Sơ đồ tư duy bài Ánh trăng (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 10 4.3 K 7

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Ánh trăng hay nhất, gồm 10 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Ánh trăng Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Ánh trăng dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:

ÁNH TRĂNG

Bài giảng: Ánh trăng

A. Sơ đồ tư duy bài thơ Ánh trăng

Sơ đồ tư duy bài thơ Ánh trăng dễ nhớ, ngắn gọn mới nhất

Sơ đồ tư duy bài thơ Ánh trăng dễ nhớ, ngắn gọn mới nhất

B. Tìm hiểu bài thơ Ánh trăng

I. Tác giả

- Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hóa.

- Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán.

- Thơ ông giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư.

II. Tác phẩm

1. Thể loại, phương thức biểu đạt chính

Thể loại: Thơ 5 chữ

Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm, tự sự

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Xuất xứ: Bài thơ in trong tập Ánh trăng (1984)

Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ ra đời năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đây là thế hệ từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, từng sống gắn bó với thiên nhiên tình nghĩa. Nhưng khi được sống trong cuộc sống hòa bình, giữa những tiện nghi hiện đại, người ta dễ quên những gian lao, tình nghĩa của một thời đã qua. Bài thơ Ánh trăng được viết trong bối cảnh cảm xúc đó, là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy trước sự lãng quên ấy.

3. Chủ đề

4. Bố cục

- Khổ 1,2, 3: Kí ức về vầng trăng

- Khổ 4,5,6: Suy ngẫm về vầng trăng

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu. từ đó gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

6. Giá trị nghệ thuật

- Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự.

- Hình ảnh giàu tính biểu cảm, hình tượng

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả (tên, phong cách sáng tác/cuộc đời), tác phẩm (chủ đề/ hoàn cảnh sáng tác/ nội dung/ nghệ thuật).

- Nêu nhận xét, cảm nhận của bản thân

2. Thân bài

a. Nhan đề bài thơ: Ánh trăng

- Ánh trăng -> tia sáng gợi nhắc, đánh thức, soi rọi vào nơi khất lấp trong tâm hồn con người.

- Ánh trăng hướng con người đến với lẽ sống tốt đẹp; biết ơn, thủy chung…

- Hình tượng nghệ thuật -> ánh sáng của lương tâm

b. Kí ức về vầng trăng

- Khổ 1: Quá khứ sống hài hòa cùng thiên nhiên tươi đẹp. Từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành đều gắn liền với vầng trăng. Trăng thành tri kỉ

   + Giọng kể tâm tình, điệp ngữ “hồi”, “với”

   + Không gian rộng lớn: “đồng, sông, bể, rừng”

- Khổ 2: Mối quan hệ gắn bó giữa con người với thiên nhiên

   + Phép so sánh -> sự hồn nhiên, trong sáng, cao đẹp của vầng trăng.

   + Từ “ngỡ” báo hiệu sẽ có sự chuyển mạch cảm xúc, tâm trạng

- Khổ 3: Hoàn cảnh sống thay đổi, tâm tình con người cũng thay đổi

   + Vầng trăng thành “người dưng”, phép so sánh -> sự xót xa, chạnh lòng.

c. Suy ngẫm về vầng trăng

- Khổ 4: Bước ngoặt của sự việc, cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa người và trăng

   + Từ láy “thình lình”, “đột ngột” + phép đảo ngữ đèn điện tắt thình lình

   + Động từ “vội”, “bật tung”

   + Vầng trăng tròn: vẫn vẹn nguyên và thủy chung

- Khổ 5: cuộc gặp gỡ giữa trăng và người -> nhân vật trữ tình đối diện với góc khuất trong tâm hồn, nhìn nhận lại lương tâm

   + “rưng rưng” : xúc động nghẹn ngào, hối hận

   + “đồng”, “bể” : quá khứ hồn nhiên, đẹp đẽ

- Khổ 6: suy ngẫm về hình ảnh vầng trăng

   + “tròn vành vạnh” : quá khữ nghĩa tình vẹn nguyên, vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng

   + “im phăng phắc” : sự bao dung, làm cho con người phải suy ngẫm

   + “giật mình” : sự bình tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm tốt đẹp.

   + Giong thơ trầm lắng

d. Khái quát nghệ thuật

   + Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự

   + Hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát, giàu tính biểu cảm, hình tượng

3. Kết bài

- Đánh giá ý nghĩa bài thơ, nêu cảm nhận chung

IV. Bài phân tích

Nguyễn Duy là nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chát triết lý, thường hướng về chiều sâu nội tâm. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của ông là bài thơ “Ánh trăng”. Bài thơ được sáng tác năm 1978, khi những người lính đã trở về với cuộc sống đời thời được ba năm. Đến với "Ánh Trăng" của Nguyễn Duy, ta lại bắt gặp một tư tưởng thấm đẫm giá trị nhân văn; trăng ở đây là ánh trăng của quá khứ thuỷ chung, bất diệt; là người bạn nghĩa tình, tri kỉ; là bài học sâu sắc.

Nhan đề “Ánh trăng” là một nhan đề thơ mộng, giàu ý nghĩa. Ánh trăng không chỉ là vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên bình dị, hồn nhiên, trong sáng mà nó còn là thứ ánh sáng kì diệu. Ánh sáng ấy có thể soi rọi vào góc tối của con người, đánh thức lương tâm của con người, làm sáng bừng lên cả một quá khứ đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương. Thứ ánh sáng trong trẻo, dịu hiền của trăng hướng con người ta đến với lẽ sống tốt đẹp, đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. Ánh trăng xuất hiện xuyên suốt bài thơ, là một hình tượng nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa sâu sắc trong tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là kí ức của tác giả về vầng trăng.

"Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ"

Lời thơ thủ thỉ, tâm tình như đang kể cho chúng ta nghe những kỉ niệm quá khứ giữa người và trăng. Điệp ngữ "hồi” gợi ra quãng thời gian dài của kí ức, từ lúc ấu thơ cho đến những năm tháng trưởng thành. Cứ mỗi lần từ “hồi” vang lên là những kỉ niệm thân thương lại như sóng ào ạt xô về trong một khoảng không gian bao la, rộng lớn. Cái không gian ấy là "đồng'', là ''sông'', là ''bể", là một không gian còn khó khăn nhưng êm đềm, bình dị, con người được hòa mình với thiên nhiên trong niềm hạnh phúc ngọt ngào. Điệp từ "với" lặp lại ba lần càng tô đậm sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tình nghĩa. Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc chúng ta thấy hình ảnh vầng trăng đang được trải ra trong cái không gian êm đềm, hạnh phúc, đẹp đẽ của tuổi thơ. Những kí ức tuổi thơ thật đẹp làm sao! Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có một tuổi thơ gắn liền với ông trăng sáng tỏ:

Trăng ơi… từ đâu đến?

Hay từ cánh rừng xa

Trăng hồng như quả chín

Lửng lơ lên trước nhà

Hai câu thơ tiếp theo kể nhắc đến chuyện lúc chiến tranh, ánh trăng lại cùng người lính trải qua biết bao những năm tháng gian khổ của đất nước, để vượt lên mọi khó khăn, mọi sự tàn phá của quân thù và cùng trở thành “tri kỉ”. Nghệ thuật nhân hóa đã khẳng định mối quan hệ tình nghĩa giữa vầng trăng với con người, làm cho trăng và người xích lại gần nhau, gắn bó với thấu hiểu nhau hơn. Khi ở chiến trường đầy khó khăn, thiếu thốn, người chiến sĩ vẫn có “trăng” bên cạnh để chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ, cùng hân hoan trong niềm vui chiến trắng, cùng khắc khoải, bồn chồn trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Hình ảnh này gợi nhắc đến câu thơ của Phạm Tiến Duật:

“Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến

Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo”

Chính vì vậy mà, những ngày tháng tuổi thơ, những năm tháng kháng chiến đã trở thành kí ức chan hoà, tình nghĩa với nhân vật trữ tình.

Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và vầng trăng còn được thể hiện rõ hơn trong khổ thơ thứ hai

"Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa."

Từ láy “trần trụi” cùng với phép liên tưởng đầy nghệ thuật "trần trụi với thiên nhiên" , kết hợp với lối so sánh độc đáo "hồn nhiên như cây cỏ" đã cho người đọc ấn tượng với mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên dường như không có khoảng cách, sống gắn bó, hòa quện với nhau. Vầng trăng trong sáng, vô tư như tuổi thơ, thật thà, chân chất như lòng nhiệt huyết sục sôi của người lính trẻ. Vì vậy mà, nhân vật trữ tình đã tự hứa với lòng mình sẽ không bap giờ quên vầng trăng tình nghĩa ấy. Câu thơ như bị ngưng lại bởi từ “ngỡ”, nó báo trước một bước chuyển biến trong câu chuyện cũng như tâm tình của nhà thơ.

Chiến tranh tàn khốc qua đi, đời sống con người yên ổn hơn nhưng lúc này lòng người cũng không còn như xưa nữa.

"Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường"

“Từ hồi về thành phố” tức là từ khi chiến tranh qua đi, những gian khổ lùi lại, con người được sống trong hòa bình, sung túc, tiện nghi: “ánh điện”, “cửa gương”. Con người đã vô tình quên đi ánh sáng tự nhiên, vầng trăng tri kỉ năm nào nay chỉ còn là “người dưng qua đường”. Đau đớn, xót xa thay! Phép so sánh, nhân hóa đã diễn tả sự thật nghiệt ngã đến đau lòng. Vầng trăng kia vẫn luôn hiện hữu, đồng hành cùng con người nhưng con người đã quên trăng. Câu thơ mang ý nghĩa khái quát, khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người có thể quên đi những gian khổ, nhọc nhằn, quên đi quá khứ nghĩa tình.

Tuy nhiên, cuộc sống luôn nằm ngoài những ngẫu nhiên nằm ngoài dự đoán, toan tính của con người. Con người đã gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:

"Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn"

Từ láy “thình lình”, “đột ngột” đã miêu tả cái bất ngờ, ngẫu nhiên ấy. Đó là khi đèn mất, phòng tối, con người vốn đã quen với ánh trăng không thể chịu được tối tăm nơi căn phòng hiện tại. Hai động từ liên tiếp “vội, bật tung” đã diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương của con người khi tìm nguồn sáng. Chính khoảnh khắc ấy đã tạo nên bước ngoạt trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Vầng trăng đột ngột xuất hiện, tròn đầy, vẹn nguyên, thủy chung như thuở nào. Điều đó khiến người lĩnh ngỡ ngàng, bối rối:

"Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể

như là sông là rừng"

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: "ngửa mặt lên nhìn mặt". Người và trăng đối diện hay chính người đang đối diện với lòng mình, với những ân tình quá khứ mà mình đã quên lãng. Gặp lại vầng trăng, người lính “rưng rưng” xúc động. Đó là sự xúc động của những niềm thương, nỗi nhớ, của những lãng quên, lạnh nhạt với người bạn cố tri. Hình ảnh “sông”, “bể” được lặp lại cùng với phép so sánh và điệp cấu trúc “như là” gợi nhắc về những kỉ niệm của quá khứ gian lao, của thiên nhiên, đất nước bình dị. Trăng – đó là tuổi thơ, là kỉ niệm êm đềm, đẹp đẽ. Chính ánh sáng dịu hiền của trăng đã đánh thức bao tâm tình vấn vương bị bỏ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Đoàn Minh Hải:

 

“Khéo trách người sao quá phũ phàng

Lãng quên bao yêu thương tình tư”

Đến khổ thơ cuối, nhân vật trữ tình bộc lộ những suy ngẫm của mình về hình ảnh vầng trăng. Chắc hẳn, người lính ấy đã nhận ra giá trị cũng như vẻ đẹp vầng trăng- người bạn năm nào của mình:

"Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình"

Hình ảnh “trăng tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung, vẹn nguyên, bất diệt. Thế mà con người từ bao giờ lại lãng quên đến vô tình. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Chính cái im lặng nghiêm khắc, cái sự cao thượng ấy lại khiến cho bản thân con người phải “giật mình” thức tỉnh. Cả bài thơ không có nhân xưng, đến câu thơ cuối nhân vật trữ tình xưng “ta” nhữ một lời nhận lỗi, tạ tội với vầng trăng. Cái “ta giật mình” thật đáng quý biết bao! Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở, tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn, tìm lại cái đẹp trong tâm hồn. Con người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách, trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối, ăn năn đầy day dứt, cũng giống như câu thơ cuối bài thơ

Bài thơ có cách tổ chức câu thơ đặc biệt: không viết hoa chữ cái đầu dòng, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên trong khổ thơ; toàn bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết thúc. Điều đó giúp diễn tả dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình được tuôn chảy, liền mạch. Bài thơ như một câu chuyện nhỏ viết theo thể thơ năm chữ, biến đổi nhịp điệu linh hoạt, giọng thơ trầm lặng, suy tư, kết hợp hài hòa yếu tố tự sự và trữ tình… góp phần quan trọng trong việc truyền tải thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Nhờ đó bài thơ đi vào lòng người một cách tự nhiên, thấm thía vô cùng.

Giản dị mà sâu sắc, bài thơ như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của người lình gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý gợi nhắc mọi người thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ gian khổ, hào hùng, tình nghĩa. Đây không phải là câu chuyện riêng của một người mà là câu chuyện chung của cả một thế hệ, của chính chúng ta.

V. Một số lời bình về tác phẩm

* Bài thơ viết về ánh trăng mà nói chuyện đời; chuyện tình nghĩa. Tác giả chọn một lối viết giản dị, dễ hiểu.

… Qua bài thơ, tác giả đối thoại với chính mình và thủ thỉ tâm sự với bạn đọc. Cái lối của bài thơ là sự chân thành, sự rung động của một khoảnh khắc tâm tình rất thật.

(Nguyễn Bùi Vợi, Báo Văn nghệ số 16, ngày 19/04/1996)

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Ánh trăng

Phân tích bài thơ Ánh trăng năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Ánh trăng

1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

-  Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ. Sau 1975, những sáng tác của ông càng trở nên sâu sắc, đa nghĩa, thể hiện sự đa diện của cuộc sống.

-  Bài thơ nói tới hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhưng với một hơi thở hiện đại, mang nhiều suy tư, ý nghĩa ánh trăng trở nên khác biệt.

2, Thân bài

a, Con người trong quá khứ hòa mình với thiên nhiên, vầng trăng là tri kỉ

- Kí ức tuổi trẻ sống chan hòa với thiên nhiên, sống chân chất giản dị:

+ Lúc còn nhỏ: “sống với đồng”, “với sông”, “với bể”.

+ Trong thời chiến tranh: ở rừng, cuộc sống khó khăn thiếu thốn, tuy vất vả nhưng vẫn đầy nét thơ mộng vì có trăng làm tri kỷ.

⇒ thiên nhiên nuôi dưỡng tâm hồn con người trở nên thơ ngây, trong trẻo: “trần trụi”, “hồn nhiên” không đắn đo suy nghĩ, không toan tính thiệt hơn. Trong khó khăn con người sống đùm bọc nhau, che chở cho nhau như rừng như núi che chở cho quân dân khỏi kẻ thù.

- Hình ảnh trăng lúc đó là vầng trăng “tình nghĩa”, vầng trăng bầu bạn, vầng trăng hi vọng: theo chân con người trong những buổi hành quân, soi sáng con đường những đêm tối, đem lại cảm giác bình yên, an ủi như người thân.

b, Con người ở hiện tại lãng quên quá khứ

- Hoàn cảnh hiện tại: ở thành phố đầy đủ tiện nghi với “ánh điện cửa gương”, nhà cao tầng.

- Vị trí của trăng hiện tại: “Như người dưng qua đường”, trở nên nhỏ bé, xa lạ.

⇒ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa hai khổ thơ đầu với khổ thơ thứ ba tạo sự khác biệt, thay đổi một cách chớp nhoáng của hoàn cảnh sống, của lòng người.

c, Sự đối diện giữa trăng và người

- Hoàn cảnh: mất điện, sự tiện nghi của cuộc sống hiện đại đột ngột biến mất, quay trở về thuở quá khứ khó khăn, tăm tối ⇒ nhân vật mở cửa sổ và thấy vầng trăng tròn, tỏa sáng.

⇒ Tác giả sử dụng một loạt tính từ, động từ mạnh: thình lình, tối om, vội, bật tung, đột ngột.

- Sự đối diện giữa nhân vật với vầng trăng như đối diện với chính mình, với quá khứ:

+ Tư thế đối mặt: Ngửa mặt lên nhìn mặt

+ Vầng trăng gợi lại những kỉ niệm trong quá khứ: đồng, bể, sông, rừng – mỗi địa điểm gắn với đường đời của nhân vật đều có ánh trăng làm bạn.

+ Cảm xúc: trăng là hiện thân của tất cả những gì đã qua trong quá khứ, là tuổi thơ, là chiến tranh gian khổ nhưng hào hùng, là sự hi sinh xương máu nhưng đánh đổi lấy cuộc sống hiện tại tự do, đủ đầy. Nhân vật đã lãng quên tất cả, mải mê hưởng thụ cuộc sống mới, đến khi nhìn lại thì như đánh mất một phần bản thân mình, xúc động và hối hận.

d, Sự nhắc nhở, thức tỉnh con người không được quên giá trị truyền thống, không được quay lưng với quá khứ

- Sự bất biến của quá khứ, của giá trị truyền thống: Trăng vẫn luôn “tròn vành vạnh”, là vầng trăng của sự bao dung, tha thứ (“kể chi người vô tình”). Trăng không biết nói, cũng như quá khứ không biết trách móc kẻ vô tình: “kể chi”.

- Sự giật mình thức tỉnh của nhân vật: không ai trách móc anh ta, nhưng tự bản thân anh đã nhận ra sai lầm của mình khi lãng quên quá khứ, bao gồm cả những gì tốt đẹp, trong trẻo lẫn khó khăn, mất mát.

- Liên hệ so sánh với câu nói nổi tiếng của nhà thơ Gamzatov: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”

3, Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ:

- Bài thơ cho thấy những ý nghĩa khác của hình ảnh vầng trăng: vầng trăng còn mang ý nghĩa như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến cuộc sống của con người trong quá khứ.

- Bài thơ giàu tính triết luận, răn dạy con người không được lãng quên quá khứ, ghi nhớ nó với lòng biết ơn và lấy nó làm động lực phấn đấu cho tương lai.

Top 20 bài Phân tích bài thơ Ánh trăng hay nhất (ảnh 2)

 

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng – mẫu 1

“Văn chương chân chính dù sáng tác ở thời đại nào cũng góp phần gợi mở, định hướng giá trị sống cho con người hiện tại.” Quả thật vậy, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những bài học nhân sinh sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học chân chính khi gửi gắm tới bạn đọc bài học có giá trị muôn thời – bài học về lối sống ân nghĩa, thủy chung.Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này,Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm khó phai:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hổi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỷ”

Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian bao la, khoáng đạt. Không gian ấy cứ mỗi lúc được mở rộng hơn trước mắt chúng ta. Kèm theo đó là sự lớn khôn, trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới ngày nào chỉ là một đứa trẻ hồn nhiên nô đùa trên đồng ruộng sông nước quê hương vậy mà giờ đã trở thành người lính trường thành xông pha trận mạc gian khổ. Gắn bó thân thiết cùng với người lính, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn đồng hành, chia ngọt sẻ bùi cùng người lính trong suốt những đêm dài chiến dịch. Bởi vậy mà người lính năm xưa đã từng khẳng định:

“ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”

“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói ra điều này chứng tỏ người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi mãi bền chặt, không thể tách rời. tuy nhiên ngỡ không bao giờ quên có nghĩa là đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút ngậm ngùi, xót xa bởi những tình cảm gắn bó tưởng chừng không bao giờ thay đổi vậy mà giờ đã đổi thay. Dòng hồi tưởng về quá khứ khép lại nhưng cũng lại mở ra một bước ngoặt mới, tạo bước đệm để thể hiện được tư tưởng bài thơ.Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:

“vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn – đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.”

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng

Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.

Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng – mẫu 2

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ”

Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.Khép lại nhẹ nhàng đẹp như mơ trong quá khứ ngòi bút tác giả đưa ta đến với hiện tại, với những đổi thay, xa cách trong lòng người. Chiến tranh qua đi, người lính trở về guồng quay xô bồ và náo nhiệt của cuộc sống. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa ấm êm, con người ta dễ quay lưng lại với quá khứ vất vả, nghèo nàn, dù đó có là một quá khứ mơ mộng, đẹp đẽ và đáng quý. Quy luật ấy đi từ sự lãng quên, đổi thay quá nhanh của con người:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

“Ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa. Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!Sự lãng quên ấy có thể là mãi mãi nếu không có một chuyển biến bất ngờ: thành phố bị mất điện. Hoàn cảnh bài thơ là bước ngoặt tạo cảm xúc dâng trào, giúp nhà thơ bộc lộ rõ nét cảm xúc, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Tình huống tưởng như không có gì mới mẻ, lạ lẫm, nhất là những năm đầu giải phóng như thời điểm sáng tác bài thơ – năm 1978, nhưng đặt vào hoàn cảnh tác giả, nó làm nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Các từ ngữ “thình lình”, “vội”, “bật tung” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh; để rồi tất cả như sững lại, lặng đi bởi một vầng trăng tròn” “đột ngột” và lung linh. Chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi bật lên ý nghĩa tuyệt đẹp của toàn bài: con người vội vã, gấp gáp với cuộc sống hiện đại khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thì thật bàng hoàng, sững sờ. Đã có “ánh điện” sáng trưng, người ta đâu cần ánh trăng huyền diệu lờ mờ nữa, chỉ đến khi thứ ánh sáng nhân tạo kia mất đi, người ta mới nhận ra người bạn cũ từng nguyện mãi mãi không quên và sững người trước người bạn trăng tròn đầy, vẹn nguyên, luôn chung thủy đợi chờ. Khoảnh khắc người và trăng mặt đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên đến tràn đầy. Cuộc hội ngộ bất ngờ tạo rung động mạnh mẽ và thức tỉnh lương tâm con người; cái “đột ngột” không phải ở trăng, mà ở chính tâm trạng tác giả – tâm trạng thảng thốt, ngỡ ngàng của con người trước sự đổi thay của lòng mình và Sự vẹn tròn của trăng, để từ đó đi đến những day dứt, suy tư.Nếu như khổ thơ thứ tư đẩy tình huống thơ đến cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “rưng rưng” trong sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng”

...................................................

 

Tài liệu có 10 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống