TOP 18 bài Phân tích hai khổ thơ đầu bài Viếng lăng bác 2023 SIÊU HAY

Tailieumoi.vn xin giới thiếu bài văn mẫu Phân tích hai khổ thơ đầu bài Viếng lăng bác hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau:

Mời các bạn đón xem:

Video bài văn mẫu Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác

Dàn ý Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác

a) Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

  • Viễn Phương (1928 - 2005) là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
  • Bài thơ Viếng lăng Bác (1976) không chỉ là nén hương thơm thành kính dâng lên Bác Hồ kính yêu mà còn là khúc tâm tình sâu nặng của Viễn Phương thay mặt đồng bào miền Nam gửi đến Bác trong những ngày đầu thống nhất.

- Dẫn dắt, giới thiệu 2 khổ thơ đầu: Hai khổ thơ đã bộc lộ tâm trạng nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre bên lăng Bác, cảnh vật quanh lăng và đoàn người vào viếng lăng.

b) Thân bài

* Khái quát về bài thơ

  • Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1976 khi Viễn Phương được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và lăng Bác vừa được hoàn thành.
  • Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sắc của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến thăm lăng Bác.

* Phân tích hai khổ thơ đầu

Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác

- “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” -> lời tự giới thiệu như lời tâm tình nhẹ nhàng.

  • Cách xưng hô “con - Bác” thân thương, gần gũi, diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
  • “Con” ở đây cũng là cả miền Nam, là tất cả tấm lòng của đồng bào Nam Bộ đang hướng về Bác, hướng về vị cha già kính yêu của dân tộc với một niềm xúc động lớn lao.
  • Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” một cách tinh tế -> Cách nói giảm, nói tránh nhằm làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát.

=> Bác đã mãi mãi ra đi nhưng hình ảnh của Người vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc.

- Cảnh quang quanh lăng Bác:

"...Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng."

+ Hình ảnh hàng tre

  • Trong màn sương trắng, hình ảnh gây ấn tượng nhất đối với tác giả là hàng tre.
  • Từ “hàng tre” được điệp lại hai lần trong khổ thơ gợi lên vẻ đẹp đẽ vô cùng của nó.
  • Phép nhân hóa trong dòng thơ: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” giúp hình ảnh hàng tre hiện lên càng thêm đẹp đẽ vô cùng.

=> Hình ảnh hàng tre là hình ảnh thực hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam; bên cạnh đó còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam kiên trung bất khuất.

  • Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn thử thách của lịch sử dân tộc tộc.
  • Dáng “đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng vô cùng mạnh mẽ.

=> Niềm xúc động và tự hào về đất nước, dân tộc, con người Nam Bộ, những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.

Khổ 2: Cảm xúc của nhà thơ trước dòng người vào lăng

- Hình ảnh vĩ đại khi bước đến gần lăng Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.

+ Cụm từ chỉ thời gian “ngày ngày” được lặp lại như muốn diễn tả hiện thực đang vận chuyển của thiên nhiên, vạn vật mà sự vận chuyển của mặt trời là một điển hình.

+ Hình ảnh "mặt trời"

  • “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực: mặt trời thiên tạo, là nguồn sáng của vũ trụ, gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống và ánh sáng.
  • “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ sáng tạo và độc đáo: hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh của dân tộc ta.

- Hình ảnh dòng người đang tuần tự tiến vào thăm lăng Bác:

+ Tác giả đã liên tưởng đó là “tràng hoa” được kết từ dòng người đang tuần tự, trang nghiêm bước vào viếng lăng, như đang dâng hương hoa lòng thơm ngát lên Bác kính yêu.

=> Sự tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc và nỗi tiếc thương vô hạn của muôn dân đối với Bác.

* Đặc sắc nghệ thuật trong khổ 1, 2

  • Cảm xúc dâng trào, cách diễn đạt thật chân thật, tha thiết
  • Hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ
  • Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng.
  • Hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm, tạo nên niềm đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.

c) Kết bài

  • Đánh giá khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của 2 khổ thơ

Bài văn Phân tích khổ hai bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, văn

Sơ đồ tư duy Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 1

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ. Ông sáng tác không nhiều song cũng đã để lại cho đời những tình cảm thiết tha đối với cuộc sống với quê hương, đất nước. Viễn Phương cũng là người có may mắn được nhiều năm sống và làm việc gần gũi với Bác Hồ. Đặc biệt, đối với Bác Hồ kính yêu, nhà thơ đã có nhiều bài thơ thể hiện lòng luyến thương tiếc nhớ khâm phục tự hào về Bác Hồ. 2 khổ thơ đầu bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện sâu sắc tình cảm ấy:

“Con ở miền Nam thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân…”

“Viếng Lăng Bác” được nhà thơ Viễn Phương sáng tác năm 1976 khi ông được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và lăng Bác vừa được hoàn thành. Bài thơ đã được viết bằng thể thơ tự do mang âm hưởng của thể thơ tám chữ với giọng điệu thơ tha thiết, lời thơ chân thành giàu cảm xúc. Bằng bút pháp nghệ thuật như thế, cả bài thơ nói chung, hai khổ thơ trên nói riêng đã góp phần ngợi ca công sức của Bác cùng niềm tôn kính, yêu thương, khâm phục, tự hào của nhà thơ đối với vị cha già dân tộc.

Phân tích khổ 1, 2 Viếng lăng Bác ngắn gọn (5 mẫu) - Văn 9

Mở đầu bài thơ Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc của mình qua lời tự giới thiệu như lời tâm tình nhẹ nhàng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.

Đại từ nhân xưng “con”, “Bác” nghe sao ngọt ngào thân thương, gần gũi đến thế. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.

“Con” ở đây cũng là cả miền Nam, là tất cả tấm lòng của đồng bào Nam Bộ đang hướng về Bác, hướng về vị cha già kính yêu của dân tộc với một niềm xúc động lớn lao. Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” một cách tinh tế. “Viếng” là đến chia buồn với thân nhân người chết, thành kính phân ưu cùng tang chủ. Còn “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống, là cuộc hội ngộ được mong ngóng từ lâu ngày.

Đây là cách nói giảm, nói tránh nhằm làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Bác đã mãi mãi ra đi nhưng hình ảnh của Người vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc, đồng thời ý thơ còn gợi sự thân mật, gần gũi như đưa con phương xa về thăm cha, thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu để tìm lại chính mình trong nỗi đau thương vô tận.

Đọc lên câu thơ, ta không không khỏi nghẹn ngào. Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của đồng bào miền Nam, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

Với niềm sung sướng dâng trào, với niềm vui chất ngất Viễn Phương đã tập trung chiêm ngưỡng cảnh quan quanh lăng Bác:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Bằng bút pháp tả thực, tác giả đã giúp ta hình dung một hiện thực trong màu sương trắng mờ ảo, cảnh quan quanh lăng Bác hiện ra thật lung linh mà cũng vô cùng thú vị. Màn sương trắng là dấu hiệu của cảnh trời hãy còn sớm tinh mơ. Ấy thế mà tác giả đã có mặt tự bao giờ! Điều đó chứng tỏ Viễn Phương đã rất mong mỏi và cũng rất háo hức khi được đến thăm lăng Bác dù chỉ qua việc viếng lăng.

Trong màn sương trắng, hình ảnh gây ấn tượng nhất đối với Viễn Phương là hàng tre. Từ “hàng tre” được điệp lại hai lần trong khổ thơ. Nhờ phép dùng điệp ngữ ấy, hàng tre hiện lên vẻ đẹp đẽ vô cùng. Nó đẹp trong sắc “xanh xanh” thật tươi thắm. Kết hợp phép nhân hóa vận dụng trong dòng thơ: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” giúp hình ảnh hàng tre hiện lên càng thêm đẹp đẽ vô cùng.

Trước hết, hàng tre là hình ảnh thực hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam kiên trung bất khuất. Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn thử thách của lịch sử dân tộc tộc. Dáng “đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng vô cùng mạnh mẽ.

Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong lớp lớp thời gian.

Nhắc tới hình ảnh hàng tre ta không thể quên đó là một loại vũ khí vốn gắn bó với truyền thống đánh giặc thật hào hùng của dân tộc Việt Nam thân yêu này. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ cụm tre ngà đánh tan giặc Ân còn đọng lại trong kí ức dân tộc biết bao cảm xúc. Ngô Quyền dùng cọc tre tạo thành trận địa mai phục đánh chìm tàu thuyền quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm nào khiến cho kẻ thù đến trăm năm sau còn kinh hồn bạt vía.

Biết bao gậy gộc tầm vong những cây chông dài vót nhọn được nhân dân, bộ đội ta vận dụng để đánh Pháp, chống Mỹ dưới lá cờ cách mạng do Bác lãnh đạo trở thành biểu tượng của tinh thần vượt khó của nhân dân ta. Nó tái hiện lại cả quá khứ hào hùng, lẫm liệt; gợi nhớ đến những chiến công hiển hách của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Nó làm hiện ra trước mắt người đọc những đau thương, mất mát, sự hi sinh của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống xâm lược và âm mưu đồng hóa của kẻ thù.

Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. Với cảm xúc dâng trào ấy, nhà thơ đã thả hồn liên tưởng tới hình ảnh vĩ đại khi bước đến gần lăng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”

Khổ thơ được bắt đầu bằng cụm từ chỉ thời gian: “ngày ngày” vận dụng như một điệp ngữ như muốn diễn tả hiện thực đang vận chuyển của thiên nhiên, vạn vật mà sự vận chuyển của mặt trời là một điển hình. Để diễn tả sự vận chuyển của mặt trời, Viễn Phương đã viết: “Mặt trời đi qua” và “thấy”. Hầu như Viễn Phương đã có chuyển tự nhiên chính là hoạt động “đi” của con người. Hiện thực ấy kết hợp với điệp ngữ “ngày ngày” như muốn trở thành một chứng nhân đang say sưa ngắm nhìn một đối nhân thật đẹp mà từ “thấy” đã góp phần khẳng định phép nhân hóa thật tài tình của nhà thơ đối với hình ảnh mặt trời tự nhiên ấy.

Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là nguồn sáng của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống và ánh sáng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” còn là một ẩn dụ đầy sáng tạo và độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh.

Ở Bác Hồ là sự kết tinh của tình yêu thương ấm áp, là ý chí vượt khó, là tinh thần bất khuất, là niềm tin tất thắng. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quang vinh, trọn vẹn. Ý thơ vừa góp phần đề cao tầm vóc vĩ đại của Bác, đồng thời cũng đã miêu tả được thái độ đầy tôn kính của nhà thơ đối với Bác. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.

Nhìn dòng người đang tuần tự tiến vào thăm lăng Bác Viễn Phương đã liên tưởng đó là “tràng hoa”. Một lần nữa nhà thơ đã kết hợp hai hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi nhau để miêu tả sự nhớ thương của nhân dân đối với Bác và đồng thời cũng khắc họa công ơn Bác:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”.

“Tràng hoa” được kết từ dòng người đang tuần tự, trang nghiêm bước vào viếng lăng như đang dâng hương hoa lòng thơm ngát lên Bác kính yêu. Điệp ngữ “ngày ngày” cùng cấu trúc câu giống hình thức của câu thơ trước đã góp phần miêu tả thời gian cứ dần trôi qua còn dòng người cứ đến viếng lăng Bác không hết.

Hình ảnh ấy còn góp phần thể hiện tấm lòng yêu kính, biết ơn của muôn dân đối với Bác. Để rồi, cuối cùng bằng những hình ảnh hoán dụ: “bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương đã trân trọng ngợi ca cả cuộc đời Bác là một trường ca xuân đem lại cho đời, cho người niềm hạnh phúc ấm no. Hình ảnh hoán dụ ấy đồng thời cũng bày tỏ lòng tri ân của tác giả mà cũng là của tất cả mọi người đối với Bác.

Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác, nối kết nhau như những tràng hoa bất tận dâng lên Người. Những tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” là 79 năm cuộc đời của Người với sự thành kính và mến yêu vô hạn.

Tóm lại, bằng những cảm xúc dâng trào, cách diễn đạt thật chân thật, tha thiết với các hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung các khổ thơ, nói trên riêng là tình cảm yêu thương, kính trọng của nhà thơ, cũng là của đồng bào cả nước đối với Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm, tạo nên niềm đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.

Ngày nay, yêu kính, nhớ ơn Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức bồi đắp, xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em xin luôn tâm niệm lời nhắn nhủ của Bác “Non sông Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu” mà cố gắng chăm ngoan ra sức học tập, rèn luyện tốt nhân cách đạo đức, mai sau góp công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 2

Sinh thời Hồ Chí Minh vừa là một nhà văn, một nhà thơ vừa là một nhà hoạt động Cách mạng. Sự cống hiến của Người dành cho dân tộc Việt Nam là khôn kể. Chính sự hi sinh độ lượng ấy đã làm nên một Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm trí hàng triệu người dân Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế để rồi bức tượng đài hùng vĩ về Người đã dần đi vào thơ ca một cách rất đỗi tự nhiên. Có thi nhân viết về Bác với những công lao vĩ đại, cũng có những thi nhân đi sâu vào ca ngợi tài năng thơ ca, con người Bác còn Viễn Phương lại khác. Ông đã chọn cho mình một cách viết rất riêng. Đó là dòng cảm xúc của một lần tới lăng viếng Bác qua bài thơ “Viếng lăng Bác” mà trong đó hai khổ thơ đầu đã bộc lộ cảm xúc của tác giả lần đầu vào lăng viếng Bác.

Mở đầu bài thơ như một lời kể rất đỗi tự nhiên:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

“Con” – “Bác” cách xưng hô sao mà gần gũi, thân thiết đến thế? Không phải đến đây để viếng mà là để “thăm”. Chữ “thăm” là cách nói giảm, nói tránh vô cùng tinh tế, nó giúp giảm bớt đi sự mất mát, đau thương. Câu thơ mở đầu hướng ta đến với hình ảnh một người con lâu ngày mới có dịp về thăm người cha già kính yêu của mình. Về nơi đây, người con ấy còn thấy:

“Đã thấy trong sương hàng tre xanh bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng"

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác

Ba câu thơ là ba biện pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Từ láy “xanh xanh, bát ngát”, thành ngữ “bão táp mưa sa”, biện pháp nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã cùng nhau làm nên cái hồn cho một hàng tre vốn vô hồn. Mỗi câu thơ hiện ra dần hay hơn, có hồn hơn khi đặc tả sức sống gan góc, kiên cường của hàng tre xanh bát ngát một màu. Và ở đây, tre xanh không chỉ còn là loài cây thân thẳng nữa mà nó đã được biến thành biểu tượng tượng trưng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường. Ẩn sâu trong ý thơ là niềm tự hào còn xen lẫn cả sự bồi hồi, xúc động.

Bước sang khổ thơ thứ hai là những hình ảnh hoàn toàn quen thuộc nhưng được diễn tả với một giọng thơ đầy mới lạ:

“Ngày ngày mặt trời đi qua lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Nếu mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ tỏa ánh nắng rực rỡ, chói chang xuống nơi trần gian, ban tặng sự sống đến muôn loài, vạn vật thì mặt trời trong câu thơ tiếp theo lại là hình ảnh ẩn dụ cho Bác. Người là vị cha già vĩ đại của dân tộc, là người dẫn dắt cách mạng Việt Nam cập bến vinh quang. Bác là mặt trời đang ngự trị trong lăng để hàng ngày mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ đi qua phải ngắm nhìn mặt trời của dân tộc Việt Nam. Ví Bác như mặt trời nhằm ca ngợi công lao của Bác với dân tộc Việt Nam và Bác vĩnh viễn hóa, bất tử hóa trong lòng người Việt Nam. Bên cạnh hình ảnh mặt trời tráng lệ còn là dòng người nối tiếp:

“Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Với điệp từ “Ngày ngày” kết hợp cùng hai từ “dòng người” đã diễn tả hình ảnh lặp đi lặp lại thường xuyên, liên tục, là sự nối tiếp không dừng lại của đoàn người vào lăng. Và cũng thông qua hai nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ tác giả đã vẽ nên bức tranh dòng người đang lần lượt xếp hàng thành vòng tròn để dâng lên cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân là dâng lên Người những thành quả đã gặt hái được.

Như vậy xuyên suốt hai khổ thơ là những cảm nhận rất thực và vô cùng tinh tế của Viễn Phương trong một lần vào lăng. Cảm xúc ấy khi thì bồi hồi, xúc động, tự hào, khi lại vô cùng biết ơn, thành kính. Hai khổ thơ cũng đã đưa ta về với hình ảnh rực rỡ của vị cha già vĩ đại, kính yêu ngàn đời còn sống mãi theo năm tháng, theo thời gian.

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 3

        Thời gian có thể phủ bụi dường như tất cả nhưng có những chân giá trị, những con người càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. Đã gần nửa thế kỉ trôi qua, Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho quốc gia, dân tộc – vẫn chiếm trọn tình cảm của mỗi người con Việt Nam. “Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị. Màu quê hương bền bỉ đậm đà. Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…” (Tố Hữu). Và một lần nữa, ta lại không khỏi bồi hồi trước những dòng thơ trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ chính là tấm lòng “tủy cốt chung tình” nhất không chỉ của tác giả, mà còn của toàn thể đồng bào Việt.

        Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”… Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ” Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn Phương đã thể hiện rất rõ điều đó.

        Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1976 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, niềm thành kính và biết ơn của nhà thơ cũng như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi lẽ đó, bài thơ cũng được coi như một nén tâm hương chân thành dâng lên Người. Trước hết có thể thấy hiện lên ở khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, niềm xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa nỗi lòng của thi nhân:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

        Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô “con -Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt. Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp về thăm vị cha già kính yêu. Với từ “thăm”- một cách nói giảm nói tránh, tác giả cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói với tự lòng mình: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”, trong “từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).

        Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh tả thực, hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả sử dụng để bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre: “Ôi! Hàng trẻ xanh xanh Việt Nam”. Đó là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp cho người dân Việt Nam, là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam trải qua “bão táp mưa sa”- thành ngữ chỉ muôn vàn khó khăn gian khổ để rồi thi nhân như khẳng định chắc nịch rằng: mỗi cây trẻ như một con người Việt Nam bền bỉ, kiên trung, vững vàng nay trở về kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của Bác. Ba hình ảnh đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị: Lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình với những con người bình dị, gần gũi vô cùng.

        Chầm chậm theo dòng người vào trong lăng, nơi Bác đang yên nghỉ, tâm hồn nhà thơ chứa chan lòng thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc đối với Bác Hồ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

        “Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên ngày ngày sưởi ấm Trái Đất, mang lại sự sống cho vạn vật muôn loài. Tác giả cũng nhận ra, trong lăng cũng có một “mặt trời”, một “mặt trời rất đỏ”. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự do huy hoàng. Đồng thời phép ẩn dụ cũng như một cách thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả với Bác Hồ.

        Cụm từ “ngày ngày” đã khẳng định quy luật bất biến của con người cũng như tự nhiên: nơi lăng Bác dòng người nối dài vô tận không ngừng nghỉ, lặng lẽ, kính cẩn, trang nghiêm để được vào lăng viếng Bác. Dòng người ấy là tấm gương điển hình trên các mặt trận lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần 60 dân tộc anh em từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc tụ họp lại đây. Họ kết thành hình ảnh một “tràng hoa”- hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa tượng trưng cho những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt Nam thành kính dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Phép ẩn dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn đạt ý tứ sâu xa: bảy mươi chín tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc đời đẹp và tràn đầy ý nghĩa. Bác đã đem lại cho ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập tự do và hạnh phúc.

        Với những cảm xúc và suy nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:

Vì sao trái đất nặng ân tình

Nhắc mãi tên Người Hồ Chí Minh.

        Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, cho dù cố giấu đi những dòng cảm xúc ấy nhưng vẫn đủ sức lay động trái tim của hàng triệu người:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

        Vẫn là phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên”, tác giả như cố gắng muốn xua đi sự thật phũ phàng: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện trước mắt độc giả hình ảnh chân thực: Bác đang nằm trên kính, ánh đèn hồng chiếu xuống khiến cho gương mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu hiền như vầng trăng. “Trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến vừa là hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện sự bất diệt và trường tồn của thiên nhiên. Kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao”, tác giả như muốn lấy quy luật của tự nhiên để khẳng định quy luật của con người, nhằm tự trấn an lòng mình: vẫn biết Bác luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật phũ phàng rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác giả thấy “nghe nhói ở trong tim”. Từ “nghe nhói” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách rõ nét nhất cảm giác đau đớn tột cùng của tác giả khi nghĩ sự thật rằng Bác không còn nữa. Đó là nỗi đau quá lớn khiến tác giả không giấu nổi nghẹn ngào.

        Có lẽ cũng bởi vậy mà mới nghĩ đến việc ngày mai phải xa Bác kính yêu, lòng tác giả và những đứa con miền Nam đã dâng niềm xúc động bồi hổi:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

        Lời thơ nghẹn ngào, nức nở, cảm xúc nhớ thương được bộc lộ một cách trực tiếp, “thương trào nước mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông như đang nói hộ tâm lòng của muôn vàn những trái tim ấm nóng khác khi phải xa chốn thiêng liêng. Để rút ngắn khoảng cách không gian, nhà thơ đã bày tỏ niềm ước muốn chân thành, thiết tha, xúc động bằng một loạt các động từ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên đầy ẩn dụ tượng trưng: làm con chim để dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây trẻ thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó không chỉ là hình ảnh tinh túy của thiên nhiên mà còn là hình ảnh kết tinh vẻ đẹp sức sống con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm nhường, không ồn ào khoa trương, ước nguyện của nhà thơ cũng là ước nguyện của chúng ta: Ai cũng muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó dẫu là nhỏ bé cho Bác vui lòng.

        Đặc biệt hơn cả là hình ảnh “cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ tạo ra kết cấu dầu cuối tương ứng. Đồng thời còn là hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ mang ý nghĩa khái quát, nhất là đặt trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, câu thơ khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam.“Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác. Cứ thế, bước chân đi nhưng lòng còn níu lại. Cảm xúc của nhà thơ thật chân thành, xúc động đã chạm vào dây đồng cảm của tất cả chúng ta.

        Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về hồ chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã để lại dòng cảm xúc xót thương biết bao trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua bởi thành công rực rỡ về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng. Trong đó, đặc sắc nhất là những biện pháp như: nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ… được tác giả sử dụng linh hoạt, hiệu quả cao về giá trị thẩm mỹ. Bài thơ bởi lẽ đó đã mang đến cho ta những cảm xúc sâu sắc về Bác Hồ kính yêu với những công lao vĩ đại mà Người đã cống hiến, hy sinh cho dân tộc. Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành nén tâm hương thành kính của nhà thơ cũng như của nhân dân cả nước kính dâng lên Bác. Bên cạnh đó, Viễn Phương đã góp phần lớn của mình vào đề tài ca ngợi lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân thành, lắng đọng trong lòng người đọc.

        Với giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào, bài thơ thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Cùng với rất nhiều bài thơ ca ngợi Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng. Bài thơ đã thể hiện trong lòng ta những cảm xúc tự hào, biết ơn vô hạn với vị cha già vĩ đại của dân tộc.

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 4

Viễn Phương là nhà thơ miền Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Thơ của ông bình dị mà trữ tình, mộc mạc chân chất nhưng nhẹ nhàng sâu lắng.

Top 6 bài Phân tích hai khổ thơ đầu bài Viếng lăng bác 2022 hay nhất (ảnh 1)

Tháng 4 năm 1976, lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương được ra miền Bắc viếng thăm lăng Bác. Bao cảm xúc yêu thương dồn nén trào dâng thành những vần thơ thành kính trang nghiêm. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời ngay sau đó và nhanh chóng đi vào lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, tha thiết của nhà thơ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã bộc lộ tâm trạng nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre bên lăng Bác và cảnh vật quanh lăng.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Cảm hứng bao trùm trong thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm lăng Bác. Nguồn cảm hứng ấy chi phối cả giọng điệu của bài thơ: thành kính, suy tư, trầm lắng xen lẫn niềm đau xót, tự hào. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự không gian từ xa tới gần. Bài thơ được mở đầu bằng lời tâm sự:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Từ xưng hô “con” trong câu thơ mang đậm chất Nam Bộ, thể hiện tình cảm yêu thương kính trọng của của nhà thơ đối với Bác. Cách xưng hô nghe vừa chân chất mộc mạc lại vừa gần gũi thân tình. Đó là tiếng xưng hô yêu thương không chỉ của nhà thơ mà còn là của nhân dân miền Nam đối với Bác. Trong tâm khảm của mọi người, Bác là một người cha vĩ đại:

Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ

(Tố Hữu)

Cụm từ “ở miền Nam” gợi lên tình cảm thân thương ruột thịt giữa Bác với đồng bào miền Nam, mảnh đất thành đồng chống Mĩ, nơi Bác bắt đầu bước hành trình đi tìm đường cứu nước:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha

(Tố Hữu)

Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương như muốn nói với Bác: Con ở miền Nam… Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác. Và hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp qua màn sương mờ buổi sớm chính là bóng dáng quen thuộc của làng quê:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ yên bình của Bác. Hàng tre xanh mộc mạc và bình dị của quê hương được nhà thơ nhấn mạnh:

Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam

Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc trào dâng khi bắt gặp hình ảnh thân thiết của quê nhà. Từ gợi tả “xanh xanh” đảo ra phía trước như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của quê hương, dân tộc. Màu xanh ấy đã được nhà thơ Nguyễn Duy ca ngợi:

Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh

(Tre Việt Nam)

Quả thật, đi suốt chiều dài của đất nước Việt Nam, từ miền ngược đến miền xuôi, nơi nào ta cũng thấy bóng dáng của làng quê qua hình ảnh hàng tre quen thuộc: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… Đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” – (Cây tre, Thép Mới). Cho nên, giữa muôn ngàn cây và hoa bên lăng Bác, Viễn Phương chọn hình ảnh hàng tre để miêu tả không phải ngẫu nhiên mà là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.

Từ màu xanh đầy sức sống của hàng tre, nhà thơ liên hệ đến phẩm chất cao đẹp của con người:

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Cây tre mộc mạc giản dị là thế, nhưng lại kiên cường bất khuất không hề khuất phục trước bão giông:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vươn, tay níu tre gần nhau hơn

(Tre Việt Nam)

Phẩm chất của tre gần gũi với phẩm chất của người dân Việt, chân chất bình dị trong cuộc sống lao động, nhưng lại anh hùng bất khuất trong cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà. Hòa vào dòng người đang tiến dần đến trước lăng, mạch suy tưởng của nhà thơ tiếp tục dâng trào khi đứng giữa quảng trường Ba Đình rộng lớn:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ai đã từng viếng lăng Bác mới cảm nhận hết hàm ý ẩn chứa trong hai câu thơ trên của Viễn Phương. Nếu hình ảnh “mặt trời trên lăng” là bút pháp tả thực để chỉ một thực thể trong vũ trụ thì “mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác. Một hình ảnh đối chiếu đầy sáng tạo để ca ngợi sự vĩ đại của Bác Hồ. Mặt trời là nguồn sống của muôn loài vạn vật khi nó mang lại ánh sáng và hơi ấm khắp hành tinh. Bác Hồ kính yêu cũng là người mang lại ánh sáng Cách mạng từ Luận cương của Lênin soi sáng trên bầu trời đêm của những cuộc đời tối tăm, nô lệ.

Thật ra, việc so sánh Bác với hình ảnh mặt trời không phải là phát hiện mới của Viễn Phương. Trước đây, trong ca dao kháng chiến chúng ta cũng từng bắt gặp cách so sánh tương tự:

Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương

Nhưng sáng tạo của Viễn Phương chính là hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ”, để từ đó khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại biết chừng nào! Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ Bác khôn nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.

Ngày ngày… ngày ngày…, sự lặp lại của thời gian, cũng là sự lặp lại của lòng thương nhớ. Cứ mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng Bác, thì mỗi ngày dòng người như bất tận lại nối tiếp nhau vào lăng dâng lên Người những đóa hoa đời tươi thắm nhất. Tình cảm của người dân Việt Nam đối với Bác đã trở thành chân lí như vòng tuần hoàn của thời gian.​

Tóm lại, chỉ qua hai khổ thơ, Viễn Phương đã bộc lộ được cảm xúc trào dâng của mình khi lần đầu tiên được viếng thăm lăng Bác. Những hình ảnh trong thơ được xây dựng bằng rung cảm thiết tha của nhà thơ. Từ đó, tác giả bộc lộ tình cảm chân thành, bình dị mà tha thiết của mình đối với Bác. Đó cũng là tình cảm chung của nhân dân miền Nam dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 5

Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già đáng kính của cả dân tộc Việt Nam. Vì thế, sự ra đi của Bác là một sự mất mát to lớn của toàn thể dân tộc. Đã có rất nhiều vần thơ thể hiện lòng nhớ thương của những người con Việt Nam đối với Bác. Tuy là một bài thơ ra đời khá muộn, nhưng "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương vẫn để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng, bởi đó là tình cảm của một người con miền Nam lần đầu được gặp Bác. Toàn bài thơ là một lời tâm sự thiết tha, là nỗi lòng thành kính và tha thiết của một người con miền Nam đối với Bác Hồ.

Bài thơ được mở đầu như một lời thông báo nhưng dạt dào tình cảm:

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"

Từ miền Nam xa xôi, Viễn Phương cùng các chiến sĩ ra thủ đô Hà Nội để thăm lăng Bác. Đây là một cuộc hành hương xa xôi cách trở. Khi đến lăng Bác, nhà thơ bồi hồi xúc động. Câu thơ thể hiện tình cảm thiết tha của một người con miền Nam qua cách xưng hô gần gũi, mang đậm chất Nam Bộ: "Con - Bác".

Đứng từ xa ngắm nhìn lăng Bác, hình ảnh hàng tre bát ngát hiện lên trong màn sương huyền ảo của bầu trời Hà Nội. Từ lâu, lũy tre xanh đã trở thành một nét đẹp của làng quê Việt Nam. Tre là người bạn thân thiết, luôn giúp đỡ con người trong mọi công việc: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín". Nhưng ở đây, hình ảnh hàng tre không chỉ dừng lại ở tầng nghĩa đó, hàng tre ở đây được so sánh ngầm với con người và đất nước Việt Nam. Tre luôn đoàn kết, gắn bó tạo nên một lũy thành kiên cường thách thức gió mưa, giông bão.

Tre là hình ảnh tượng trưng cho tình đoàn kết, cho khí thái hiên ngang, bất khuất và dũng cảm chiến đấu với kẻ thù của người Việt Nam. Tre luôn đứng thẳng như con người Việt Nam thà chết đứng chứ không chịu sống quỳ. Biểu tượng đẹp đẽ ấy được nhà thơ chọn lọc miêu tả quanh lăng Bác, như cả dân tộc Việt Nam vẫn đang sát cánh bên Bác. Hàng tre Việt Nam ấy, phải chăng là hình ảnh của những người con Việt Nam đang quây quần bên vị cha già đáng kính đang đi vào giấc ngủ an lành? Hình ảnh tượng trưng có ý nghĩa biết bao!

Tiến gần hơn đến lăng Bác, nhà thơ bắt gặp hình ảnh mặt trời đỏ rực trên lăng:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"

Mặt trời rực sáng đem đến sự sống, đem đến ánh sáng tươi đẹp cho trái đất. Nếu mặt trời trong câu thơ thứ nhất là một hình ảnh thực, là một vật thể không thể thiếu của vũ trụ, thì mặt trời trong câu thơ thứ hai lại là một hình ảnh ẩn dụ được nhà thơ sử dụng một cách sáng tạo. Bác như một vầng thái dương sáng ngời, chiếu rọi ánh sáng cách mạng vào tâm hồn để vực dậy sự sống tươi đẹp cho những con người đắm chìm trong bóng đêm nô lệ. Bác là người đã dẫn dắt con đường cách mạng cho toàn thể dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Vì thế, Bác là một mặt trời vẫn luôn ngời sáng, sưởi ấm cho linh hồn của những người con Việt Nam:

"Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già"

(Tố Hữu)

Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Ta nhận thấy cụm từ "ngày ngày" được điệp lại một lần nữa. "Ngày ngày" là sự lặp đi lặp lại, không thay đổi. Điệp lại cụm từ này, có lẽ nhà thơ muốn nhấn mạnh một chân lý. Nếu mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng, tỏa ánh sáng sưởi ấm vạn vật là một điệp khúc không thay đổi của thời gian, thì công ơn của Bác ngự trị trong lòng người dân Việt Nam cũng không phai nhòa theo năm tháng, và hình ảnh dòng người ngày ngày vào viếng lăng Bác cũng đã trở thành một điệp khúc của lòng kính yêu Bác. "Tràng hoa" cũng là một hình ảnh ẩn dụ sáng tạo của nhà thơ. Mỗi người con Việt Nam là một đóa hoa tươi thắm, hàng triệu con người Việt Nam sẽ trở thành một tràng hoa rực rỡ sắc màu dâng lên Bác. Hình ảnh hoán dụ "bảy mươi chín mùa xuân" tượng trưng cho bảy mươi chín năm Bác đã cống hiến cuộc đời cho đất nước, cho cách mạng.

Mỗi tuổi đời của Bác là một mùa xuân tươi đẹp dâng hiến cho Tổ quốc. Và giờ đây, Bác chính là mùa xuân còn dòng người là những đóa hoa tươi thắm. Hoa nở giữa mùa xuân, một hình ảnh đẹp đẽ, ý nghĩa biết bao!

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 6

“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!”

(Bác ơi – Tố Hữu)

Khi Bác mất, có không ít nhà thơ đã bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn của mình đối với vị cha già, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Viễn Phương cũng không ngoại lệ, ông đã góp vào kho tàng thơ văn Việt Nam một bài thơ khiến người đọc cứ lưu luyến mãi: là bài “Viếng lăng Bác”. Đặc biệt, hai khổ đầu của bài thơ để lại cho ta những cảm xúc bồi hồi lạ thường:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Bài thơ mở đầu với lời giới thiệu đậm chất ngôn ngữ Nam Bộ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này thật đặc biệt. Đó là cách xưng hô “Con” – “Bác” rất gần gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xoá tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi người, Bác là người cha kính yêu:

“Người là Cha, là Bác, là Anh.
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ ”

(Sáng tháng năm – Tố Hữu)

Cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết rằng người con ấy đến từ một nơi rất xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, đón Bác vào thăm. Cụm từ ấy như thông báo cho Bác biết rằng: miền Nam máu mủ ruột thịt giờ đây đã được giải phóng rồi Bác ơi! Khi còn sống Bác vẫn nhớ miền Nam da diết, mong ngày được vào thăm miền Nam thân thương:

“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”

(Miền Trung nhớ Bác – Tố Hữu)

Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh, đối lập giữa lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật hiện tại vẫn là thể. Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"

Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào về hàng tre trước lăng Bác. Với biện pháp ẩn dụ hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ của Bác. “Hàng tre xanh xanh” mộc mạc như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của tre hay dân tộc Việt Nam. Cái “xanh” ấy cũng đã được tác giả Nguyễn Duy nhắc đến trong thơ của mình:

“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Từ ngày xưa đã có bờ tre xanh"

Quả thật, đi suốt chiều dài lịch sử, đâu đâu ta cũng thấy bóng tre thấp thoáng. Tre của Thép Mới “giữ nhà, giữ cửa, giữ túp lều tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre anh hùng chống giặc ngoại xâm, luỹ tre làng còn là nơi tâm tình, hò hẹn của những đôi trai gái. Khi dần tiến tới lăng Bác, cảnh vật xung quanh Viễn Phương lại thay đổi:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ ”

Ai đã từng vào thăm lăng Bác mới cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ này. “Mặt trời trong lăng” vừa là bút pháp tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ. Mặt trời là nguồn sáng của vạn vật khi nó mang ánh sáng đến khắp hành tinh. Bác Hồ là người đem lại ánh sáng khắp dân tộc, soi sáng bầu trời đêm của những cuộc đời tăm tối, nô lệ. Thật ra, việc so sánh Bác với hình ảnh mặt trời không chỉ là phát hiện của Viễn Phương mà chúng ta đã từng bắt gặp điều này ở trong ca dao kháng chiến:

“Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương’’

Cùng với mặt trời đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

“Người là hoa của đất trời” – Dòng người đi thăm lăng Bác được ví như những bông hoa tươi đẹp, rạng rỡ, “kết thành tràng hoa” dâng lên Bác.

Bài thơ là hình ảnh ẩn dụ đẹp, từ ngữ giản dị mà cô đúc, nhà thơ đã bộc lộ hết tình cảm của mình đối với vị cha già kính yêu của dân tộc – Bác Hồ. Còn riêng bản thân, em luôn khắc sâu trong tim mình hình ảnh của Bác. Em hứa với lòng mình sẽ cố gắng học giỏi, thực hiện tốt năm điều Bác đã dạy để xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ thân thương.

Mở bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.

Mở bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 2

Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh: là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.

Mở bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 3

Trong những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa, “Viếng lăng Bác”của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cảm xúc chân thành, thiết tha, sâu lắng.

Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 1

Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc. bác đã hi sinh cả cuộc đời của mình để bảo vệ và xây dựng tổ quốc khỏi tay của những kẻ xâm lăng. Bác mất đi đó chính là nỗi đau buồn của toàn dân tộc. Những người con từ khắp mọi nơi tới để cũng ở bên cạnh Bác, thăm Bác an nghỉ lẫn cuối cùng. Và trong chuyến đi thăm Lăng bác, nhà thơ Viễn Phương viết nên những vần thơ ấm đượm tình cảm thiêng liêng dành cho Bác- vị cha già kình yêu của dân tộc.

Con ở miền Nam ra thăm lăng bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Mở đầu bài thơ là hình ảnh của những người con ra thăm Bác. Đại từ nhân xưng “ con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. hình ảnh những hàng tre xanh đứng thẳng tắp, hình ảnh của những làng quê Việt Nam hiện lên trong mắt của người đọc. Bác là con người giản dị đến thế, thương yêu con dân tới thế. Bác mất đi, ở cạnh bác không phải là những loài hoa đắt tiền mà là những hàng tre xanh ngắt, thể hiện ý chỉ, nghị lực của những người con Việt nam, luôn bền bỉ với những sức sống mãnh liệt.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh của hai mặt trời. Mặt trời đầu tiên là mặt trời mang nghĩa đen, là hiện tượng của tự nhiên. Còn mặt trời trong câu thơ thứ hai là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ. Bởi trong lòng của những người con của Tổ quốc thì Bác là duy nhất. Nếu như ánh mặt trời sưởi ấm vạn vật thì Bác cũng là mặt trời sưởi ấm cõi lòng của những người con Việt Nam và cũng mang tới ánh sáng cho cuộc đời của họ. Để rồi, trong lòng của nhân dân, hình ảnh của Bác chưa bao giờ bị mất đi, Bác vẫn được những người con của mình kết những tràng hoa đẹp nhất để nhớ tới bảy mươi chín tuổi xuân của mình.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Cho dù trong lòng của mỗi người con đều cho rằng, Bác vẫn còn ở nơi đây mãi mãi, thế nhưng chúng ta vẫn không thể quên được một điều rằng Bác đã thực sự ra đi mãi mãi. Khiến cho tác gia “ nghe nhói ở trong tim”. Những người con lúc này chỉ mong một điều là Bác đã có được những bình an thực sực của cuộc sống bởi khi còn ở trên đời này, lúc nào Bác cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của những người con, người cháu của đất nước. giờ đây, Bác luôn được an tình, được nghi ngơi, nhưng sao những cảm xúc ấy vẫn như nhói lên trong lòng mà không thể nào xua tan đi được.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Khổ thơ cuối, tác giả như thoát ra những cảm xúc đã ở mức tột cùng. Hàng loạt những từ “ muốn làm” như nói lên suy nghĩ của tác giả. Biện pháp liệt kê như được sử dụng trong toàn đoạn thơ như nói lên những tâm tư, tình cảm của tác giả. Ngày mai phải xa Bác rồi, nhưng tác giả vẫn còn rất nhiều những lưu luyến ở nơi đây, không muốn phải trở về, chỉ muốn làm những bông hoa, làm con chim để ngày ngày dược ở bên cạnh, canh lăng cho Bác ngủ.

Tóm lại, bài thơ là những tình cảm sâu sắc của tác giả đối với bác hồ- vị cha già của dân ộc. Lời nói, lời ước của tác giả cũng chính là tiếng lòng của tất cả những người con trên toàn đất nước. Hình ảnh của người cha luôn hết lòng hi sinh vì đất nước để giúp cho đất nước được giải phóng khỏi những áp bức và chèn ép, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. bài thơ là một bức tâm tình giàu chất trữ tình, đằm thắm và thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tuy bây giờ bác đã đĩa những những phẩm chất cao đẹp và những cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng của Bác sẽ luôn sống mãi trong lòng những con người đất Việt.

Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác – Mẫu 2

Con người ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân trường cửu cho đất nước, cho dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát.

Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”... Nhà thơ Viễn Phương đã thật tinh tế và sâu sắc khi liên tưởng ánh trăng với vầng trăng tri kỉ của Bác. Nhịp điệu câu trở nên dồn dập với điệp ngữ "muốn làm" nhắc lại đến ba lần đã nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: "con chim" dâng tiếng hót, "bông hoa" dâng hương thơm, "cây tre trung hiếu" canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều ở bên lăng, quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.

Sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:

Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết 'ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa" vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử

Được viết năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác trong một lần vào lăng viếng Bác.

"Viếng lăng Bác" được viết trên một cảm hứng thơ cụ thể và xúc động. Bố cục bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ khi nhanh khi chậm. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

Câu thơ gợi một không khí ấm áp gần gũi. Và tác giả đã tăng sự gần gũi đó không phải chỉ bởi những câu thơ bình dị mà còn là việc sử dụng hình ảnh cây tre. Gắn bó với làng quê Việt Nam, tre đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng người Việt. Tác giả đặt lăng Bác trong màu xanh của xứ sở nơi mà ở đó có những con người anh dũng, kiên cường "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ thứ hai cũng rất độc đáo. Viễn Phương đã dùng hình ảnh mặt trời trên lăng để nói đến Mặt Trời trong lăng là Bác. Cái trường tồn, vĩnh cửu của Mặt Trời đã được nhà thơ sử dụng để nói sự bất diệt, vĩ đại của Bác.

Và đồng thời nó cũng thể hiện sự tôn kính của tác giả đối với Bác. Từ "rất đỏ” nói lên hình ảnh rực rỡ trái tim cách mạng của Bác. Cùng với hình ảnh Mặt Trời - trong lăng là hình ảnh tràng hoa - dòng người đã diễn tả sâu sắc niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân ta đối với sự ra đi của Bác:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.

Lý trí bảo rằng Bác sẽ luôn sống với non sông như bầu trời xanh kia mãi mãi, nhưng Viễn Phương không thể không đau nhói trước sự ra đi ấy:

"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.”

Một chữ "nhói" mà nói lên được tấm lòng của đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác - cũng là tấm lòng của miền Nam, của cả nước đối với Bác kính yêu. Cảm xúc của tác giả lại dâng trào đến đỉnh điểm khi phải rời xa lăng Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Giọng thơ trầm lắng thể hiện sự lưu luyến của Viễn Phương: chân thành và xúc động. Bỗng giọng thơ trở nên dồn dập bởi điệp từ “muốn làm”. Đó là tất cả ước nguyện của tác giả:

"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."

Những ước nguyện đó thật giản dị, mong muốn được mãi mãi gần gũi Bác, được mãi mãi đi theo lý tưởng của Người là tâm niệm không chỉ của riêng nhà thơ. Hình ảnh cây tre trung hiếu đã khép lại bài thơ, một kết nối vòng tròn rất hay. Tre là hình ảnh mở đầu và cũng là hình ảnh cuối cùng. Nó như khắc sâu phẩm chất người Việt Nam trung hiếu anh hùng.

Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát. Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”

Lời thơ tự do khi nhanh, khi chậm cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp đã tạo nên cho mạch cảm xúc chân thành sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là một sự đóng góp quý báu trong những bài thơ ngợi ca về Bác - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác.

Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 1

Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ Viếng lăng Bác là một bài thơ như thế, bằng tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã viết nên những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác.

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát"

Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính. Sau bao khát khao mong ước, hôm nay người con ấy có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như thỏa lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu.

Nơi miền Nam xa xôi, người con ấy mang cả trái tim của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo người, ấm áp biết bao. Đứng trước lăng là hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn hiên ngang, đứng bên người, chở che cho người.

"Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"

Từ cảm xúc khi đứng trước lăng, tác giả bồi hồi nghĩ về con dân đất Việt. Những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung, cây tre là biểu tượng là hồn cốt của dân tộc Việt. Người Việt Nam vẫn luôn sáng ngời bởi sự gắn bó bền chặt, ý chí kiên cường, dẫu bão táp mưa sa, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn hiên ngang, ngạy thẳng, thủy chung. Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc. Theo dòng người, vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng thương nhớ xúc động hơn bao giờ hết.

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"

Nếu ánh mặt trời của thiên nhiên ngày ngày vẫn miệt mài "đi" bên Bác, vẫn dõi theo người, ánh mặt trời ấy mang sự sống, mang nguồn ánh sáng rực rỡ cho muôn loài trên thế gian. Thì Bác cũng như ánh mặt trời ấy, diệu kì và đẹp đẽ biết bao, Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thơ, chứa chan niềm tôn kính của nhà thơ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".

Bác vẫn ở đấy thôi, chúng con từ khắp mọi miền đến bên người. Ngày ngày những dòng người vào thăm Bác trong niềm xúc động, nhớ thương khôn nguôi. Niềm yêu thương ấy kết thành những tràng hoa đẹp nhất, rực rỡ nhất dâng lên người. Cuộc đời dân tộc nở hoa dưới nhân cách và công lao vĩ đại của Người.

Bác đã hiến trọn bảy mươi chín mùa xuân đẹp đẽ nhất cho dân tộc cho cách mạng, Bác đã làm nên mùa xuân mới cho đất nước, cho muôn dân. Càng vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng khó tả, càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh người:

"Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Mà sao nghe nhói ở trong tim".

Bác đang yên nghỉ giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu, ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm áp và dịu dàng, là kẻ tri âm tri kỉ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách vĩ đại của người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của muôn người, nhưng thực tại cũng khiến tác giả không khỏi đau lòng được.

Không buồn sao được, không thổn thức, tiếc thương sao được khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên sao mà nhói lòng, mà thổn thức đến vậy. Càng bên Bác, tình cảm lại càng dạt dào, càng bứt rứt, quyến luyến chẳng muốn rời xa. Từng phút giây thiêng liêng được bên Người là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, khi nghĩ đến việc phải xa Người lại không thể ngăn được những dòng nước mắt nuối tiếc, bịn rịn.

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Ước nguyện giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người. Từ “muốn làm” lặp đi lặp lại như diễn tả nỗi khát khao khôn nguôi được ở lại với Người, được bên Người thật lâu. Là con chim cất cao tiếng hót giữa bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngào ngạt, là cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Mong ước ấy đâu chỉ riêng của Viễn Phương mà còn là tiếng lòng, là khát khao, ước nguyện của tất cả mọi người còn trên đất nước này gửi đến Bác.

"Bác Hồ - người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy, phô trương. “Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế.

Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 2

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác” để bộc lộ lòng thành kính, biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Đến với khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khác họa đôi nét về hình ảnh thiên nhiên bên ngoài lăng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”

Câu thơ mở đầu là lời giới thiệu đầy thân tình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng “con” - gọi “bác” cho thấy sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, vượt trăm ngàn cây số đến đây với mong muốn được gặp Bác Hồ - người cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát nhưng vẫn chẳng thể che giấu được sự ly biệt. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất của người Việt Nam. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” - ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre, dù trải qua giông bão vùi dập vẫn “đứng thẳng hàng” - vẫn ngay thẳng, hiên ngang và luôn tràn đầy sự sống.

Đến khổ thơ tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hai hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” - đó là mặt trời của tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” - hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác đã đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân ta, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Chẳng thể nào nói hết được lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài vô tận, cũng giống như nỗi nhớ dành cho Người. Cụm từ “ngày ngày” được điệp lại hai lần tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về đây, vào trong lăng viếng Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng viếng Bác. Dù đã ra đi, nhưng Người đã để lại cho nhân dân một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ khó có thể nguôi ngoai.

Và rồi không gian và thời gian như ngừng chuyển động trước hình ảnh của Người:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào yên giấc khi mà đất nước, nhân dân đang chịu sự cai trị của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà, thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn tạm quên đi sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ đang nằm trong một giấc ngủ dài vô tận thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” - hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, bình yên. Người quả thật không mất đi mà chỉ đang ngủ thôi, Người vẫn còn sống với nhân dân, với đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi - trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Dẫu biết vậy, mà sao vẫn “nghe nhói ở trong tim” - vẫn cảm thấy xót xa, tiếc nuối vô cùng.

Và lời cuối cùng trước khi trở về, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Đó là lời hứa mà nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Nhà thơ muốn “làm con chim hót quanh lăng Bác”, “đóa hoa tỏa hương đâu đây”, “cây tre trung hiếu chốn này”. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều muốn được gần bên Bác, tận trung tận hiếu với Người.

Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, người đọc mới thấy được tình cảm sâu nặng mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mà nhà thơ chỉ là người nói thay tấm lòng ấy.

Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước ta. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã ra thăm lăng Bác. Cảm xúc dâng trào, nhà thơ đã làm một bài thơ như một lời bộc bạch chân tình của hàng triệu người con miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xúc động.

Hai khổ thơ đầu là những dòng cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi được lần đầu đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xúc động khi sắp đc kề cận bên Người cha thân yêu của dân tộc. Bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, ngôn ngữ bình dị mà hàm súc, tinh tế, đoạn thơ đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc vô cùng sâu sắc. Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ Tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý....

Bài thơ được phân chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiên nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Câu thơ đầu tiên thật ngắn gọn nhưng nó lại là một lời tâm sự chân tình của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu to lớn đối với Bác. Bác thật gần gũi với người dân, như là một vị cha già của dân tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù hung bạo trở về trong đại gia đình Việt Nam đây Bác ơi! Nhà thơ mong nhìn thấy Bác một lần sau khi đất nước đã giải phóng nhưng thật đau xót, Bác đã không còn. Vì vậy, từ “viếng” đã được nhà thơ thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống mãi.

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Thu hút sự chú ý của nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bác. Cây tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiên cường nhưng giản dị, thanh cao của người dân Việt Nam - đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lòng tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát - Hàng tre xanh xanh - Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hiệu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre trùm bóng mát rượi lên bao thế hệ cuộc đời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Ở Bác có tất cả những gì mà những con người Việt Nam từng có, cũng cái dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cái kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức sống mãnh liệt, cho dù những thử thách của thiên nhiên, của lịch sử có khắc nghiệt cách mấy thì vẫn kiên cường chống chọi, và vẫn cố gắng đứng thẳng chứ nhất quyết không chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như ru giấc ngủ ngàn thu của Bác, gắn bó mãi mãi với Bác như dân tộc Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.

Đến gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng thì tác giả có thêm nhiều cảm xúc mới.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Hai câu thơ sinh động với nhiều hình ảnh gợi cảm được tạo nên từ những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi với nhau. Một mặt trời thực đi qua trên lăng, là mặt trời của tự nhiên, của muôn loài, soi sáng cho muôn loài, đem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khác hiện ra trong lăng rất đỏ. Bác nằm trong lăng với ánh sáng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bác tồn tại vĩnh cửu trong lòng mỗi người dân Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bác soi sáng đường cho dân tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giành độc lập của Tổ quốc. Bác giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp sống nô lệ, trở thành một con người tự do để bây giờ được hạnh phúc. Công lao của Bác đối với dân tộc ta cũng như mặt trời, to lớn không kể xiết. Bác là một mặt trời. Cái ẩn dụ mặt trời ở đây không biết đã đủ nói về Bác? Không, nếu nói Bác là mặt trời thì phải nhấn mạnh thêm cho rõ các đặc tính của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cái mặt trời đang tỏa sáng trên cao kia, cái mặt trời của thiên nhiên, tượng trưng của nguồn nóng, nguồn sáng, nguồn sự sống ấy, không phải bao giờ cũng nguyên vẹn thế đâu, không phải lúc nào cũng ấm nóng! Vầng mặt trời ấy có thể bị bóng đêm lấn át. Nhưng vầng mặt trời Bác Hồ của ta thì mãi mãi đỏ thắm, mãi mãi là nguồn sưởi ấm, nguồn sáng soi đường cho con người Việt Nam. Hôm nay có hai mặt trời chiếu rọi trên đường đời: một mặt trời tỏa sáng trước mặt, một mặt trời tỏa sáng tâm hồn… Như mặt trời kia, Bác thuộc về vĩnh cửu. Bác sẽ sống mãi trong lòng mỗi con người Việt Nam.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Cùng với mặt trời đi qua trên lăng, ngày ngày dòng người vẫn đi qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý nói rằng nhân dân ta mãi luôn ghi nhớ công lao to lớn của Bác, mãi mãi là như vậy. Nhịp thơ của đoạn chậm, diễn tả đúng tâm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng chờ đến lượt vào, ngậm ngùi tưởng nhớ đến Bác đã khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chân người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao câu thơ vẫn không buồn? Phải rồi. Chúng ta không làm cái việc tưởng niệm bình thường với Bác như một người đã khuất. Dòng người đang đi đây là đang đi trong cuộc hành trình ngợi ca vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang này không phải được kết bằng những bông hoa bình thường như mọi tràng hoa vinh hiển khác trên đời đâu. Tràng hoa đây là một hình ảnh ẩn dụ của tác giả, đó chính là những đóa hoa thật sự của đời, là đàn con mà Bác đã cố công tạo nên suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác sống trên đời. Những bông hoa trong vườn Bác nay đã lớn lên, nở rộ ngát hương kính dâng lên Bác.

Vào bên trong lăng Bác, thấy Bác đang nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tù đày, đến “cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”… Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lý lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được? Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kỳ trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thúc, ngừng lặng toàn…Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điệu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.

Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những công ơn to lớn của Bác không bị bỏ phí.

Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 2

Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.

Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh. Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.

Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc. Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.

Khổ thơ thứ ba miêu tả sự bình yên của Bác.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.

Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếng thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Viễn Phương (1928 - 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.

- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ.

- Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước.

- Một số tác phẩm chính: Chiến thắng hòa bình (trường ca, 1952), Anh hùng mìn gạt (truyện kí, 1968), Mắt sáng học trò (thơ, 1970), Như mây mùa xuân (1978), Quê hương địa đạo (truyện và kí, 1981), Sắc lụa Trữ La (1988)...

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành.

- Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông dã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác và in trong tập Như mây mùa xuân (thơ, 1978).

2. Bố cục      

- Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng

- Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác

- Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài Bác

- Khổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về

3. Nội dung chính

Bài thơ là cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng, cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác. Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài Bác và những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về

4. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm, miêu tả

5. Thể thơ: Thể thơ 8 chữ

6. Giá trị nội dung

- Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. 

7. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ bảy chữ

- Giọng điệu thơ trang trọng tha thiết

- Nhiều hình ảnh thơ đẹp lãng mạn gợi nhiều xúc cảm

 

Tài liệu có 31 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống