc lộ qua những nút thắt tâm lí nhân vật và hình tượng nhân vật người phụ nữ đang trên con đường giác ngộ - cô Thơm. Chất anh hùng ca không được miêu tả trực tiếp, nhưng qua những cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, cái bi tráng được bộc lộ một cách rõ nét và ngày càng có xu hướng tăng tiến. Hồi năm của vở kịch kể về cảnh Ngọc dẫn Tây truy đuổi hai cán bộ Cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Rơi vào tình huống nguy kịch, hai người chạy trốn vào nhà anh Đốc người quen, ai ngờ lại đúng phải nhà tên Ngọc mới mua được. Cửu rút súng định bắn Thơm, vợ Ngọc vì cho rằng cô cũng là Việt gian nhưng Thái đã kịp ngăn cản vì tin rằng Thơm mang dòng máu yêu nước của cha cô. Đúng lúc ấy, Ngọc ghé qua nhà sau khi đã lùng sục nhà bà Lục, bác Chui,... Thơm nhanh trí đẩy hai cán bộ vào buồng và chỉ chỗ trốn, đồng thời tỏ ra bình thản trước mặt Ngọc để hắn không nghi ngờ và nhanh chóng rời đi
Tính bi tráng của vở kịch nằm ở mặt tình huống. Tình huống kịch tính, căng thẳng và hồi hộp. Thơm mang tiếng là vợ Việt gian, nhưng cô lại là người che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng. Trái với suy nghĩ "Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian" của anh Cửu, đứng trước áp lực Ngọc chuẩn bị vào nhà, tiếng chó săn sủa râm ran, tiếng chân người rầm rập, Thơm lo lắng: "Chết nổi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?". Bản thân cô thực sự lo lắng, cố gắng tìm cách giúp đỡ hại cán bộ cách mạng. Bị đẩy vào tình huống nguy cấp, Thơm bộc lộ tính cách quyết liệt, khéo léo và có bước ngoặt tâm lý rõ ràng trên con đường giác ngộ Cách mạng. Lời nói như lời thề: "Tôi không bảo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hai ông đâu" là đỉnh cao của tính bi tráng về mặt tình huống của vở kịch. Cái bi tráng ở đây là chất anh hùng trong sự cùng khổ, trong tình huống khó khăn ngàn cân treo sợi tóc, những con người một lòng vì Cách mạng đã thể hiện tinh thần quả cảm, không đầu hàng trước khó khăn thử thách. "Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại''. khép lại tình huống đầy căng thẳng, kịch tính. Vợ một tên Việt gian sừng sỏ đã che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng cho thấy, Thơm đã hoàn toàn giác ngộ, thể hiện tấm lòng của nhân dân với đường lối của Đảng.
Tính bi tráng cũng thể hiện ở xung đột giữa Thơm và Ngọc. Trong từng hành động và lời nói, Ngọc dần bộc lộ bản mặt bán nước, một tay sai đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi lùng bắt cán bộ. Hắn được thưởng rất nhiều tiền từ việc làm bất nhân tính của hắn, hắn mơ hàm cửu phẩm, lúc nào cũng nghĩ đến danh tính: "Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!". Ngoài ra, hắn còn đặt điều bôi nhọ anh Thái, phá bỏ hình tượng về anh Thái trong mắt Thơm. Với Thơm, anh Thái là người "bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng", "cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!", như Ngọc lại bịa đặt: "mật thám cho Tây đấy ", lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là "hai cái thằng tướng cướp. Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng". Chính từ những mâu thuẫn về mặt tư tưởng giữa Thơm và Ngọc như vậy đã gây ra những xung đột tâm lý từ phía Thơm. Khi ông Thái và anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm, ở dưới là lý trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục và cả Ngọc, chồng của Thơm, tình huống này đã thể hiện tính bi tráng điển hình. Ngọc chần chừ trong nhà, nán lại nói chuyện với Thơm, đếm tiền, cười cợt, ngắm vợ, rồi còn thốt lên: "Chắc là nó còn ở đấy, nhất định là nó còn ở đấy!...". Đứng trước tình huống như vậy, Thơm không tỏ ra sốt ruột dù trong lòng như lửa đốt mà tỏ ra rất nhẹ nhàng, tình cảm, dùng lời nói ngọt ngào:"Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức" thể hiện thái độ ân cần, quan tâm, đồng thời khéo léo thúc đẩy Ngọc đi: "Thế nào có đi không?" lúc nghe tiếng quan gọi. Thơm đóng kịch giỏi hay là vì quá lo lắng cho hai cán bộ mà cô đã dìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Qua mắt được tên Việt gian khôn ngoan, mà người đó còn là chồng mình, tác giả đã thể hiện tâm trạng nhân vật đầy tính bi tráng, trong khó khăn, gian khổ nhưng luôn ứng biến kịp thời, lộ rõ chất anh hùng, dũng cảm chảy trong huyết thống.
Tính bi tráng trong hồi IV vở kịch Bắc Sơn được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ nhân vật đến tình huống. Nói về tính bi tráng trong khuôn khổ Vũ Lăng nói riêng hay chính là toàn thể lãnh thổ Việt Nam, những người chiến sĩ nhân dân dũng cảm, không ngại xả thân vì đất nước. Bằng ngòi bút sắc sảo và cách xây dựng tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự tin tưởng vào con đường cách mạng - con đường duy nhất để đi tới độc lập dân tộc, đồng thời thể hiện sự thương yêu và trân trọng với những người thật thà, chân phương mà giàu sức sống, giàu lòng quyết chiến quyết thắng.